ý kiến của các tác gỉa: nguyên sa. văn cao. đỗ qúy toàn. tô thùy yên. quỳnh thi. huệ thu. trần mộng tú. nguyễn thị thanh bình. hoàng lộc. triều hoa đại. hoàng xuân sơn. khánh hà. luân hoán. như chi. khánh trường. du tử lê. phan ni tấn. trang châu. thái tú hạp. lưu nguyễn. chu vương miện. đỗ kh. lâm chương. hà nguyên du. song hồ. nhất linh. yên thao. cao thoại châu. hoàng hương trang. xuân tùng. thương hoài thương. hà nguyên dũng. đỗ bạch mai. trịnh bích ba. phạm việt bằng. phùng thanh chủng. vũ huy long. băng sơn. huỳnh minh tâm. khắc thạch. dương thuấn. trương sĩ hùng. đặng nguyệt anh. trầm hương. lê khánh mai. nguyễn hoài nhơn. nguyễn lương ngọc. vĩnh nguyên. lê quốc hán. lê kim giao. hoàng việt thắng. nguyễn trung hiếu. văn trọng hùng. trương nam hương. nguyễn tấn sĩ. lê lâm. trần xuân an. lê hoài nguyên. trinh đường. ngô tịnh yên. chân phương. tường linh. phan xuân sinh, hoa thi, trân sa, đỗ trung quân, phan thị thanh nhàn, nguyễn quang thiều, thanh thảo, tuyết nga, phan huyền thư, ly hoàng ly, song vinh, vũ duy thông, trần huiền ân, thanh thảo, song hào, bằng việt, ...
Nhà thơ Nguyên Sa
1 .
trả lời nhà văn Nguyễn Nam Anh (Nguyễn Xuân Hoàng)
tạp chí Văn, số 13&14, xuân Mậu Dần 1998
...Làm thơ, với tôi, bao giờ cũng cần có cảm hứng, có cảm hứng
mới làm được thơ, không có cảm hứng thì chịu thua. Cảm hứng
đưa tôi vào thơ, thời gian này, cũng như hơn bốn thập niên,
luôn luôn đến đến từ sự xúc động chân thực. Có rung động
thực và rung động gỉa, cho nên có cảm hứng thực và cảm hứng
giả. Lúc hai mươi tuổi, đam mê tình ái mang thơ lại cho tôi. Tôi
nghĩ thơ tình thời học trò mà tôi nói chuyện suy tư về hữu thể
và hư vô là xúc động giả, sâu xa giả, thơ làm dáng không phải
thơ. Khi tuổi già đã tới, không còn đam mê tình ái, cánh cửa của
mỗi đời người sắp khép lại, những xúc động của những ngày
tháng đối diện với sự thật của kiếp người, một cuộc tình
hồi tưởng lại, một cuộc tình mơ ước, giọt sương mai mong
manh, cơn mưa đến muộn, buổi hoàng hôn nơi quê người, người bạn
thâm niên bỏ xứ vĩnh viễn...là nguồn cảm hứng hôm nay của
tôi. Cảm hứng xây trên xúc động chân thực luôn luôn đổi mới
cùng với kỹ thuật thi ca có suy nghĩ giúp cho sáng tạo tránh khỏi
nhắc lại chính mình.
2.
trả lời nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh
(Nguyên Sa, tác gỉa, tác phẩm 2 trang276-277)
Thơ không có cách nào làm rực rỡ hơn ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ
biểu lộ cảm xúc của mình và quan trọng nhất. Kỹ thuật cũng
như triết lý chỉ là phương cách phụ thuộc và là yếu tố hổ
trợ. Nó không làm rực rỡ thi ca. Triết lý không có vị trí
chính yếu trong thi ca ngoài vị trí chính yếu của nó trong triết
học.
Nếu chủ trương mang triết học vào thơ, nó sẽ không thành thơ mà
cũngchẳng thành triết lý. Triết lý phải có sân chơi riêng của
nó. Vì sao ? Thơ cũng như âm nhạc, cái nghĩa lý của nó không quan
trọng mà cái chính yếu là chính nó. âm nhạc hay chưa hẳn cần lời
ca hay, những tác phẩm âm nhạc lớn dều không lời. Nhạc là xúc
động chứ không là nghĩa lý. Xúc động vượt ra khỏi nghĩa lý của
tư tưởng và ngôn ngữ. Trong thơ, cái hay của nó là chính nó, vì
ngôn ngữ thơ là ‘sự vật’, không là ‘dấu chỉ’
Tôi xin cắt nghĩa điều đó. Chúng ta có ngôn ngữ chỉ đồ vật,
cái bàn, cái ghế; có động từ cười, giỡn, phản ảnh niềm
vui. Trong văn xuôi, tiếng nói, ngôn ngữ là dấu hiệu phản ảnh nội
dung. Như đèn đỏ đầu đường biểu hiện của dấu hiệu cấm
băng qua, chào bạn là dấu hiệu của sự thân ái. Văn xuôi là tiếng
nói biểu hiện nội dung, là dấu chỉ.
Nhưng thơ phải khác. Phân tích một câu, hoa cười ngọc thốt
đoan trang, không có ý nghĩa cười như hoa, lời như ngọc, như
trong văn xuôi. Hoa cười, chỉ là một hình ảnh có chất gợi nhớ
trong thơ. Nếu ra đường mà nói hoa cười với một cô gái thì chắc
rằng cô ta sẽ cho rằng đang nói chuyện với một thằng điên. Nhưng
hoa cười ngọc thốt đoan trang thì lại tuyệt vời trong thơ.
Thơ không phải là dấu hiệu phản ảnh một thực thể mà chính
nó là một thực thể. Thơ biểu lộ một thực tại khác (hiểu
theo nghĩa rộng). Thơ là một hữu thể riêng biệt.
Nhiều người đi tìm xem thơ phản ảnh điều gì. Phản ảnh là một
việc, thơ còn có một đời riêng, là chính nó, cái đó mới là
chính yếu. Khi tìm ra được cái gốc cốt lõi ấy rồi, thơ không
phải là cái khác như triết lý, chính trị nó phản ảnh. Như tượng
Phật, tượng Chúa, những biểu tượng tôn giáo...nó không đơn
thuần là một đồ vật mà nó là những điều thiêng liêng không
thể cắt nghĩa được. Ta không thể đơn giản hóa với thắc mắc
như định giá trị bằng bao nhiêu tiền hoặc chế tạo bằng gì,
mà phải chú ý đến phần biểu hiện của nó, thiêng liêng hơn.
3.
trả lời Nhà báo Lê đình Ðiểu
(tạp chí Thế Kỷ 21 số 105 & 106 tháng 1 &2-1998)
đầu tiên phải xác định rõ ràng rằng cái việc làm thơ mà
cách tân về hình thức thì có nhiều người làm không ? Tôi thấy
hình như chỉ có cụ Phan Khôi là cách tân về hình thức để làm
ra loại thơ mới, được hổ trợ bởi ông Thế Lữ. Còn Xuân Diệu,
Huy Cận vẫn làm thơ tám chữ. Gọi là cách tân thì chỉ mình ông
Phan Khôi cách tân chứ không thể nhiều người cách tân được. Còn
như cụ Nguyễn Du thì không cách tân gì cả, làm thơ lục bát.
Các cụ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương thì làm thơ đường . Các
loại này cũng không cách tân Mà nếu như mỗi nhà thơ đều cách
tân một loại thơ thì có mấy ngàn loại thơ thì..nhiều quá.
Ngoài những thể thơ lục bát, ngũ ngôn, tám chữ, tôi có làm thơ
thể tự do, số thơ thể tự do chiếm phân nửa số thơ tôi làm.
Thơ tự do có cách tân không ? Tôi nghĩ nó không có cách tân bao
nhiêu, vì nó cũng là một loại thơ nằm trong dòng tiến bộ của
thi ca, từ khung khổ có vần điệu phá thể ra không vần điệu và
nó được ảnh hưởng khá nhiều bởi thơ tự do của thế giới.
Thơ phản ảnh rung cảm của chính người làm thơ, cái gì mà người
ấy rung cảm mà làm đạt tới, thì giọt nước đó có chút ánh
sáng lung linh của đại dương to lớn kia. Nhưng mà thể thơ thì
tôi không nghĩ nó có vai trò to lớn ấy.
Trong thơ, tôi không thấy vượt hay không vượt, tôi chỉ thấy nó
có khác không. Tôi thấy thơ sau này có khác thơ lúc trước. Mỗi
thời kỳ thơ đều có nét riêng của nó. Còn nói hơn, vượt thì
khó lắm, bởi vì mỗi tác giả tồn tại thì họ đã đạt được
tuyệt đỉnh của loại thơ đó . Thơ tả cảnh của bà Huyện
Thanh Quan, Thăng Long Hoài Cổ chẳng hạn thì đạt tuyệt đỉnh của
thơ đường tả cảnh. Làm thơ đường tả cảnh thì sẽ hay trong
cách của thơ đường.
Còn làm thơ tự do
tả cảnh thì sẽ đạt cái tuyệt đỉnh trong thơ tự do. Chỉ có
khác biệt chứ không
hơn kém. Không thể bảo bài thơ tự do đó vượt bài Thăng Long Hoài
Cổ của bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ đã thành công tức nó đạt
được tột đỉnh của nó (của tác giả đó chứ không phải
nguyên loại đó). Thành ra khó lòng nói một bài sau vượt được
bài trước, cũng không thể nói bài trước trùm lấp để bài sau
không có chỗ đứng riêng. Mỗi bài thơ, mỗi thời kỳ đều có
nét riêng của nó.
4.
trả lời tạp chí Văn Học ở Hoa Kỳ
ba câu hỏi chung cho một số tác gỉa Việt tại hải ngoại
(Văn Học số 111 tháng 7-1995)
Vấn đề không có đủ thì giờ cho công việc sáng tác là vấn đề
muôn đời. Ngòi bút không đủ nuôi sống nhà văn xứ nghèo như chúng
ta cơm áo thúc phọc, nghề tay phải nghề tay trái, không có đủ
thì giờ để viết, tay trái làm mệt tay phải. Ngay như những người
không cần đến nghề tay trái, tay mặt lúc nào cũng thảnh thơi
cũng không đương nhiên có đủ thì giờ, vì đôi khi có thì giờ
thì không có cảm hứng, khi có cảm hứng lại thiếu thì giờ.
Thời gian này tôi hoàn toàn sống bằng nghề cầm bút, viết báo.
Công việc này chiếm nhiều thì giờ, quả thật có gây khó khăn
cho công việc ‘sáng tạo’, với tôi là viết truyện và làm thơ.
Nhưng mặt khác, công việc sinh nhai này cũng mang lại cho tôi những
trợ giúp trong việc sáng tạo. Thì giờ dành hoàn toàn cho viết
lách, dù báo chí, tạo thành một thói quen sinh hoạt tinh thần, lắm
khi có cơ hội bước qua sáng tạo cũng thoải mái.
....
Ba câu hỏi :
- Viết để làm gì ?
- Viết như thế nào ?
- Viết Cho Ai ?
Là những câu hỏi có một gắn bó triết học được Sartre làm nổi
bật. Khi đã xác định viết cho ai, thì phải chọn lựa viết để
làm gì và viết như thế nào . cũng có thề nói chính viết để làm
gì làm cho chọn lựa viết như thế nào và cho ai.
Tôi xin phép trả lời một phần ở trong, một phần ra ngoài khuôn
khổ triết học của những câu hỏi để có thể nói lên được
nhiều tâm sự hơn.
Tôi viết văn và làm thơ bằng tiếng Việt, tôi viết cho người
đọc tiếng Việt. Hiện nay tôi mong mỏi có người Việt Nam ở hải
ngoại đọc tôi, và tôi hy vọng đồng bào tôi ở trong nước khi
có tự do ngôn luận, tư tưởng và xuất bản, cũng sẽ đọc. Hành
động viết và tiếp tục viết có biểu lộ một khuynh hướng lạc
quan về ngôn ngữ Việt Nam, sự tồn tại của nó nơi hải ngoại,
một khuynh hướng lạc quan về tương lai Việt Nam.
Tại sao viết ? Trong những yếu tố triết lý, viết là hành động,
là cách thể hiện hữu, yếu tố chính trị xã hội, viết là
hành động dấn thân, là cách thế biến đổi thế giới, yếu tố
tâm lý như sự thôi thúc của nhu cầu sáng tạo, trở thành chính
mình, thể hiện bản thân, tôi cảm thấy gần gụi yếu tố tâm
lý nhiều hơn.
Biết một phần nào viết cho ai, biết đại khái tại sao viết,
tôi còn biết ít hơn vấn nạn viết như thế nào ? Tôi vẫn nghĩ
câu trả lời luôn luôn hậu nghiệm , ‘a posteriori’ Không thể
tiên nghiệm, ‘a priori’được. Cũng không thể là hệ luận của
‘tại sao’ và ‘cho ai’. áp dụng một công thức để giải bài
toán thì tốt. Sáng tạo theo một công thức, một định luật, sợ
rằng có làm tổn thương cho sáng tạo. Mỗi lần sáng tạo là mỗi
lần viết băng băng. Thảng có lúc suy gẫm về kỹ thuật sáng tạo
của người đi trước, kinh nghiệm luật ba đơn vị của kịch
trường Pháp thế kỷ 17, kinh nghiệm thơ tám chữ của tiền chiến,
kinh nghiệm thơ tự do của Eluard, của Prevert, cũng có lúc rút tiả
khinh nghiệm của mình, nhưng kinh nghiệm giải thích được từ tha
nhân hay chính mình có thể trở thành khuôn thước trong công nghiệp
tới sau, nhất định không quan niệm được như những định luật
và những chỉ dẫn ý thức trong việc sáng tạo.
Hơn thế nữa, người sáng tạo nhiều khi còn loại bỏ những dấu
vết của tha nhân và bản thân khi bắt gặp chúng vô thức lồng
nhập vào trong tác phẩm. Tôi cũng mong có lúc có thì giờ nhìn lại
xem mọi việc đã diễn ra ‘như thế nào’ . Lúc này còn kẹt
quá. Tôi có thì giờ in ra cuốn thơ Nguyên Sa 3 như dự tính. Sau đó
mong có thì giờ để hoàn thành cuốn Giấc Mơ. Sau đó, may ra mới
có thể tính đến chuyện ‘như thế nào ?’
Nguyên Sa
Nhà thơ Văn Cao
Mấy ý Về Thơ
(Văn Cao, Cuộc đời và Tác phẩm)
Một trong những hướng xây dựng nhân văn là đào tạo cho xã hội
những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở
đường cho tương lai. Nhà thơ trước hết, muốn làm nhiệm vụ
ấy, phải có những đặc tính trên. Chính những đặc tính đó đặt
ra vấn đề thành lập cá tính cho mỗi nhà thơ.
Trong lãnh vực Văn Học Nghệ Thuật, nếu có một số nguyên tắc
để giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội loài người
thì cũng chỉ là một phương pháp sơ lược dùng để gợi ý cho mọi
người phát triển hay sáng tạo. Người ta không thể nào biết rõ
và hạn chế được tất cả những sáng kiến, phát minh vì người
ta không thể biết rõ và hạn chế hết những nhu cầu của loài
người ngày một phức tạp hơn lên. Trái lại,trong cách suy nghĩ
khác, nếu có người cho là yêu cầu của loài người sẽ dần dần
đơn giản và có thể điều khiển được như máy móc, thì người
ta sẽ nhờ đến việc đơn giản và bớt đi những phát minh mới
mở đường cho Văn học và Nghệ thuật.
đến với cuộc đời, nhà thơ không chịu đựng một sự may rủi
mà phải chủ động thành lập nên sự thẩm mỹ mới cho người
đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng cảm xúc
và cảm giác tinh tế như mình trong xã hội đương thời và cả
xã hội sau này. Không
ai ngăn những nhà thơ lần mò cặm cụi đi theo những lối mòn. Khốn
nỗi những người đọc của chúng ta lại cứ muốn tìm trong cái
đám đông người bộ mặt có thể ưa thích được. Họ không muốn
nghe lại những ý những lời đã cũ cũng như không muốn mua lại
những đồ cũ mà họ đã phải thải đi từ lâu rồi. Người ta yêu
những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết
thất bại mà mở đường. Bởi vì,những người đó đã nghĩ đến
sự tiến bộ của Nghệ thuật.
Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những
cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo. đã hàng thế kỷ,
mỗi nhà thơ vẫn hàng ngày vẫy gọi mặt trời đến chiếu vào
tâm trang mình. Thế mà những câu thơ hôm nay về mặt trăng mặt
trời vẫn mới mẻ như đêm như ngày qua lại, cái mới trước hết
là cái mới trong tư tưởng, trong cảm xúc và trong càm giác của
nhà thơ. Tấm bia trên mồ một người đã khuất cò lẽ còn ở
lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời. Biết bao nhiêu bài thơ
mang cái mới nhất thời đã rụng trong khi tác gỉa của nó còn sống.
Nguyễn Du khi sáng tạo cái mới trong thơ còn lo ba trăm năm sau không
có người hiểu. Người thành công nhất ngày nay phải lo tới thất
bại ngày sau và người lo thất bại ngày nay cũng phải lo tới cái
thất bại ngày sau. Nếu không có sự lo lắng đó, một nhà thơ không
nghĩ tới trách nhiệm của mình khi viết, hoặc chỉ viết cho người
bây giờ mà không có trách nhiệm với người sau.
Chúng ta đọc một nhà thơ như đi theo một dòng sông. Dù bắt đầu
từ khúc nào, dù ghé vào bến nào, chúng ta đều phải nghĩ là ngược
lên nguồn thì đường dài lắm, mà xuôi ra biển thì biển còn xa.
Hai điểm đầu và cuối đó đều thấy vô cùng. Ai muốn khám phá
xem con đường ngược và đường xuôi như thế nào còn có thể tiếp
tục nhau khai thác được nhiều. Cuộc đời và Nghệ thuật của
nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng
trôi càng mở rộng . Mỗi chữ mỗi câu, mỗi bài thơ mở ra cái
quãng ngược, quãng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc
càng tìm thấy mãi. Sự thất bại thường gặp trong bài thơ là sự
khép lại : khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói. Người ta đã
đánh giá sai lầm về trí tuệ của đại chúng. Tôi nghĩ rằng trí
tuệ ấy, sẽ phong phú bởi vì nó dần dần được tập trung hết
kho tàng của dĩ vãng (trong đó có phần trí tuệ của nhà thơ).
Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh, có người
nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển, cũng
có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có
người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để tìm thấy cái vô
cùng tận của trời xanh . Có người phải tìm con đường lớn mới
thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi.
đấy là những khác nhau giữa những nhà thơ. Sao nghệ thuật không
biết tìm ở đấy sự phong phú ? Sao người làm thơ không biết
tìm riêng lấy một cách thể hiện ?
Qua một bài thơ,
người ta thấy ngay con người của nhà thơ đang sống thực, Tư
tưởng cảm xúc và cảm giác của nhà thơ phải thể hiện tinh vi.
Câu thơ như vào trong óc để gợi sự suy nghĩ, vào trong tình cảm
để xúc động và như vào trong da thịt để khêu gợi ! Chỉ
riêng cái phần giác quan của nhà thơ cũng nói được cái hướng
biểu hiện hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc
thiên về cảm giác. Cái khuynh hướng đó nhiều khi là của cả một
thời đại, một môn phái hay một triết học. Chúng ta đã qua một
thời kỳ dài thiên về cảm xúc và một thời kỳ cảm giác. Cái
thời kỳ thiên về tư tưởng có phải đang bắt đầu ? Người làm
thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình
cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong
phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng, cảm xúc hay cảm
giác. Người đọc bị cuốn sau cùng vào cái khuynh hướng của nhà
thơ. Trong đời sống của chúng ta hiện nay có biết bao nhiêu người
đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của các tác phẩm Văn học và
Nghệ thuật và cũng có biết bao nhiêu sự biến đổi xã hội gây
ra do cách đặt vấn đề của những tác phẩm này.
Người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm
giác trên kia trong thực tế ở những con người đang hàng ngày
túi bụi xây. Càng tới gần cái cuộc sống đầy mâu thuẫn đấu
tranh là càng như đi gần lại một kho thuốc nổ. Có người dao động
và sợ hải quay lưng. Có người vụng về mà làm nổ. Nhưng cũng
có người can đảm biết làm nổ để mở đường.
Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những
giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người
tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những
khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tật trung tất cả giấc
mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía
sau cái thực tế chập chạp.
Văn Cao
12-7-1957
Nhà thơ Ðỗ Qúy
Toàn
1.
Nói Chuyện Thơ
(tác phẩm Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
Thănh Văn Hoa Kỳ xuất bản 1992)
Năm 1851, Cao Bá Quát đang thu xếp hành trang rời bỏ xứ Thần Kinh
để trở về Sơn Tây nhận chức giáo thụ, Tùng Thiện Vương gởi
ông tập thơ, nhờ viết tựa. Cao Chu Thần viết : ‘Phù, thi chi,
nan ngôn dã’- ôi, cái chuyện thơ, nói thật là khó vậy.
Thi sĩ họ Cao không phải là người nổi tiếng về đức khiêm tốn,
nhất là trong lãnh vực thơ
phú. Nếu ông thú nhận chuyện thơ khó nói, chắc là khó thật, chứ
không phải ông chỉ nhún nhường giữ lễ với một người bạn bút
mực - và một hoàng thân. Chuyện thơ quả khó nói thật. Tự nói
cho mình nghe đã khó chứ đừng kể nói cho người khác nghe. Kẻ hậu
sinh không phải không biết vâng lời dậy của người xưa, mà vẫn
cứ viết về thơ như thế này.
Chẳng qua là Thơ, cũng như sự sống, như hạnh phúc, mãi mãi cứ
là một nỗi ám ảnh không thể nào quên nguôi, đeo đẳng mãi
không rời ...
Thơ cũng giống như hạnh phúc, nói khó lắm, nhưng không nói thì
trong lòng nó vẫn tấm
tức làm sao ấy. Người đã làm thơ và đọc thơ mà lại bị cái
trí tò mò tư lự nó ám, thế nào cũng ôm mối thắc mắc đó
hoài. Thơ là cái gì nhỉ ? đặt câu hỏi đó rồi, đã thấy sai
ngay. Nếu chưa biết nó là cái gì thì tại sao biết cái này hay
cái kia là thơ để hỏi thơ là cái gì ? Hay là hỏi cách khác :
Cái gì là thơ nhỉ ? cái gì gây ra thứ rung động mà mỗi chúng
ta, mỗi người cảm thấy khi nghe một thứ để gọi nó là thơ ?
....
Thánh Thán, suốt một đời bình luận thơ văn, đã giảng 600 bài
thơ đường, bị xử tử trước họ Cao gần hai trăm năm, trước
khi chết cũng không nói chuyện văn chương hay chính trị, chỉ dặn
vợ con một điều tâm đắc trong đời, là ‘dưa muối ăn với đậu
vàng thì có vị như hồ đào, nếu phép này được truyền lại thì
ta chết cũng không ân hận’. (Theo Trần Trọng San). Thành ra,
chúng ta cũng không biết nếu nói về thơ, thơ nói chung, thì Kim
Thánh Thán sẽ dạy thế nào. Một vị sư tổ khác, Paul Valery thì
bảo ‘nói là đi, làm thơ là khiêu vũ’. Có người vịn vào đó
để giải nghĩa rằng thơ là nói có nhịp điệu. Có thi sĩ bảo cái
gì không thể dịch sang tiếng nước khác được thì đó là thơ
(Frost). Có người bảo khi viết thể này rồi đổi sang thể không
được, thì đó mới là thơ hay (Lê Qúy đôn). Lại có người triệt
để hơn, nói thơ hay là khi nào ‘dịch’sang cùng một thứ tiếng
mà không được (Coleridge). Bùi Giáng nói thẳng :’Thơ là gì ?
Không biết’. Nguyễn Tuân nhận xét ‘định nghĩa về chất
thơ...cũng khó như định nghĩa cho chất uy-mua - humour’Mà humour (u
mặc) thì Lâm Ngữ đường thấy nó cũng giống như là gãi lưng. Mình
không biết đích xác ngứa ở chỗ nào, gãi nhè nhẹ chỗ nào cũng
thú thú, gãi tới đâu sướng tới đó. Hoàng đức Lương lại ví
thơ như nem gỏi, ăn vào sướng miệng. đã bảo nói chuyện thơ là
khó. đã nói rồi là sẽ lan man nói đến chuyện nhảy, chuyện cười,
chuyện ăn, chuyện gãi ngứa, bao nhiêu lạc thú khác của đời sống.
Rất ít khi có người sành làm thơ và sành đọc thơ dám quả quyết:
’Thơ là..’. Chỉ các học giả và các nhà viết giáo khoa, vì
lý do nghề nghiệp mới phải làm thuyết giảng một định nghĩa của
thơ , hay của ‘chất thơ’. Ediot viết về các thi sĩ, về các
bài thơ, về nhạc trong thơ, về vai trò xã hội của thơ, nhưng
cũng rụt rè khi phải nói về thơ như một thực thể riêng. Ezra
Pound rất là ‘thánh phán’, thay vì viết về thơ thì ông viết về
chữ Hán, về Thiên đường, về Vortex, tất cả các thứ đó sẽ
giúp chúng ta biết thêm về thơ, từng chút một. Thơ, hóa ra như một
con voi, mỗi lần sờ thấy một chỗ, thật khó tường thuật lại
cho đầy đủ.
Chuyện thơ cũng như chuyện hạnh phúc. Biết là nên sống hơn là
bàn về mấy chuyện đó, nhưng rồi vẫn thắc mắc, cứ bàn.Mỗi
lời bàn không giúp cho người nghe hiểu rõ về thơ hay về hạnh
phúc, nhưng sẽ biết thêm về người bàn. Như chuyện họ đã sống
thế nào, làm thơ, đọc thơ thế nào. Người bàn chuyện phải
thú nhận nói chuyện thơ là nói chuyện mình Vì vậy hãy nói kinh
nghiệm mình tiếp cận với thơ tự đầu đến giờ ra sao. Các cố
gắng tổng quát hóa, trừu tượng hóa thành qui cách thật đáng ngợi
khen, nhưng cũng không đáng tin cậy bao nhiêu. Nếu chia xẻ được
vài ý tưởng với ai chẳng qua chỉ là vì người ta đã sống qua
kinh nghiệm đó rồi.
.....
Suy nghĩ về thơ chúng ta không thể không nghĩ về tiếng nói. Vì
thơ lấy tiếng nói làm chất liệu ; cũng như hội họa dùng đường
nét, màu sắc, nhạc dùng âm thanh.
.....
Mỗi nhà thơ mang đến cho chúng ta một người khách lạ, khách nhập
vào hồn ta, bằng ngôn ngữ, vì chúng ta chia xẻ với nhau một hệ
ngôn ngữ chung. Khách đã thành chủ, mà chủ cũng là khách, khi
câu thần chú đọc lên. Như Rimbaud bảo ‘On me pense..Je est un autre’Tôi,
nó là một thằng khác (thư, 13 mai 1871).
.....
Tiếp nhận một bài thơ là tiếp nhận cả hệ thống tiếng nói,
trong đó có kinh nghiệm thẩm mỹ của người đọc về hệ thống
tiếng nói đó. Nhà ngữ học Saussure đã thí dụ người nói như một
người chơi cờ, trong mỗi nước cờ bao hàm cả một hệ thống
các quy luật chơi cờ, cũng như cả chiến lược của kỳ thủ.
Mỗi câu thơ, bài thơ là một toàn thể và chúng ta tiếp nhận
chúng như một toàn thể.
...
Giữa người làm thơ và người đọc thơ có một sự trao đổi, một
diễn trình truyền thông.
Cho nên đi tìm thơ chúng ta cũng phải suy ngẫm về vai trò của thơ
trong công tác truyền thông, từ thi sĩ đến người đọc .
.....
Người làm thơ hẳn phải thấy lúc bắt đầu và lúc đang viết là
lúc sung sướng, ngây ngất nhất. Sáng tạo như ngồi đồng thiếp.
Phần có ý thức rất nhỏ. đàng sau phần có ý thức, bao nhiêu hạch
tuyến đang làm việc. Một thi sĩ thiền sư đã có lần nói rằng:
Người thiền giả tập để sống tỉnh thức trong mọi cử chỉ,
việc làm của mình. Nhưng khi đang làm thơ thì rất khó tỉnh thức.
Vậy cái phần ‘không ngờ’về tác dụng của một bài thơ là
phần mà chính thi sĩ không ý thức được. Bởi vậy nên mới có
công ăn việc làm cho các nhà bình luận, các nhà phân tích văn
chương, và các thầy cô giáo. Họ thông dịch tiếng nói của thi sĩ
ra tiếng nói chung của nhiều người. Dịch là méo mó.
Bởi vì chúng ta cùng chia xẻ một gia tài chung là ngôn ngữ, và trải
qua những kinh nghiệm sống có phần nào tương tự, nên những bài
thơ mới chuyên chở được các xúc động từ người làm thơ tới
người đọc thơ, dù bao nhiêu nhiễu xạ đã can thiệp. Một bài
thơ vượt qua những hàng rào nhiễu xạ, sẽ mở cửa trái tim nhiều
người đọc.
Chúng ta có thể không đồng ý một bài thơ là hay, hoặc mức độ
hay của một bài thơ
Nhưng về thơ không hay thì rất dễ nhận ra, dù chính người làm
thơ khó nhận ra là thơ mình dở. Một bài thơ dở khi nào không
gõ nổi cửa trái tim một người đọc. Có người làm thơ rồi
đem cho người khác đọc, thấy họ bất động, bèn giải thích cặn
kẽ cái hay kín đáo của thơ mình khiến cho, sau cùng, người đọc
phải gật gù ‘à ra thế, nếu không có ông giải thích thì tôi
không hiểu nổi’. đó là một trường hợp thất bại của người
làm thơ.
Một bài thơ tự nó phải nói được. Những lời giải thích đi bên
cạnh một bài thơ chỉ để giúp cho độc giả hiểu thêm tại sao
lời thơ lại khiến mình rung động. Nếu độc giả không xúc động
vì bài thơ, chỉ xúc cảm vì có lời giải thích, khi đó người
giải thích là thi sĩ. Người đó đã dịch một hệ thống tín hiệu
(tiếng nói của thi sĩ) sang một hệ thống khác.
......
Làm mới ngôn ngữ là một tham vọng quá lớn. Người làm thơ chắc
cũng yêu thơ, và do đó sẽ đọc rất nhiều thơ của các thế hệ
trước, của các đàn anh, đàn chị. Thế hệ nào cũng vùng vẫy cố
thoát khỏicác nhà thơ đi trước. Cứ mở miệng ra đã lẩy Kiều
rồi thì khó vượt qua cửa Nguyễn Du. Thời Phan Khôi làm thơ
(1932) , ông đã than: ’Cái ý nào mình muốn nói...thì đọc đi đọc
lại nghe như họ đã nói rồi..Té ra mình cứ loanh quanh luẩn quẩn
trong vòng bàn tay của họ hoài, thật là dễ tức’Thời Phan
Khôi, nói ‘họ’là nói đến Thanh Quan, Tiên điền,đỗ Phủ, Lý
Bạch, Thời sau này bao nhiêu thi sĩ khác cố thoát mà không khỏi
vòng tay của Huy Cận, Vũ Hoàng Chương vv...rồi sau này khi Bùi
Giáng thoát khỏi Nguyễn Du, Huy Cận, rồi thì lại có người khác
không thoát ra khỏi tay Bùi Giáng...
Thơ thường biến đổi nhiều nhất khi cả cuộc sống xã hội
thay đổi. Thơ mới, thơ tự do ra đời khi xã hội Việt Nam trải
qua các xáo trộn. Tình cảm, tư tưởng đều đòi thêm tự do,
thêm cởi mở...
.......
Một bài thơ là một cách nói duy nhất, khôn nói cách khác được,
vì thi sĩ đã xử dụng ngôn ngữ theo một kiểu riêng. Làm thơ là
thay đổi qui thức quen thuộc của ngôn ngữ. Mỗi bài
thơ lại là một cách thay đổi qui thức nói năng, bày trò chơi ngôn
ngữ theo qui luật mới.
...
Khi bàn tới ‘ cuộc chơi ngôn ngữ ’ qúy vị đọc xong có thể
có cảm tưởng thi sĩ chỉ ngồi chơi một mình với các tiếng,
các hình ảnh. Một tiếng dùng theo cách mới tạo ra qui thức của
một cuộc chơi ngôn ngữ mới. Một hình ảnh dùng theo cách mới cũng
vậy.
Nhưng các tiếng và các hình ảnh mới chỉ là phần tiếp giáp giữa
thi sĩ với ngôn ngữ.
Ngôn ngữ còn một phần chìm sâu hơn, trải rộng hơn, đó là phần
tiếp giáp giữa ngôn ngữ người nói với các người nghe, giữa
thi sĩ và xã hội xung quanh, những người cùng chung một hệ tiếng
nói. Trên mặt tiếp cận đó, ngoài các yếu tố thuần túy ngữ học
(nghĩa, âm, cú pháp...) còn phải chú ý đến các yếu tố ngoài phạm
vi của ngữ học. Trong cuộc tiếp cận giữa người nói và người
nghe có những ý hiểu ngầm, những giả thiết được coi là tiền
đề mà ai cũng lẳng lặng chấp nhận. Các ý ngầm các tiền đề
đó nằm trong hệ thống giá trị, trong ý thức hệ tiềm tàng của
một nền văn hoá, một thời đại. Các giả thiết tiền đề được
hiểu ngầm là một phần rất quan trọng trong tất cả các câu
nói mà chúng ta trao đổi với nhau.
......
Nếu phải xếp hạng thứ thơ nào tôi thích hơn, thì tôi sẽ xếp
theo thứ tự như sau:
1/ Thơ hay tự nhiên là thứ nhất
2/ Thơ hay và khéo cũng tốt
3/ Thơ hay mà không khéo thì dễ thương
4/ Thơ khéo không thôi thì hơi thường
5/ Thơ khéo mà không hay xin miễn
(và những thứ khác có vần mà không phải thơ)
Nói xếp hạng cho vui, chứ mỗi người sẽ nhận diện cái khéo
và cái hay một cách khác nhau.
Có những câu thơ nghe rất tự nhiên nhưng chỉ người làm thơ mới
biết đã mất bao lần gọt giũa mới thành. độc giả không cùng
một kinh nghiệm thẩm mỹ, không được đào luyện trong các lò
ngôn ngữ như nhau, thì cách thưởng thức sẽ khác nhau. Có những
lời tự nhiên thanh thoát ở đời này, sang đời khác lại có vẽ
cầu kỳ, điêu trác.
Các thi sĩ ‘giỏi nghề’ thường làm thơ rất khéo, càng lớn tuổi
càng khéo. Nhiều khi cái khéo làm mất cái chất hồn nhiên, đột
hứng, đột khởi của thơ đi. Nhiều khi cái khéo được dùng để
che lấp sự thiếu thốn hứng khởi. Nhất là ở các thi sĩ với một
kho từ vựng và cú điệu độc đáo, họ có thể xào xáo trộn
các lối nói và từ ngữ độc đáo đó, khiến ai đọc cũng nhận
mặt được. Khi đó, các chữ nghĩa khéo léo trạm trổ làm cho người
đọc ‘hoa mắt’, quên cả sự trống rỗng và cảm hứng yếu
ớt trong bài thơ.
Những người thơ già tuổi nghề có thể dùng kinh nghiệm để,
ít nhất tránh những chỗ vụng về, tầm thường. Có những bài
thơ hay, nhưng vẫn còn sót những câu vụng, tầm thường . Kinh
nghiệm giúp người ta thay đổi vài tiếng, vài hình ảnh, khiến
cho nó bớt vụng bớt tầm thường. Nhưng không chắc nhờ thế mà
thơ hay hơn. Thơ hay tự nhiên phải như ‘tự trên trời rớt xuống’,
không ở tài khéo léo mà làm ra. Cái khéo không thể thay thế cái
hứng khởi tự nhiên và độc đáo. Cho nên thi sĩ chuộng cái hay tự
nhiên hơn là tài khéo.
....
Tôi đề nghị chúng ta nên đọc thơ như thể mình đang sáng tạo.
Vừa đọc vừa mở ra một thế giới, trong đó lời và cảm thọ
do lời gây ra được tự do phát triển. Chúng ta có học thêm , sống
thêm được chút nào, rồi ta đọc lại như đọc lần đầu, khám
phá bài thơ một lần nữa. Lời và những cảm thọ, tình ý do lời
tạo ra không thể cắt chia. Trong công việc xử dụng ngôn ngữ của
loài người, lời và ý gắn chặt vào nhau nhất là khi chúng ta la
hét, chửi thề, rên rỉ, và khi ta làm thơ, hay đọc thần chú.
....
Nên người đọc thơ phải đóng vai thi sĩ, nghĩa là đóng vai nhân
vật mà thi sĩ đang thủ vai. Trong một bài thơ, có khi ta đóng vai
này; có khi đóng vai khác. Ta bỗng già, bỗng trẻ, bỗng là nam,
là nữ, bỗng yêu, bỗng giận, sống với bài thơ.
Ðỗ Qúy Toàn
(Nhà xuất bản Thanh Văn giới thiệu :Tìm Thơ Trong Tiếng Nói (của
đỗ Qúy Toàn) : Mười tám bài tiệp ký về thơ
chung quanh một chủ điểm : thơ là một nghệ thuật dùng ngôn ngữ.
Lấy thơ Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu nhưng tác gỉa
cũng có khi trích dẫn cả thơ Mạnh Hạo Nhiên, Lý Bạch, Octavio
Paz, E.Pound hay Pasternak vv và cả tiểu thuyết
Hồ Trưòng An, Nhất Linhvv...Khi bàn về việc làm thơ, đọc thơ,
thưởng ngoạn thơ, giải thích, sửa chữa thơ, tác
giả có dịp giới thiệu với chúng ta các ý kiến của các thi sĩ
và nhà phê bình khác : Bùi Giáng, Beardsley, Cao Bá
Quát, Chế Lan Viên, Coleridge, De man, Elliot, R.Frost, Hàn Mặc Tữ, Huy
Cận, Jarrell Jakobson , Kim Thánh
Thán, Lê Qúy đôn,Lưu Trọng Lư,H.Miller, Nguyễn Tuân, Nguyễn Tử
Trấn, Pasternak. E.Pound, IA Richards,
G.Seferis Shklovsky, Tào Thuết Cần, Tùng Thiện Vương, Thanh Thảo,
P.Valery. Võ Phiến, Wimsatt, Xuân Diệu..vv.
độc giả cũng có dịp làm quen với tư tưởng và ý kiến của
J.Austin, Chomsky, Russell, Sapir, Saussure, Whorf,
Wittgenstein vv..Nhưng các ý kiến của các nhà nghiên cứu ngữ học
hay triết gia trên được dẫn ra chỉ cốt để
chúng ta cùng thưởng thức thơ Bùi Giáng, Cao Tần, đinh Hùng,
Nguyên Sa, Luân Hoán, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê,
Nguyễn Bá Trạc, Quang Dũng, Lê đạt, Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại,
Tô Thùy Yên, Hoàng Xuân Sơn,Trần
Mộng Tú, Trần Dạ Từ, Thanh Thảo, Nguyễn Chí Thiện,Hồ Xuân Hương,Ngu
Yên và rất nhiều nhà thơ khác
ở trong nước và ở hải ngoại.)
2.
trả lời Châu Hải
Châu ( n.t LH)
(tạp chí Sóng số
71 tháng 4-1988)
Nàng, là một tập
thơ in năm 1965. Tôi thực sự chưa bao giờ có ý định in thơ. Tập
thơ thứ nhất này do một
số bạn bè góp tiền in tặng, nhân đám cưới của vợ chồng tôi.
Tôi nhớ có Trần Dạ Từ,
Tú Kuế, Lê Tất điều, Lê đình điểu, Vũ Dũng, Nguyễn Trung,
Dương Nghiễm Mậu vv và cả
anh Phạm Duy nữa. Nguyễn Trung vẽ bià và vẽ cái mặt tôi in bên trong. Hình như mỗi
người góp hai trăm đồng thời đó, coi như đi mừng đám cưới.
Tập thơ viết về
Nàng, nhưng không phải chỉ là thơ tình. Có những rung động siêu
hình Có những thao thức
tâm linh. Khi yêu mình hầu như thấy cả vũ trụ và mình trong vũ
trụ.
Tập thơ đêm Việt
Nam do nhóm sinh viên văn khoa in năm 1966. Những bài thơ này viết từ 1963. Khi
tôi xúc động trước thời cuộc như biến cố : hoà thượng Thích
Quảng đức tự thiêu, đám tang
Nhất Linh. Nhưng phần lớn các bài thơ đó viết sau khi tôi đã
đi nhiều về
miền quê từ vụ cứu
trợ nạn lụt miền Trung 1964 và tiếp xúc với những đau khổ trên
quê hương. Anh ruột tôi
tử trận năm 1963. Những người bạn khác cũng lần lượt vào nghĩa
trang quân đội. Khoảng
hè 1966, mấy bạn sinh viên tổ chức các buổi đọc thơ ở khu đất
Khám Lớn , tức đại học
Văn Khoa, ở đường Gia Long, hình như đó là đêm đọc thơ đầu
tiên trước công chúng. Tôi nhớ
có Trần Dạ Từ, Tú Kuế và tôi cùng đọc thơ. Hình như có cà
Trần Tuấn Kiệt. Những
bài thơ nói về nỗi đau không không thể ngâm nga được, cho nên
chúng tôi đọc, có lúc
thét lên. Có một nhà văn đàn anh, sau đó đã viết rằng:’nghe
đọc thơ, anh thấy rùng mình’.
Các bạn sinh viên đề nghị in. Tất nhiên, Sở Kiểm Duyệt không
cho in nên họ chỉ quay Ronéo.
Nguyễn Trung vẽ bìa và phụ bản rất đẹp.
Cả hai tập thơ trên,
tôi đều không có ý định in. Cả hai đều do anh em họ làm giúp.
Sau này tôi cũng tiếc
là mình hờ hững với thơ quá. Bây giờ muốn in lại làm tài liệu
cũng khó tìm hết các
bài thơ mình có thể vẫn còn thích. Tôi vốn coi chuyện làm thơ là
chuyện rất riêng tư. Mình
không nhịn được thì phải làm thơ, chứ không phải để làm
gì, để cho ai cả. đăng báo thì
dễ dàng. Người đọc báo xong thì quên ngay. Góp một bài thơ
cũng như tới họp mặt với
bạn bè, cho vui vậy thôi. Bây giờ ở nước ngoài thì khác. Lắm
lúc muốn đọc lại thơ Tô
Thùy Yên chẳng hạn, tôi lại trách thầm, tại sao cái ông ‘điên
Thành Tinh’ đó không in một tập
thơ để mình dễ tìm. Anh chị em tản mác khắp nơi, tìm một tờ
báo lắm lúc cũng khó.
Như vậy tôi mong các bạn thi sĩ nên in thơ thành tập thì hơn.(CHC
ghi chú: hiện nay Tô
Thùy Yên đã cho xuất bản Thơ Tuyển)
....Tôi đã viết đủ
các loại thơ. Nhưng thể thơ lục bát viết ít nhất. Có lẽ mỗi
lần viết tôi lại tự thấy
trong thơ mình có ảnh hưởng của các thi sĩ khác. Những người cùng
thời với tôi như Trần
Dạ Từ, Viên Linh, Bùi Giáng vv...đã vượt thoát khỏi những ảnh
hưởng của người xưa nên
lục bát của họ mới lạ, kiều diễm hơn nhiều...
Ðỗ Qúy Toàn
Nhà thơ Tô Thùy
Yên
góp ý về Thơ Vần
qua cuộc phỏng vấn
của nhà thơ Nguyễn Hoàng Nam và tạp chí Thơ
(Thơ số mùa đông
1996)
Theo tôi thiển nghĩ,
thơ, về mặt âm thanh mà xét, khởi đi từ ý muốn thuận tai.
Riêng với thơ vần, những
âm thanh của những từ vần được quan niệm như những âm thanh dội
trả, đáp ứng. Do
đó, nhạc điệu của thơ vần mang tính chất cuộn tròn trong từng
đoạn, như hình ảnh con rắn cắn
lấy cái đuôi mình tượng trưng cho một ‘vicious circle’ đặc biệt,
với những ngôn ngữ độc
âm, quan niệm này được đẩy xa hơn trong những đối chát chẳng
những của âm từmà
cả nghĩa chữ. Ta không quên là lý thuyết văn học cổ điển xây
dựng trên những tiêu chuẩn
cân xứng, hài hòa và nhất quán. Tinh thần nhất quán được phát
biểu rõ nhất ở kịch cổ
điển và chẳng phải chỉ áp dụng riêng cho kịch, phần nào cũng
được hiểu như là một tinh thần
tập trung và tự chế, nhằm tạo hữu hiệu một cường độ cần
yếu cho tác phẩm.Một đoạn
thơ vần, cả trong phần nhạc lẫn phần tứ, không muốn mở ra
xa. Những quặt rẽ, những
‘digressions’ (vốn là mặt mạnh, đồng thời cũng là mặt yếu
của chủ nghĩa lãng mạn) thường
không tìm thấy trong thơ vần cổ điển, nói chung trong văn học cổ
điển.
Tôi cũng nhận thấy
thêm là một bài thơ dài thành công, tức không bị sa lầy vào sự
phân giải lắm lời, phải
là một bài thơ mà mỗi đoạn ngắn của nó, nếu như được tách
riêng ra, đã có đầy đủ cường
độ của một bài thơ hoàn chỉnh. Nghĩ xa hơn một chút, tôi có cảm
tưởng là giọng của thơ
vần vốn là giọng ‘kể’, hiểu tho nghĩa ‘kể lể’cũng được,
và giọng của thơ không vần là giọng
‘nói’, giọng ‘nói thường’. Sự phân biệt về mặt nội
dung của hai loại thơ vần và thơ không
vần, xét chung, dường như cũng quanh quất trong tinh thần đó. Một
cách khái quát, ở
thơ vần, thông thường, những tình ý được diễn đạt nối tiếp
theo một liên lạc ‘logic’hiển
lộ, trong khi ở thơ không vần, những chuyển mạch giữa những
tình ý phần nhiều bị nhận lớp
hoặc bao che, người đọc phải tự lần phăng lấy. Nhận định
như vậy, có lẽ từ trong căn bản,
tôi cổ điển chăng ?
Thi ca và âm nhạc
là hai loại hình nghệ thuật của ký ức. Cũng như âm nhạc, thơ
là để trình diễn, được
đọc lên thành tiếng, dù đọc thầm cho mỗi mình nghe thôi cũng vẫn
là đọc thành tiếng trong đầu
mình. Thơ mang tính chất truyền khẩu, nhiều hơn văn. Hiểu như vậy
để thấy là thơ vẫn
bắt nguồn từ ý muốn dễ nhớ. Vần điệu là những tiêu chuẩn
là những tiêu điểm cắm sẵn
giúp cho sự lần mò được thuận tiện hơn. Do đó, nhạc tính
trong thơ vần (kể cả trong thơ mới
tiền chiến tức loại thơ tám chữ phỏng theo thể ‘alexandrine’,
cũng như loại thơkhông
đều chân nhưng vẫn có vần) phải cam phận đơn điệu, nhàm thuộc,
tù túng, và khả năng
khai triển nhạc tính của thơ vần bằng những cách phá nhịp,
phá luật phần lớn bị giới
hạn. Ngoài ra, nhìn xa hơn, ta cũng nhận thấy thêm là sự giới hạn
của nhạc tính đương
nhiên bao gồm cả sự giới hạn của tứ thơ. Thơ vần, nói chung,
kiêng kỵ những bức phá. Trước
đây vài thập niên, một số không nhỏ những người đọc thơ đã
rất ngần ngại tiếp nhận
thơ tự do, phần lớn chẳng phải nhạc tính xa lạ, trúc trắc, khổ
độc của thơ tự do, như họ
thường bày tỏ, mà có lẽ, theo thiển nghĩ của tôi, là do tinh thần
của thơ tự do còn quá xa lạ
đối với họ, điều mà gần như họ chẳng muốn thú nhận. Thơ
tự do,cũng như thơ mới trước
kia, ra đời vì sự thay đổi của hồn thơ, chớ không phải đơn
thuần là sự thay đổi của luật
thơ
Luật thơ như mọi
thứ luật khác bao giờ cũng phải trải qua bao nhiêu là dò dẫm
dãi dầu trong thực tế,
rồi mới trở thành luật được. Nhưng thực tế của luật thơ là
những thực tế có tính thói quen của
một ngôn ngữ. Boileau của Atr Poétique xuất hiện sau khi đã có những tác phẩm cổ
điển tiêu biểu, chớ Boileau tuyệt chẳng phải là người đã áp
định những nguyên tắc của chủ
nghĩa cổ điển. Những bài thơ trước đời đường, thậm chí cả
trong thời Sơ đường, đơn cử
bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu chẳng hạn, hay những bài thơ có
dáng dấp đường
thi của Nguyễn trải rõ ràng không theo đúng niêm luật chặt chẽ
về sau của đường thi,
nhưng chẳng phải vì vậy mà không phải là những bài thơ mà giá
trị gần như mẫu mực. Nói
cách khác, luật mô phỏng thực tế, chớ thực tế không mô phỏng
luật bao giờ. Do đó, nếu
đã chẳng thể coi niêm luật thơ như một thuận tiện có sẵn
giúp cho người làm thơ (và
hẳn nhiên cả người đọc thơ) được dễ dàng trong việc tìm gặp
những thói quen nào đó của
một ngôn ngữ thì lại không nhất thiết phải coi niêm luật thơ
là khuôn vàng thước ngọc,
để khỏi tự trói buộc chết cứng vào niêm luật thơ. Luật nào
cũng vậy đã cấu thành được
thì cũng hủy bỏ được. Một cách tự nhiên, thi hứng đưa đẩy
tới những phá cách cần thiết.
Thông thường, một bài thơ vần phá cách thể hiện cùng lúc hai
khung hướng đối nghịch
nhau là muốn thoát ly khỏi tính đơn điệu, nhưng lại vẫn muốn
còn nương tựa vào
tính thói quen.Hẳn nhiên, dụng ý chính trong bài thơ vần phá cách
vẫn là dụng ý mở rộng,
mở rộng từ nhịp điệu đến thi tứ. Thí dụ những bài ‘đồng
Cốc Thất ca’, ‘Hiểu Phát Công
An’của đỗ Phủ hay ‘Tống Biệt Hành’ của Thâm Tâm. điều
đơn giản hiển nhiên là nhịp
điệu của một bài thơ không hẳn chỉ là nhịp điệu của ngôn
từ, mà phải còn là nhịp điệu
phát sinh từ những tứ được diễn đạt, nhịp điệu diễn đạt
những thi tứ.Chọn thơ vần, thơ vần
phá cách, thơ không vần, thực tế chỉ là chọn một thể thức
nào thích nghi nhất để diễn đạt
ưng ý nhất những gì mình mưu định diễn đạt. Tôi không nghĩ rằng
người tacó thể chuyển
bài ‘Prufrock’ hay ‘The Waste Land’của T.S. Eliot chẳng hạn , ra
lục bát hay song thất lục
bát, nói chung ra thơ vần, mà nghe được. Việc phân biệt hình thức
với nội dung của một
tác phẩm chỉ là một phương cách cho dễ nói thôi, chớ thực tế
làm sao có thể có một sự
tách rời như thế được. Với nghệ thuật, không hề có hình thức
ý niệm, mà chỉ có hình thức của
nội dung. Riêng tôi, tôi đến với thể thơ vần khi nào tôi cảm
thấy không nhất thiết phải
đẩy những tình ý muốn thể hiện trong bài thơ ra quá xa. Tùy hứng,
thi sĩ chọn thể thơ cho từng
bài thơ. Trong thế giới riêng của một thi sĩ, mỗi bài thơ còn
là một thế giới riêng nữa.
Tôi quan niệm là nếu
làm thơ vần mà cảm thấy mình bị khó khăn trở ngại vì vần
thì chưa thể làm thơ vần
được, nếu không nói hơn là chưa thể làm thơ được. Thơ vần
có một điều thoạt nghe
nghịch lý là người làm thơ phải công tìm vần, nhưng vì việc
tìm vần bao giờ cũng diễn tiến
song song với việc tìm tứ, nên thơ vần gần như đã rải sẵn những
chỉ dấu u hiển để cho người
làm thơ nương lần theo và dễ có cơ may tìm ra những chữ, những
tứ tuyệt vời, nhiều
khi không thể ngờ trước được. Thực tế mà nói, thông thường,
vần điệu đưa tay dẫn dắt, và
than ôi ! cũng kềm chế thi hứng. Một cách tiên thiên, bản thân
nghệ thuật bao giờ cũng phải
chấp nhận những bó buộc nào đó. Tôi vẫn không quên một lời
nói của André Gide : ‘Nghệ
thuật sống nhờ luật tắc, và chết vì buông thả’ Tôi tin chắc
rằng ngay cả thơ tự do, tiến
gọi là tự do đi nữa, cũng phải tuân thủ những luật tắc nào
đó, những luật tắc nội tại của
nghệ thuật.
Có những thể thơ,
như song thất lục bát chẳng hạn, không còn hợp thời nữa, nhưng
chẳng phải vì vậy
mà có thể quả quyết một loại thơ nào đó đã được khai thác
đến cùng kiệt, không còn gì
để vét múc nữa. Vấn đề chính yếu ở đây, có lẽ không phải
là làm mới thơ vần, mà làm mới
hồn thơ. Một thời đại không nhất thiết chỉ có độc mỗi thể
thơ. Và tôi cũng không tin rằng
có thể có một thiên tài thơ không vần nào mà trước đó chẳng
làm nổi ít ra hai câu lục
bát hay bốn câu thất ngôn ra hồn. Rõ ràng là trước khi vẽ theo
lối lập thể, Picasso đã là
một tay nghề tuyệt diệu của hội hoạ truyền thống. Trong nghệ
thuật, việc đi tới phải là một
nhu cầu thời thế, chớ không chỉ là ý muốn suông trơn. Hơn nữa,
trong nghệ thuật, không
hề có lối đi tắt.
Tô Thùy Yên
Nhà thơ Quỳnh Thi
quan niệm về thơ vần
(tạp chí Thơ số mùa
đông 1996)
...Quan niệm của
tôi là người làm thơ, phải được tự do một cách đích thực,
không bị gò bó vào một
khuôn khổ nào khi diễn đạt.
Thể hiện tư tưởng
của mình hòa nhịp vào tư tưởng tiến bộ của những nhà thơ tiến
bộ trên thế giới, phải
nói lên được một cái gì có văn hóa, có chiều sâu về tư tưởng.
Tham vọng Thi ca và
Triết lý đánh dấu mốc thời gian ở thời đại mình đang sống.
Ước muốn thi ca và Triết
học, phải bắt kịp tiến bộ của khoa học hiện đại.
Muốn như thế phải
đổi mới tư duy, phải đổi mới thể thức làm và thưởng ngoạn
thơ ở mỗi người.
Tuy nhiên tôi không
đồng tình về ngôn ngữ thể hiện trong một số bài thơ mới đây
của một số tác giả
mà đa số những người đọc cho là không thanh cao, có thể nói
là tục tỉu, ngược lại bản chất
và ý nghĩa thơ.
Thơ không giống như
hội họa hoặc nhiếp ảnh, phô bày một cách thực sự và trung thực đúng với hiện
trạng của sự vật. Nó dễ gây ngộ nhân, vì không còn cô đọng
chất tinh túy của văn hóa,
đôi khi người ta có cảm tưởng nó đồng nghĩa với thứ dâm thư
nào khác.
đành rằng thi sĩ
thường là những người ưa nổi loạn, ngông cuồng và trung thực,
sống ít khi muốn tuân thủ
những luật lệ hay khuôn mẫu do xã hội đặt ra,, kể cả luật lệ
của tôn giáo. Tính chất đó
dẫn đến những hành động nhiều khi ngược ngạo và những sở
thích thường không giống
ai.
Nói tóm lại quan niệm
của tôi là thơ có vần phải được thu hẹp lại, cho đến ngày
nó phải nhường chỗ
cho thơ tự do thay thế hầu phù hợp với sự tiến bộ chung trong
mọi lãnh vực về văn hóa,
khoa học và kinh tế của thế giới.
Quỳnh Thi