Ba chục năm sau đọc thơ cũ của

Luân Hoán ở xứ người

 

Hoàng Khởi Phong

 

 

1-

          Ở ngoài đời tôi chưa gặp Luân Hoán, nhưng ba chục năm trước đây vào khoảng cuối năm 1974, tôi đă một lần đọc bản thảo thơ anh ở Đà Lạt. Tôi không nhớ ai đưa cho tôi tập bản thảo này, chỉ nhớ thời gian đó tôi có giao t́nh rất kỹ với các bạn chủ trương tờ Ư Thức, và tập bản thảo của Luân Hoán đến tay tôi có thể qua một bạn nào đó trong nhóm Ư Thức như Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Nguyên Minh, Trần Hoài Thư, Lê Kư Thương... Cũng cần nói thêm trước khi đọc nguyên cả một tập bản thảo thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng tôi bắt gặp tên anh nơi những bài thơ đăng rải rác trên các tạp chí văn học, và cả trong các tạp chí của Quân Đội.

          Luân Hoán và tôi có những điểm chung: Cùng là những người lính, và cùng làm thơ. Tôi không biết anh bắt đầu làm thơ và sống với thơ từ bao giờ? Có thể trước khi khoác bộ áo nhà binh kệch cỡm trên người, hay cũng như tôi chỉ thực sự làm thơ sau khi đă làm một người lính. Dù đến với thơ trong giai đoạn nào của đời sống, tôi vẫn tin anh là người đến với thơ trước tôi một hai năm, chỉ giản dị v́ anh lớn hơn tôi hai tuổi. Thế nhưng trong tiểu sử cũng như  trong thơ của anh, tôi biết anh đi lính sau tôi vài năm. Thành thử nếu có sự khác biệt lớn nhất giữa hai chúng tôi có lẽ anh là nhà thơ rồi mới đi lính, c̣n tôi là một người lính trước khi làm thơ.  Điểm khác nhau then chốt này cho thấy sau khi chiến tranh tàn đă mấy chục năm, anh vẫn c̣n làm thơ, và tôi tin rằng anh sẽ c̣n làm thơ cho tới khi ngừng hơi thở. Phần tôi th́ trong gần ba chục năm ở xứ người tôi chỉ làm thêm dăm bài thơ không hơn kém. Nhưng tôi tin vào một ngày nào đó tôi sẽ làm thơ lại, tất nhiên với một hơi thơ khác cả về đề tài cũng như ngôn ngữ.

 

 

2-

Hơn ba chục năm trước đây khi đọc thơ Luân Hoán, tôi tưởng ra một người lính lơ đăng. Hăy theo gót người lính lơ đăng này từ những bước đầu của đoạn đường chiến binh:

“... Bỏ lệnh gọi trong túi quần

Ngồi lật chồng sách cũ

Không biết phải làm ǵ

Ngó loanh quanh chỗ ở

Chợt nhớ người mẹ già

Trên bàn thờ ám khói

Tôi thắp một nén nhang...”

(Một ngày trước khi tŕnh diện)

Tôi không có những cảm giác như anh v́ trước tiên khi bị đưa vào quân trường Thủ Đức, tôi c̣n mẹ. Mẹ tôi lo cho tôi từng lọ chà bông, từng hũ muối vừng mỗi tuần tôi về phép. Vả lại tôi không bị động viên như Luân Hoán, mà bị t́nh nguyện trong một biến động chính trị của miền Nam. Trước khi bị đi lính, tôi chưa làm thơ, và có thể nói là một cầu thủ giỏi, tôi không có cái bâng khuâng của một thi sĩ, khi cảm nhận chiến tranh đột nhiên phủ chụp lên đầu.

Thế nhưng đời sống của một quân trường đă tẩy xóa mọi con người, đồng hóa mọi con người thành một người khác. Chỉ với vài tháng ngắn ngủi trong Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, khoảng cách của một người làm thơ đi lính, và một người cầu thủ đi lính đă thu ngắn lại, khiến cho tôi nhận ra tôi trong thơ anh ngay lập tức:

“...Sinh viên sĩ quan

Lê Ngọc Châu

Số quân

61/203.905

Tŕnh diện

Giản dị chỉ có thế

Ngắn, gọn, đẹp

Như một bài thơ

Sao không?

Một bài thơ đồng phục.”

(Như là thơ)

Từ nơi các ḷ luyện người Đà Lạt, Nha Trang, Thủ Đức, Quang Trung... đă đúc khuôn ra hàng triệu người lính, trong thế hệ của Luân Hoán và tôi. Nhưng sau khi rời khỏi quân trường mỗi người lính có một đoạn đường chiến binh khác nhau. Tôi may mắn  hơn Luân Hoán, không phải thường trực một ngày 24 giờ chạm mặt với tử thần. Tôi chạm mặt với một hậu phương mỗi ngày mỗi lạ, tôi nhận rơ khoảng cách giữa thành phố và chiến trường. Nhưng không phải v́ thế mà tôi không cảm nổi thơ Luân Hoán trong thời gian anh chiến đấu ở ngoài mặt trận. Tôi phải nói ngay tôi không hoàn toàn chia sẻ những suy nghĩ của anh, nhưng tôi hiểu được những suy nghĩ này.

“...Anh bây giờ là tên lính mù

Chỉ huy một trung đội điếc

Với chiếc c̣i trên môi

Và hàng trăm câu chửi tục

Anh ném vào lính của anh

Niềm âu lo thương mến...

.......................................

Dù c̣n đủ tâm hồn

Anh cũng sẽ đốt nhà

Cũng sẽ bắn trâu ḅ gà vịt

Không hổ ngươi

Như lính của anh...”

(Trái tim hành quân)

Tôi ngờ rằng những câu thơ này chẳng những đă không giúp cho Luân Hoán vơi được nỗi buồn của cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, mà trái lại nó sẽ mang đến cho anh rất nhiều trái đắng. Ở hậu phương tôi có những loại trái đắng khác, không đến nỗi trí mạng như anh, nhưng nếu không giữ ḿnh cho kỹ, th́ sẽ ch́m trong một loại bùn tanh tưởi khác. Có điều tôi biết chắc ḷng yêu quê hương, tổ quốc của các thi sĩ. Chả thế mà một nhà thơ đă có lần nói: ‘Hỡi những người làm văn nghệ và ăn lương chính phủ, các người hiểu thế nào được ḷng yêu quê hương và dân tộc của một thi sĩ.’ Tôi ghi lại đây trọn bài thơ ‘Bữa cơm trên Kim Sơn’, chỉ bỏ một câu cuối v́ tối nghĩa, để thấy được tâm t́nh này của Luân Hoán.

Ngửa bàn tay nhem nhuốc

Tôi đi qua từng binh sĩ

Cùng lúc mặt trời lên

T́m xin một nắm muối

 

Ôi ba ngày đă qua

Nắm cơm khô lạt đó

Đă nói ǵ cùng chúng ta?

 

Nơi này không nhà cửa

Nơi này không đồng bào

Nơi này không súc vật

Nơi này là quê hương?

 

Nắm cơm nhem nhuốc bùn

Chợt dừng ngang cổ họng

Nghẹn ngào tôi đứng lên

Đồi cao buồn gió nổi

 

Tôi muốn rủ cỏ cây

Chung quanh cùng nói lớn

Nơi này là quê hương

Nơi này là tổ quốc

 

Mời anh bát  nước đầy

Mời anh nồi rau luộc

Ôi mỗi người một trái tim

Là mỗi trụ cột rào nhỏ

Sao nỡ nào bỏ đi?

Thềm xưa ngơ ngác cỏ

 

Mặt trời lên mặt trời lên

Tiếng chim nà đầu lá

Xin hót lời tôi đây

Nơi này là tổ quốc

Nơi này là quê hương

Tôi chôn xuống ruộng đồng

Ngàn câu thơ hẹn viết

Mừng mọi người về đây

B́nh an không đói rét

 

Nắm cơm nhem nhuốc bùn

Chợt vui trên tay đói

Tôi nghĩ đến máu ḿnh

Vị mặn nồng thân thiết.

 

 

 

3-

Cuối năm 1974 ở Đà Lạt khi đọc bản thảo thơ Luân Hoán, tôi biết anh đă bị thương, đă bỏ lại chiến trường một phần thân thể anh. Trong một cuộc hành quân ở Thi Phổ Quảng Ngăi, Luân Hoán đạp phải ḿn, bị cưa chân và trở thành một người tàn phế. Nói cho cùng cả thế hệ chúng tôi, đặc biệt là những người lính làm thơ viết văn, phần đông đă bị thương tích sẵn ở trong đầu, Luân Hoán c̣n không may mắn mang thêm một vết thương nơi thể xác. Anh giă từ chiến tranh ngoài trận địa, nhưng cuộc chiến ở trong đầu anh th́ vẫn dây dưa cho tới tận bây giờ.

Chém giết măi rồi cũng tới ngày chiến tranh tàn, cách mà kẻ chiến thắng từ rừng xanh núi đỏ trở về đă khiến cho Luân Hoán thấy đoạn kết của chiến tranh không giống như trong thơ của anh. Trong thơ anh khản cổ kêu gọi mọi người đừng bỏ đi, cho dù quê hương có không c̣n nhà cửa, không có đồng bào, vắng bóng súc vật. Nhưng đó vẫn là quê hương không thể bỏ đi. Anh lớn tiếng rủ cỏ cây nhận nơi này là quê hương, nhận nơi này là tổ quốc. Anh muốn chôn xuống ruộng đồng cả ngàn câu thơ hẹn viết.  Anh mừng rỡ đón chờ mọi người về lại nơi quê hương bản thổ, b́nh an không đói rét.

Anh muốn sống nơi anh đă sinh ra, cho dù cuộc sống của một người chiến bại thương tật có tăm tối tới đâu chăng nữa, anh vẫn cam chịu “nắm cơm nhem nhuốc bùn - Chợt vui trên tay đói”. Cả một ḷng yêu vô bờ đối với vùng đất khốn khó đă không được đáp ứng.  Và rồi Luân Hoán phải làm đơn xin xuất cảnh. Trước khi đi anh quay về Thi Phổ, nơi anh đă rụng mất một phần thân thể. Tôi ghi lại đây trọn bài ‘Chợt nhớ về nơi ngấm máu ta - Bùi ngùi ḷng nhú chồi xót xa’

Bây giờ cái xóm Mồ Côi ấy

Chắc vẫn mồ côi như thuở xưa

Năm ba chồi rạ chen trong mía

Che tiếng thở thầm dưới nắng mưa

 

Bây giờ lá sắn xanh c̣n vấy

Máu đỏ ta loang chiều hôm nào

Đất vẫn c̣n hằn bàn tay bấu

Giọt thầm nước mắt thấm về đâu

 

Bây giờ vũng giếng bên bụi chuối

Cũng vẫn đục ngầu như thế thôi

Con cá rô thia ta thả xuống

Sống c̣n quanh quẩn kiếp rong chơi

 

Bây giờ đôi mắt đen sau cửa

C̣n hốt hoảng nh́n như hỏi thăm

Chẳng biết ai chôn ḿn dưới đó

Tiếng nổ c̣n vang măi trong ḷng

 

Bây giờ Thi Phổ, ơi Thi Phổ

Vườn dừa đầu cụt gốc bật chưa

Máu khinh binh Thị gài lựu đạn

Lỡ sút tay xanh cỏ mấy mùa

 

Bây giờ Thi Phổ, ơi Thi Phổ

Mắc vơng đong đưa đuổi nắng hồng

Suưt phá đời em du kích nhỏ

Giữa gian đại tự Phạm Văn Đồng

 

Bây giờ Thi Phổ, ơi Thi Phổ

Ta đă ngă rồi, ngă quá lâu

Trước khi xuất cảnh t́m đất sống

Nh́n cơi hận xưa, thương lẫn đau

 

Bây giờ Thi Phổ, ơi Thi Phổ

Mười bốn năm dài cách biệt nhau

Máu ta ngấm đất tan vào đất

Nên cảm được rằng em cũng đau.

 

 

 

4-

Sau cùng tôi muốn viết về Luân Hoán, do một t́nh cờ tôi có chung với anh một vùng đất Quảng. Anh sinh ở Quảng Nam, nhưng đơn vị anh trú đóng cho tới khi ngă xuống ngoài trận tiền là Quảng Ngăi, cũng là nơi đơn vị đầu đời của tôi.

Cuối năm 1963, vừa chẵn hai mươi tuổi tôi ba lô vác vai ra tŕnh diện Sư Đoàn 25, làm một sĩ quan chuyên môn trực thuộc Bộ Tham Mưu của Sư Đoàn. Vào thời gian này Quảng Ngăi là một thị trấn nhỏ, với hai con đường chính là Quang Trung và Lê Trung Đ́nh gặp nhau ngay tâm điểm của thành phố. Tôi nhớ chuyến máy bay quân đội đầu tiên trong đời tôi, từ Sài G̣n ra Quảng Ngăi, trong thời điểm Sư Đoàn 25 BB đang sửa soạn di  chuyển vào miền Nam. Từ trong ḷng phi cơ cao ba ngàn bộ nh́n xuống, qua khung cửa sổ phi cơ suốt từ lúc cất cánh cho tới khi đáp xuống phi trường Quảng Ngăi, hơn hai giờ bay tôi chỉ thấy núi tiếp rừng. Mầu xanh của lá với những sắc độ khác nhau tuần tự lướt qua mắt tôi. Khi phi cơ đánh ṿng để hạ cánh, thành phố Quảng Ngăi rơ dần dưới chân tôi. Trong thơ của Luân Hoán ghi lại cho tôi tất cả những địa danh này.

Tôi nhớ tới căn gác tôi thuê cùng vài người bạn thầy giáo trên đầu đường đi Nghĩa Hành, ở đó mỗi buổi tối tôi ngồi trên thành cửa sổ, nh́n vào bóng đêm, trong khi những trái hỏa châu thỉnh thoảng nở rộ trên trời cao. Tôi nhớ tới cái Tết đầu tiên xa nhà, trọn ba ngày Câu Lạc Bộ Sĩ Quan đóng cửa, tôi và mấy người bạn lang thang t́m chỗ ăn. Tôi nhớ tới con sông Trà Khúc mỗi buổi chiều tôi hay lái chiếc xe Jeep mui trần, tới bờ sông t́m một chỗ nằm dưới bóng những hàng cây phi lao bên bờ. Ở đó tôi bắt gặp dấu tích của hai trận chiến ngay trên ḍng sông, nơi ba cây cầu bắc ngang ḍng nước. Một cây cầu cũ bị phá hủy trong chiến tranh Việt Pháp, với những thành cầu c̣n ghi dấu nám đen in trên nền trời xanh, một cây cầu mới chưa kịp hoàn tất th́ tạm ngưng lại v́ chiến tranh Nam Bắc đang diễn ra khốc liệt trong vùng, và sau cùng là cây cầu nổi do Công Binh thiết lập để sử dụng tạm trong khi chờ cây cầu mới được xây tiếp. Bên kia sông là Quận Sơn Tịnh, với vài mái nhà ngói đỏ nổi bật lên giữa những mái lá nghèo nàn.

Trong thơ Luân Hoán tôi bắt gặp lại tôi, chẵn tṛn hai mươi tuổi ngâm ḿnh trong ḍng nước của con sông Trà Khúc mỗi buổi chiều, nh́n những chiếc xe nhà binh, xe hàng, dập d́nh trên cây cầu nổi. Bên cạnh đó những chiếc xe Lam ba bánh phun khói mờ trên đất, và dân chúng tất tả ngược xuôi. Tôi đọc bài thơ ‘Mặt trận Quảng Ngăi ngày xưa, bóng ta phơ phất hạt mưa nhạt nḥa’, một bài thơ dài hơi, thể ngũ ngôn với 16 tiểu đoạn và cảm được từng hơi thở nhọc nhằn của anh trong chiến trận. Hơn thế nữa bên cạnh cái nhọc nhằn này, tôi cảm được cái nặng nhất mà anh mang trong người, bên cạnh mớ vũ khí, quân trang  cồng kềnh của mỗi người lính, chính là sự lơ đăng tôi đă ghi lại trong đoạn trên. Sự lơ đăng của những người lính làm thơ, với một hồn thơ không một ai có thể cân đo, đong đếm, không một ai có thể nh́n thấy bên ngoài, nhưng chính cái đó là phần nặng nề nhất cho một người lính, cho dù người lính đó là một khinh binh đi đầu, hay là một Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng đi sau. Bản thân tôi cũng đă có những món quân trang ngoài cấp số như Luân Hoán, nhưng tôi may hơn anh ở chỗ không phải ra chiến trường, và nhờ vậy khi chiến tranh tàn tôi c̣n nguyên thân thể. 

Lẽ ra tôi phải gặp Luân Hoán ở Đà Lạt từ ba mươi năm trước. Tôi nhớ đă nói với người bạn đưa cho tôi tập bản thảo thơ của anh, tôi sẽ chạy in tập thơ này cho Luân Hoán. Thời đó trên Đà Lạt có một tiệm in chuyên in cua cho các sinh viên, sử dụng một loại máy in tương tự như máy in AB Dick hiện nay, với bản kẽm là một tờ giấy và phí tổn ấn loát không cao so với các nhà in kiểu sắp chữ. Trước đó hai ba năm, tôi đă in một tập thơ của tôi bằng cách này, và tôi tin là tôi sẽ in tập thơ của Luân Hoán, như là một món quà giữa một người làm thơ, gửi tới một người làm thơ khác, để chia xẻ những cay đắng nhục nhằn. Câu chuyện chưa kịp tiến hành th đùng một cái, tôi phải thuyên chuyển khỏi Đà Lạt.

Bài viết này đến với Luân Hoán, trong dịp anh in một tuyển tập như là một món quà tới trễ ba chục năm, giữa những người lính đă có một thời đi trong chiến tranh, bên cạnh những cái chết, với nón sắt nặng nề chụp trên đầu, bên cạnh khẩu súng vắt vẻo trên vai, bên cạnh những dây đạn chằng chịt trên người, bên cạnh cái lưỡi lê cài ngang hông.... c̣n cố đèo bồng thêm một vũ khí nặng nề nhất trong người là trái tim không đập cùng một nhịp với tiếng đế giầy trong lúc duyệt binh, và thường hay trật nhịp với tiếng súng nơi ngoài mặt trận.

Ba mươi năm sau ở quê người đọc lại thơ Luân Hoán, trong lúc tuổi ngoài sáu mươi, tôi cảm nhận được nhịp tim của anh giờ này không c̣n trật, nó đă gơ đúng nhịp của quê nhà.

 

Hoàng Khởi Phong