Anh Tôi,
Người Vui Thú
Chơi Thơ
Lê
Hân
Có một
số ít người viết thơ, viết
văn...được thân nhân giới thiệu bằng
cả một cuốn sách, hoặc một bài viết, ví
dụ như Quách Giao, con trai nhà thơ Quách Tấn cho
xuất bản tác phẩm “Quách Tấn Qua Cái Nh́n Phê B́nh Văn
Học”, Nguyễn Bá Tín cho
phát hành “Hàn Mặc Tử, Anh Tôi”, Phan Thị Vàng Anh
viết “Cha Tôi” cho nhà thơ Chế Lan Viên, Thu
Thuyền đăng trên mạng lưới điện
toán “Thân Phụ Tôi” để nói về nhà thơ Hoàng
Anh Tuấn...Không phải tôi muốn bắt chước các
vị này, nhưng thật sự, để có một cái ǵ
đó kỷ niệm với cuốn sách ‘tán ngẫu’ về
anh ḿnh, tôi không biết viết ǵ hơn là ghi lại
một đôi điều nho nhỏ, tôi chợt nhớ.
Năm 1986, qua sự
tận t́nh giúp đỡ của hai anh Tưởng Năng
Tiến, Thái Tú Hạp cùng nhiều vị mạnh
thường quân khác, tập thơ Hơi Thở Việt
Nam được hai cơ sở Sông Thu và Nhân Văn cho
ấn hành tại Hoa kỳ. Trong tập thơ này, anh tôi,
đă phổ biến lư lịch của ḿnh:
Ra đời tại
Hội An/ Một thị trấn Quảng Nam/ tên cúng cơm
là Huưnh/ dân mũi tẹt da vàng/ Dĩ nhiên tôi không
giỡn/viết thật trăm phần trăm/ Lư lịch
tŕnh cách mạng/Đùa dai dễ bị bằm/Ông bà tôi đă
chết/Cha mẹ đă làm ma/Tôi chừ cũng đă
chết/Tất cả đều Quốc gia/ Sơ sơ là
như thế/Đảng ‘nắm’ chắc cho chưa /Nếu
cần thêm chi tiết/Nới tay cho tôi thưa:/Năm lên ba
tuổi rưởi/ theo cha lên Tiên Châu/Rừng núi dạy tôi
học/Thương cu cườm, chim sâu/Hai năm sau
xuống núi/Về quê nội Ḥa Đa/ A.B.C chưa thuộc/Ra
Đà Nẵng tà tà/tôi lớn lên như thổi/ Nhờ không có
bác Hồ/Nhờ Đảng không ‘quản lư’/Đỡ suy tôn hoan
hô/Tôi học không mấy chữ/Nhưng mang bệnh làm
thơ/ Ư cùn và vần cụt/Vườn đời xơ
xác xơ/Rồi th́ tôi đi lính/Đuổi giặc chạy dài
dài/Tiếc rằng chưa giết hết/ Lũ khát máu
độc tài/Chẳng may chân tôi rụng/Ngân hàng mời
về đây/Tháng ngày ngồi “trừ cộng”/Nh́n
người vay trả vay/Rồi th́ cách mạng
bắt/Một hai bảo tôi khai/Tôi khai hoài khai măi/ Tôi khai măi
khai hoài/ Lư lịch tôi từ đó/Đâm ra thành truyện dài/Mai
sau in thành sách/May ra thành thiên tài/...Xin cảm ơn cách mạng/Tôi
nguyện cầm bút hoài
(trích Hơi Thở
Việt Nam)
Với những ḍng
tự khai như trên, thật đă quá rơ ràng, đầy
đủ. Nhưng như đă nói ‘để cho có một
cái ǵ’ tôi xin kể lễ thêm một vài chi tiết: Thân
phụ tôi, tên Lê Hoán người thôn Liêm Lạc xă Ḥa Đa
huyện Ḥa Vang, tỉnh Quảng Nam. Tên thôn, xă ngày nay có
thể đă đổi, tôi không được rơ. Thân
mẫu chúng tôi, tên Nguyễn thị Luân, con gái của
thị trấn Vĩnh Điện, Quảng Nam. Bà là vợ
thứ ba của ông già chúng tôi. Do cha có nhiều vợ, nên
chúng tôi có nhiều anh em. Và tuy là nhiều ḍng, nhưng
tất cả anh em chúng tôi đều thương yêu, giúp
đỡ lẫn nhau. Ở đây, tôi xin phép bỏ trong
dấu ngoặc những câu thơ
anh luân hoán, vẽ cho mỗi người bốn câu, mà
anh gọi là tâm dung, để các bạn đọc có
thể ‘nắm’ chút ít về t́nh anh chị em chúng tôi:
nếu không non
yểu nửa đời
tay tài hoa đă vẽ
vời thêm tranh
đứng yên nh́n nét
tay anh
nghe gân màu sắc long
lanh máu cười
…
em dừng xe lại bên
đường
ngắm từng
hạt cát, b́nh thường xiết bao
ở đâu c̣n
dấu máu đào
cho tôi được
nắm tay vào chị tôi
…
lần đầu em gặp
biền xanh
vừa mê vừa
hận loanh quanh trên bờ
thương
chồng, nằm đắp lá cờ
chị về quê
mẹ, đâu ngờ hụt hơi
…
mười lăm tuổi, bỏ
gia đ́nh
lập thân, lập
nghiệp hiển vinh một đời
hào hoa mă thượng
chịu chơi
nước nhà
thống nhất thủ thời, vợ nuôi
…
dứt nghiệp diễn kịch
nửa chừng
chỉ v́ có trái tim
rung động nhiều
không lăi
được nỗi buồn thiu
cũng lời
khấm khá những điều đắng cay
…
cùng chung trong một
bào thai
chị thương
để cả đường dài cho đi
năm mươi
năm chưa có ǵ
để vui ḷng
chị từ bi nhường phần
…
năm tư mở
sách vở long
sáu sáu xách gói học
khôn xứ người
khác ta, không biết
hưởng lười
giống ta, cái
tật cười cười vu vơ
…
bỏ học sang Cam
Bu Chia
thi hành nghĩa vụ
làm bia lót đường
rừng nuôi
đất dưỡng trời thương
cho về lành lặn,
đứng đường mưu sinh
…
nghe em vẫn đạp xe thồ
sắm
được đôi dép bác Hồ mới toanh
nếu dư, ‘tranh
thủ’ để dành
hớt tóc, chụp
ảnh gởi anh xem nào
…
tốt nghiệp
đại học đă lâu
ngày ngày lấy
việc sờ râu đợi thời
tẩy xong lư lịch
ba đời
không chừng em
bỏ qua thời thanh xuân...
(trích Nuôi Thơm Chùm
Kỹ Niệm Xanh)
Trở lại lư
lịch anh Luân Hoán. Anh tên là Lê Ngọc Châu, sinh vào cuối
năm Canh Th́n, rơi vào đầu năm 1941, tại nhà
hộ sinh Tô Thành Giang, tục gọi là đốc Keng, là
một người Hoa, lập nghiệp tại Hội An.
Anh Châu là người thứ hai trong một bào thai kép, do
đó èo uột, khó nuôi. Ba má chúng tôi kể lại, phải
bán khoáng anh vào chùa Cầu cho đến năm anh lên
tuổi 13. Nhưng rồi thời gian đến, v́ lư do
chiến tranh, gia đ́nh chúng tôi không c̣n ở Hội An, nên
vụ cầm bán này chưa được chuộc lại
bằng một lễ cúng, theo đúng như tục lệ.
Rất may anh Châu vẫn khoẻ mạnh và trưởng
thành, một phần nào có thể nhờ sự
nhường phần sống của chị Hạt,
người chị ra đời trước anh không lâu.
Cái tên Huưnh, anh Luân Hoán
nhắc trong bài thơ, là tên gọi ở nhà khi anh c̣n
nhỏ, chưa đi học. Ngày nay, trong đại gia
đ́nh không ai c̣n nhớ cái tên gọi này. Nhưng anh Châu cho
biết anh, anh vẫn nhớ rất rơ những châm
chọc của đám bạn cùng thời ở truồng
với anh: “cái thằng ‘quưnh’ con ông ‘quáng’ đó...”. Phát âm
của dân Quảng Nam vốn dễ bị hiểu sai và
cũng có khá nhiều khả năng gây cười,
nhiều người được gọi là ‘danh hài’
đă từng mang lên sân khấu để thọc léc thiên
hạ, bất kể câu nói
‘chưởi cha không bằng gỉa giọng’.
Lư lịch của anh
tôi chẳng có ǵ đáng nói nữa. Về nhân dáng, tâm dung
anh, chúng ta có thể xem qua một số ảnh chụp,
(Anh Châu rất thích chơi ảnh) cùng ngắm, ngẫm
từ những vồng chữ anh tự họa khá
nhiều, tôi t́m giúp cho các bạn một số như
vầy:
.. áo cổ bẻ, quần giây
treo
chân đeo kiềng bạc,
cổ đeo bùa vàng
gỡ tay chị, chạy làng
quàng
chân phải chân trái hai bàn
vấp nhau
chống tay, chùi cát lên
đầu
đâu ngờ tóc sữa xanh màu
đến nay...
…thấy
tôi coi bộ có duyên
giày coi rọ, bê rê nghiêng tóc
bồng...
...cái ta hồi biết soi
gương
đă ḍm thấy mặt
nhiều đường đào hoa...
...chừ ông ở Canada
phất phơ bụi nám màu da
phai dần...
...cái khôn ông chẳng có thừa
cái ngu, ông có thua ai bao giờ
thức làm thơ, ngủ làm
thơ
mỗi vuông da thịt mỗi
xơ xác đờI
ham đi, ham mộng, ham
chơi
ông xưa nay vốn thảnh
thơi hơn người
ngắm ông tôi chợt thấy
tôi
th́ ra nhân dạng muỗi ruồi
giống nhau...
(thơ tặng ông Châu, bạn
tôi)
...tám năm mệt mỏi quên
cười
bây chừ môi mắt đâm
lưới biếng ra
xuân về từ bữa hôm qua
hồn chưa quyét lại
nước da nám buồn…
... tôi ngồi ngắm cái
lưng tôi
chong trên đường
nắng h́nh như đă c̣ng
co tay, vét một vốc long
văi quanh, tạ ngọn gió ṿng
vo bay
...tôi ngồi ngó sững tôi,
như
gốc đa thời ấu
thơ mù khói hương...
Lư lịch, nhân dáng
người anh chuyên nghề làm thơ của tôi
đại khái chỉ có vậy.
Chúng tôi
được ra đời cách nhau 6 năm. Tôi là cậu
út của má chúng tôi. Sau 3 tháng tôi đến với cuộc
sống, gia đ́nh chúng tôi rời Hội An để vào
vùng ‘tự do’ trên một
chiếc ghe bầu. Anh Luân Hoán nhớ lại chuyến
đi này qua một bài ngũ ngôn khá dài:
ra đi vào nửa đêm
trăng vừa lặn một
bên
trời trải sao lấp lánh
đ êm từ từ mông mênh
nằm ngửa giữa khoang
ghe
lắng nghe mái dầm tre
chao nghiêng vào sóng nước
trôi lựng chựng, e dè
mẹ ngồi ẵm em trai
bỏ lọt tiếng thở
dài
rơi qua ḍng tóc dính
hương thơm chiếc
trâm cài
.....tôi ngồi trong thúng tre
nắm quai gióng lắng nghe
tiếng cú cầm chừng
nhắc
coi chừng con ma le
đ̣n gánh chợt trở vai
vừa đi vừa ngáp dài
bác phu không cần biết
tôi són đái hoài hoài...
Qua bài thơ này, lúc đó tôi
đang là một baby
được mẹ ẵm, trong lúc anh Châu và chị
Kim Anh, chị của chúng tôi, th́ được ngồi
ở hai đầu thúng. Nơi gia đ́nh chúng tôi dừng
cuối cùng trong chuyến tản cư, là đất Tiên
Châu thuộc huyện Tiên Phước Quảng Nam. Tôi không
nhớ được ǵ về thời gian đầu
ở đây. Đến khi tôi có thể nhận biết
một chút th́ anh Châu và chị Kim Anh đă theo ba tôi về
quê nội, một vùng ‘bị chiếm’ thời bấy
giờ. Măi đến cuối năm 1953, gia đ́nh chúng tôi
mới đoàn tụ tại Đà Nẵng. Có thể sự chênh
lệch quá rộng về tuổi tác, cùng sự hạn
hẹp thời gian chung sống, nên t́nh cảm anh em của
chúng tôi dù rất sâu đậm, nhưng gần như
chẳng bao giờ tỏ bày.
Năm tôi chuẩn bị thi vào
đệ thất trường trung học công lập Phan
Châu Trinh Đà Nẵng, anh Châu là người dạy kèm tôi
học. Tính anh nóng và cộc. Tôi thường bị anh cú
vào đầu. Hơn thế nữa, những lúc quá bực
ḿnh, anh c̣n tán đầu tôi vào mặt cái bảng đen treo
một góc tường. Một lần bị chị Kim Anh
bắt gặp, chị dũa cho ảnh một trận, và
tôi vĩnh viễn không c̣n là học sinh tại gia của
anh.
Học cùng trường, ở
cùng nhà, nhưng chúng tôi ít khi chơi với nhau. Anh có
bạn của anh, tôi có đám bạn của tôi. Tôi rất
ngưỡng mộ đám bạn của anh, trong đó có
các anh như Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng
Trọng Bân, Châu Văn Tùng, Vĩnh Điện, Thái Tú
Hạp, Thành Tôn …và biết bao nhiêu văn nghệ sĩ khác
nữa …Anh Luân Hoán ham chơi cờ tướng. Tôi cũng
rất mê môn này, nhưng hai anh em chưa hề thử tài
nhau. Thời bấy giờ tôi hay làm tṛ chơi ô chữ, và
thỉnh thoảng làm thơ học tṛ gởi đăng
trên tuần báo Tuổi Xanh. Anh Châu có lấy báo tôi
được tặng xem vài lần. Anh không hỏi han, nói
năng ǵ. Nhưng sau đó, tôi phát hiện anh có nhiều
thơ đăng trên tạp chí Gió Mới và anh cũng
gởi đăng ở báo
Tuổi Xanh nữa. Thơ anh vững vàng, nên chỉ
một thời gian sau anh có bài được in trong
một cuốn sách dạy Việt ngữ lớp nhất
dùng để học thuộc ḷng. Rất tiếc tôi không
c̣n nhớ tên cuốn sách giáo khoa này
và do ai soạn. Thời đó thân phụ tôi rất
ghét chúng tôi làm thơ mặc dù chính ông cũng đă làm
rất nhiều thơ (những bài thơ khuyên dạy con
nên người) cho chúng tôi học thuộc ḷng.
Rất ít khi chúng tôi ngồi chơi với
nhau. Và lúc có cơ hội, chúng tôi đều hà tiện
lời nói. Ngay đến bây giờ vẫn vậy. T́nh
nghĩa anh em tưởng như vô cùng lạnh nhạt.
Nhưng ngó vậy mà không phải vậy. Chúng tôi rất
hiểu tính nhau. Việc thương yêu là điều
đương nhiên. Trong gia đ́nh, tôi là người
được anh Châu nhắc đến trong thơ anh
nhiều nhất. Ngay trong tập thơ đầu tay,
Về Trời, anh đă có bài cho tôi: Tâm Sự Cùng Em Trai. Bài
thơ tám chữ liên vận, tỏ rơ nỗi t́nh của anh
trong những suy tư của một người sắp
lớn, giữa một bối cảnh gia đ́nh lẫn
đất nước không có nhiều lạc quan. Tôi không
thể không ngậm ngùi khi anh viết “...cho anh tránh nói lên
niềm thương nhớ, trong tim này chỉ c̣n lệ em
thôi...”. Trong một bài khác,
vào một thời điểm anh đang để sinh
mạng của ḿnh ngay tại trận địa, anh đă
nhớ và viết cho tôi trong Trái Tim Hành Quân:
...bài thơ này viết ra
như một sự t́nh cờ
anh gởi Hân,
người em trai xa xứ
hăy cầm lấy nỗi t́nh
anh
Tôi biết, bài thơ anh
viết không phải là “một sự t́nh cờ’ như anh
nói. Đọc toàn thể bài thơ là nỗi chán chường,
bất lực dù không thiếu hào săng. Đó là những lời
tự thú, những lời di ngôn. Tôi thương anh tôi xót
ruột, nhưng cũng chỉ biết thầm cầu
nguyện cho anh. Sự ngă ngựa, mất mát của anh
đă làm cho cả gia đ́nh chúng tôi ngậm ngùi, nhưng
cũng rất vui.
Năm 1979, tôi cùng một
người bạn, bác sĩ Nguyễn Ngọc Lang, ở
Montréal, rũ nhau đi làm bảo lănh cho anh Châu, và anh
Lạng (anh của Lang). Nhưng măi đến đầu
tháng 2 năm 1985, anh Châu và gia đ́nh anh mới đặt
chân đến miền đất tự do. (Anh Lạng th́
bây giờ vẫn c̣n ở Đà Nẵng).
Hiện tại, gia
đ́nh tôi và gia đ́nh anh Châu cư ngụ trên hai thành
phố khác nhau, tuy cùng một quốc gia, nhưng khá xa nhau.
Mỗi năm chúng tôi gặp mặt nhau độ vài lần.
Và mỗi tuần cũng chỉ gọi thăm hỏi
đôi lần. Tuổi tác giúp chúng tôi có những câu
chuyện dài ḍng hơn. T́nh cảm anh em không giống
như t́nh bè bạn. H́nh như điểm này, nhiều
người giống nhau. Và chuyện viết một cái ǵ
đó về người thân yêu của ḿnh, quả là khó.
Tôi chỉ biết chắc chắn là bất cứ lúc nào
đọc những vần thơ của anh tôi cũng
đem lại cho tôi rất nhiều thích thú, hạnh phúc và
những t́nh cảm nhẹ nhàng lâng lâng trong người
để vui mừng và hănh diện có được
một người anh đă ít nhiều đem lại cho
đời này một chút hương thơm.
Lê Hân