Luân Hoán nơi Cơi
người ngơ ngác
Nguyễn Vy-Khanh
Đầu năm 1985, Luân Hoán
đến bờ tự do làm thân tị nạn, đă
đưa theo Hơi Thở Việt Nam
được xuất bản năm 1986, như một
thông-điệp báo cho đồng loại biết phần
nào tin tức quê nhà, nào tù đày, hăi sợ, bi cảnh,
cuộc đời xáo trộn, đổi thay tận cùng của
bất ngờ quay cuồng của con Tạo. Nhà thơ
tiếp tục làm thơ nơi xứ người và h́nh
như xuất hiện chính thức trên tạp-chí Văn
thời Mai Thảo (số 35, 5-1985). Những tuyển
tập xuất-bản sau đó, ngoại trừ đôi
tập chủ tŕ ca ngợi t́nh yêu, phần lớn nói lên
tiếng ḷng của con người sống lưu xứ,
của con người bị bứng ra khỏi đất
sống, không lựa chọn. Sống lưu đày là
sống trong nỗi nhớ triền miên. Nơi vùng
đất mới, h́nh như chỉ có thời gian và không
gian của kư ức, của hồi tưởng với
những địa danh, nhân danh, thời danh, v.v. - những
mốc điểm của một khởi hành hoặc
của một trang lịch-sử !
Nỗi nhớ quê nhà
Ngay trong tuyển tập thơ đầu sáng tác ở
hải ngoại, Luân Hoán đă nói nhiều đến
những nỗi nhớ quê nhà. Nỗi nhớ chiếm
một phần (tr. 119-150) của tập Ngơ Ngác Cơi
Người (San Jose CA: Nhân Văn) xuất-bản năm
1989. Ở đây, nỗi nhớ có tên những khuôn mặt
bạn bè thân yêu cùng một lúc với nỗi nhớ nhà,
nhớ nước: " người ơi người
ơi người ơi / ta c̣n hay mất bên trời lưu
vong " (Cúi Mặt Chào Đà Nẵng, tr. 9,11). Hay: "hỡi ơi
bạn bè cũ / lận đận chạy về đâu /
bỏ ḿnh ta ngơ ngác / vơ vẩn nhớ đau
đầu"; " nhớ ǵ đâu, nhớ nhớ /
thương ǵ, mà thương thương / trái tim ta đă
rớt / ở bên trời quê hương " (Gọi Tên
Bạn Bè, tr 58-9).
Đến Đưa Nhau Về Đến Đâu (Los Angeles CA: Sông
Thu, 1989), sống ở Montréal, xứ người, nhà
thơ từ lựa chọn trở thành nạn-nhân của
mơ. Lưu đày đồng nghĩa với mộng mị
cho nhẹ kiếp người! Kẻ lưu-vong dễ
chuốc căn bệnh ngỡ ngờ, mới trông
ngoại h́nh đă đoán kẻ ấy xuất thân nơi
mô:
"Có phải em là Công Tằng Tôn Nữ ...
vừa liếc qua ta đă nhận ra ngay
đôi mắt Huế hữu duyên v́ biết háy
nét đài trang trong dáng nhíu lông mày
(...) môi muốn hỏi mắt muốn chào nhưng ngại
em nghiêm trang kiểu cách một thời xưa
quanh quẩn ngó rồi ḍm ta đánh giá
thằng cha này sao nhớn nhác khó ưa? ..."
(Gặp Một Người Nghi Rất Huế, tr.
68)
Nhưng không phải ai cũng gặp may như Luân Hoán!
Rồi Cảm Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Ḷng Ta
Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài (Houston TX: Kinh Đô, 1991)
gồm 53 bài nỗi nhớ đi theo những địa
danh đất nước, những "cơi ta" nhà
thơ đă sống hoặc đă đi qua. Nơi đây,
nhà thơ buông lời cảm ơn bằng lục bát mà
tất cả các tựa trong tập đặc biệt
cũng là hai câu sáu tám.
Đà Nẵng, nơi chôn nhau cắt rún của thi sĩ,
với những địa danh Ḥa Khánh, Chợ Mới,
Cổ Viện, chùa Bà Quảng, giếng Bộng, ... trong bài
mở đầu Quê-Hương Nhắm Mắt Như
Sờ Được...:
" (...) Hỡi những cành me cành phượng vĩ
hỡi con kiến lửa lạc bâng quơ
hỡi con chim sẻ trên vồng ngói
tôi tưởng tôi về, đâu biết mơ !
trông ra cửa kính trời mưa tuyết
ngó lại đời ḿnh ngồi bó ta
quê hương nhắm mắt như sờ được
sao vẫn buồn xo đến thế này ..."
(tr 9&14)
Rồi Hội An với Chùa Cầu, Chùa Ông, Cẩm Sa... mà có
lần đă ở Montreal xứ người Bất
Ngờ Qua Cầu Champlain / Nhớ Cấu Bà Rắn Lềnh
Bềnh Những Thơ (tr. 58-59) nhớ chuyện ngày
xưa người bạn đời "không ưng mà mê
tít" người thanh niên học tṛ - tức nhà thơ.
Rồi Khi Không Nhớ Về Phong Lệ / Cúi Đầu
Đụng Tiếng Thở Ra:
"(...) Phong Lệ bây chừ buồn quá thôi
ngoại ngồi rờ rẫm lá trầu hôi
dưới chân, con mực thiu thiu ngủ
chừng cả hai đang quên lững đời
( ...) ví dầu kỷ niệm thành hơi thở
cũng thổi không tan nỗi ngậm ngùi"
(tr. 45-46)
Rồi Huế của nhà thơ với những Cầu
Bạch Hổ, cầu Tràng Tiền, Chợ Đông Ba, hẻm
Cầu Kho, hồ Tịnh Tâm, kiosque Lạc Sơn, quán
cơm Âm Phủ...những nơi chốn đă hằn
dấu biết bao nhiêu kỷ niệm của một
đời người. Ở đó, đậm nét t́nh yêu.
Ở đó, đời sống có vẻ lăng mạn dễ
thương, thơ của Huế cũng có vẻ tinh
nghịch của nụ cười hóm hỉnh:
"nhíu mày ḍm trán đến chân
em ngoay ngoảy háy phủi quần bỏ đi
coi tề, tôi có lỗi chi
lỗi tại hột nút xuân th́ sút ra "
"dụi hoài mắt nhận không ra
xanh cây xanh nước xanh tà áo bay
ánh lên trong cơi xanh này
ḷng con mắt Huế sắp đầy đọa tôi
"
(Cho Ta Giữ Một Chút Ǵ Thưa Huế, tr. 61).
Cả kỷ niệm / kinh nghiệm ngủ đ̣ Huế,
một đêm mưa trên sông:
" thút tha thút thít mưa hoài
lắc leo đèn úa sông dài bóng tôi
buông màn nghe cái tôi trôi
cùng vuông chiếu ố mồ hôi em nồng
em từ Đại Lược Kim Long
thả đời theo những nhánh sông qua ngày?... "
(Đ̣ Em Vẫn Chở Nguyệt Hoa, tr. 73).
Nhớ về nơi chốn mà nhà thơ đă gửi
lại một phần xương thịt của ḿnh cho
tổ quốc. "Mặt Trận Quảng Ngăi Ngày
Xưa" rồi những Mộ Đức, Nghĩa Hành, Thu
Xà, ..., những chiến trường lửa khói, những
đứt ruột quê hương những năm tháng
miệt mài hành quân:
"... bây giờ Thi Phổ ơi Thi Phổ
ta đă ngă rồi, ngă quá lâu
trước khi xuất cảnh t́m đất sống
nh́n cơi hận xưa thương lẫn đau
bây giờ Thi Phổ ơi Thi Phổ
mười bốn năm dài biệt cách nhau
máu ta ngấm đất, tan trong đất
nên cảm được rằng em cũng đau"
(Chợt Nhớ Về Nơi Ngấm Máu Ta, tr. 100).
Nỗi nhớ c̣n có tên "Sài G̣n thủ thỉ gọi ta,
nhiều khi ta nhớ xót xa Sài g̣n"(tr. 107-109), bởi
"những góc cạnh thủ đô vẫn c̣n trong tâm
mạch" qua 19 đoạn thơ như 19 mốc
nhớ (tr 110-114). Nhớ những lần đi hoang "khi
ta vào tới Lăng Cha Cả / trời tối bụi
mưa bén góc chân / mở báo che đầu t́m thuốc lá /
nốc cốc cà phê nghẹn mấy lần ...", cả
những lúc hưởng ... đời ở xóm Ḥa Hưng,
không trọn vẹn khi nghe tiếng pháo ṛn ră:
"gặp em ở xóm Ḥa Hưng
đang "đi" ta bỗng lừng khừng muốn
thôi
sợ em lây cái bụi đời ?
đang lên cao độ tuyệt vời bỗng ngưng
th́ ra thơ viết dở chừng
trở về phá trận tưng bừng pháo xuân"
(tr. 103).
Rồi tương tư theo bước chân tạt qua Lái
Thiêu, Chợ Búng, tạt về Bến Tre" Rạch
Miễu, B́nh Đại, Gịng Trôm...những Bậu và Qua:
"bậu qua phà Rạch Miễu / qua lẽo đẽo
theo sau / (...) bậu ơi trời dẫu rộng / nhưng
đâu bằng nhớ nhung / sông rạch như gân máu / man
man nỗi mặn nồng ...", từ nhung nhớ
đến thốt lời: "ta may mắn
được làm thi sĩ / nhờ đă phải ḷng gái
Bến Tre" (tr. 115, 121).
Thời gian đưa đến Cỏ Hoa Gối
Đầu (Miami FL: Sóng Văn, 1977), là tập thơ thứ
17. Cỏ hoa v́ "Em là Hoa / thơ là hoa / và tôi, có thể,
cũng là, biết đâu ... / một chùm, sống bám
lẫn nhau / ngày xưa, hiện tại, mai sau / vẫn là /
thơ là hoa / em là hoa / và tôi, có thể, đều là / phù du
/ phù du lộng lẫy phù du" (Hoa, tr. 9). Đời lưu
vong đó ghi dấu an nhiên của một người
thơ thong dong với đời, như không tham vọng,
sống thực hôm nay. Thơ t́nh của một
người tự cho no đủ về t́nh nhưng
vẫn vươn vói mê t́nh, mê đời. Quê hương và
t́nh bạn chiếm phần c̣n lại. Và 10 năm ở
Canada: "mười năm lớ ngớ không ngon giấc
/ co duỗi không qua khỏi cái giường / hít thở
cầm hơi vài cơn mộng / Buồn ngấm, chừng
như sắp thối xương ... " (Bài Kỷ
Niệm Tṛn 10 Năm Ở Canada, tr. 110).
Nỗi nhớ vẫn c̣n đó qua Châu Văn Tùng,
người bạn thơ đă gắn liền với
địa danh, khi nhắc đến Đà nẵng là nhắc
đến người bạn:
"tao sẽ chưa về thăm mày được
bởi v́, giản dị, thiếu tiền thôi
( ...) trái tim c̣n đập, c̣n thương nhớ
đợi mươi năm nữa có là bao
năm nay tao mới năm mươi tư tuổi
truyền thống ông cha thọ rất cao
gắng sống chờ tao lên chín chục
hồi hương, cụng chén, tán tào lao"
(Phúc thư Châu Văn Tùng Đà nẵng, tr. 104& 106)
Nỗi niềm nhớ thương quê hương chất
ngất đó khiến tiếng thơ của Luân Hoán
vừa xa xôi vừa gần hủi, giản dị tự
nhiên đến thân t́nh. Đâu phải anh dụng ư làm thơ
anh kể chuyện mà. Thơ Luân-Hoán chứa nhiều h́nh
ảnh, nhân dáng, ngoài những người bạn thơ,
đồng ngũ, bạn học, hai h́nh ảnh khác khá
trội bật trong thơ ông là người mẹ và
người chị. Về người chị, Luân-Hoán có
hai bài thơ thật cảm động. Bài Xin Gởi Cho Em
Vài Hạt Mưa:
"Mưa suốt ngày đêm suốt mùa đông
chị đang đúc bánh xèo phải không?
Chảo đen bột trắng bàn tay nhỏ
đổ hết ḷng trên ngọn lửa hồng
(...) chị buồn c̣n hơn những hạt mưa
sầu hơn cổ nhạc tự ngàn xưa
nhớ thương em trốn vào thi khúc
sao chút ḷng em vẫn cứ thừa... "
(CODDTT tr 39,40)
Bài Khiêng Nước gợi cảm hơn khi đi sâu vào
vùng kư văng:
"một cái thùng con con / một đọan tre nho nhỏ
chị thương chịu nặng hơn / lâu lâu hơi
cau có
em đi trước run run / đồn nghiêng v́ vai thấp
dốc đá vấp luôn luôn / thùng va vào sau gót
(...) ở đây trời đẹp lắm / sao chẳng
hề thấy vui
chẳng phải v́ em khổ / chợt nhớ nhà đó thôi
ước chi được nhỏ lại / như
những ngày tản cư
cùng chị đi khiêng nước / bắt ṇng nọc
vọc chơi "
(NNCN tr 126-7).
Cuộc đời mới
Rời quê hương đă là một mất mát và quyết
định ra đi đă là một khó khăn dứt khoát,
cay đắng ngay từ bước đầu ly
hương:
" từng người một xăn quần dở áo
thịt da vàng lở lói ǵ không
máu rất đỏ nhưng hồn bầm nhẫn
nhục
thẹn đong đầy từng bước lưu
vong
bữa cơm trưa quê người thứ nhất
có thịt gà trứng vịt khoai tây
cơm quá khô thầm chan nước mắt
nuốt nửa chừng, mửa lạnh bàn tay"
(4 Giờ Tại Phi Trường Thái Lan-NNCN, tr. 31-2)
Bắt đầu cuộc đời mới, như cơng
trên lưng nỗi nhọc nhằn:
" ta cơng trên lưng cái thùng thật lớn
c̣n nặng hơn cái tấm thân ta
cố nghiến răng giữ cho khỏi ngă
mỗi bước chân chếnh choáng như là..."
(Nghề Nghiệp Mới, NNCN, tr. 74).
Tâm trạng lưu xứ thường u uất, yếm
thế đó hiển nhiên nhất trong tập Ngơ Ngác Cơi
Người:
..."Ta thẹn làm người tự do viễn xứ
ngó lại đời ḿnh trùng điệp số không "
" cánh chim nào chợt bay qua
hồn chao động giọt mưa xa xót buồn "
" ta khuyên ta buổi sáng
ta dỗ ta buổi chiều
chớp mắt gặp ác mộng
đời cứ thế buồn thiu..."
(NNCN tr 104)
Trong t́nh huống không lựa chọn đó, nhà thơ
hẹn sẽ về:
"... cúi xin cây cỏ đừng thổn thức
tôi sẽ trở về dù hóa ma" (NNCN tr 23).
Thê thảm nào hơn, dù có khi nhà thơ lẩn thẩn
tự hỏi
..." ví như ta được thành ta nữa
thơ thẩn một đời lại thẩn thơ
bài thơ mai mốt ra sao nhỉ
có đỡ xót xa hơn bây giờ ?"
Một nơi rất xa quê, mà khoảng cách-ly chính trị,
xă hội có thời rất là xa, nơi đó, nhà thơ
nghĩ ǵ? sống ra sao? Hăy xem Ta Phỏng Vấn Ta, một
bài thơ đặc biệt về h́nh thức thơ (-
tiền thân của Tân h́nh thức, Rap !) lẫn nội dung
tự phỏng vấn hỏi lấy ḿnh:
" (hỏi: ) nghe đồn ngươi rất lè phè
nằm ngồi đi đứng cặp kè với thơ
lâu ngày lâm bệnh ngẩn ngơ
làm thơ đổi cái dật dờ đó chăng ?
(trả lời: ) cái ta có thể thưa rằng:/ ham
chơi lười biếng, nói năng vụng về/
tĩnh khô mà gỉa như mê/ phơi thân che bóng đi
về phất phơ/làm thơ là để phỉnh
phờ/cái phần đă chết mà ngờ sống luôn/ làm
thơ nhiều lúc như tuồng/ đi quanh một
chặp giải buồn vậy thôi/ t́nh theo chữ thở
trăm lời/ hồn theo t́nh mở một trời
nguyệt hoa / làm thơ là để lân la/ chui từ cái
nhớ chui qua cái buồn/làm thơ là để b́nh
thường/ cái ta cứ thích đứng đường
ngó em/làm thơ là để lênh đênh/ trên gịng rảnh
rỗi chợt quên mất ḿnh/ làm thơ là để làm
thinh/im nghe ta tự tỏ t́nh với ta/ làm thơ là
để dần dà/ trở thành ông thánh hóa ra ông khùng/làm
thơ là sống ung dung/ để cho óc khỏi lùng bùng
nôỉ điên/làm thơ là có đủ quyền/ ba hoa
tưởng tượng đă ghiền mới thôi/với
ta, thơ như bầu hơi/của hai lá phổi lôi thôi
thở hoài/ ngày nào thơ chẳng lai rai/kể như ngày
đó coi ṃi muốn đau/ ..."
Nơi đất người, chốn b́nh yên, nhà thơ
thấm thía cuộc sống Ngày Qua Ngày, tự thán, tự
vọng:
"1. phải chi có con kiến / hay một hai con ruồi
ngồi nh́n chơi đỡ nhớ / đỡ lẩn
thẩn ngược xuôi
ra đường mặt ngơ ngác / về nhà ngồi
buồn xo
đắp mền nằm nghe nhạc / trong bụng
đầy âu lo
thơ người đọc không nổi / thơ ta, ồ
dở ̣m
h́nh ảnh thô, từ mộc / quờ quạng măi phát nhàm
cúi đầu hoài đất mỏi / ngẩng mặt mây
ủ ê
không người mà nghe gọi / ừ, th́ mai ta về
2. ước chi có con muỗi / cho hút bớt máu buồn
ước chi ai gơ cửa / ta tặng đời ta luôn
bạn ,thằng vừa được job / tối mặt
mũi kiếm tiền
đôi ba thằng lay off / lang thang làm thánh hiền
thùng thư ngày ngày rỗng / bóng mẹ mờ mịt mờ
nửa đêm mơ giài phóng / thở dài đến bao
giờ ?
ngày qua ngày nhai lại / cơm thịt nuốt không vô
ngọn cây sầu xanh măi / chùn bước đời
ngựa ô"
(NNCN, tr. 42-43)
Luân-Hoán cho người đọc thơ những
tường tŕnh về cuộc sống thường
nhật của ông, nào đi kiếm việc, đi làm,
đi ngao du phố phường bằng xe buưt,
"ngồi lê" các quán phở, tiệm ăn Việt
Nam, Tây, rồi nào giặt đồ, dọn nhà, đám
cưới con gái, v.v.
"Ngồi lê" ở quán phở Ḥa, Mai, Huế, .. nghe
tiếng hát Hoàng Oanh mà nhớ Sài-G̣n "vài trái ớt ít
giọt chanh / v́ cay hay nhớ long lanh lệ trào?" (NNCN tr
102)
Đi kiếm việc, mệt ngồi nghĩ bên
đường: "lên đồ đi kiếm job /
từ mờ sáng đến chiều / job nào cũng hứa
gọi / mỏi chân ngồi đăm chiêu / (...) giữa gịng
người qua lại / một ḿnh ta nghỉ chân / lật
bản đồ t́m tiếp / những đoạn
đường phong trần ..." (Mỏi Chân Ngồi Bên
Đường Saint-Denis, NNCN tr. 71-2). Rồi không xa con lộ
nghỉ, nhà thơ ta cũng t́m ra job: " ... sáng đi
như đuổi ma, / chiều về như ma đuổi
/ người hai chân bôn ba / ta cẳng rưỡi giong
ruỗi / cái bị nặng bên vai:/ bánh ḿ kẹp thịt
nguội / trái pomme thay củ khoai / lon Seven-Up lạnh / lên
bus, métro / đứng ngồi ta nhắm mắt / chẳng
muốn thấy muốn nghe / c̣n ǵ sợ mất
mặt?..." (Đi Làm Cu Li ở Đường Iberville, NNCN, tr.
73).
T́m được job, nhưng đến ngày Mùng Một
Tết Ta, ở xứ người rơi vào bất cứ
ngày nào, nhà thơ ta cũng phải ở nhà ăn Tết,
job tạm bỏ một bên: "cho dù chúng có đuổi ông
/ hôm nay ông cũng ngồi không ở nhà / cho dù Tết
chẳng ghé qua / vợ chồng con tụm đổi quà
chúc nhau / mở chai rượu lạnh đă lâu / phá
giới ông uống cho đầu óc quay..." (NNCN, tr. 82).
Cuộc đời mới với vai-tṛ xă hội, thứ
bậc đổi thay như vừa nói qua cũng như
đă thấy trong bài Ta Phỏng Vấn Ta ở trên. C̣n job
ngày ngày đưa con đi học: "Xe bus vàng sẽ
đưa con đến lớp / sáng hôm nay trời ẩm
ướt hơi mưa / cây c̣n lá nhưng đă buồn
đôi chút / cỏ bên đường cũng chớm úa
lưa thưa ..." (Theo Chân Lê Ngọc Hoàng Bách, NNCN tr. 62).
Thiên nhiên, cảnh trí cũng đượm tâm t́nh con người
đă "chớm úa lưa thưa". Rồi Giặt Áo
Quần Cho Vợ, Luân Hoán đă viết những câu thơ
nhân-sinh thật đẹp:
"trộn t́nh ta vào trong bột giặt
ṿ nhẹ nhàng bởi lo sợ em đau
vải c̣n đượn mùi thịt da em thơm ngát
tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau
trông thau nước đục lờ những cáu bẩn
ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng
chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu
nuôi chồng con dài năm tháng gian nan
ṿi nước nhỏ chảy qua từng thớ vải
như chảy vào trong cùng tận ḷng ta..."
(NNCN, trang 67).
Con người lưu đày với tật bệnh
đời sống lại càng khó hơn và càng phải
nhiều cố gắng. Nhà thơ nói đến Hạnh
Phúc Ta của t́nh cảnh một chân: "ta đă từng
nói trước / qua đây là bó tay / một chân làm sao
chạy / theo cái đời lăn quay / ngồi không, ừ,
sướng lắm / mỉa mai hoài làm chi / sống liều
mạng vẫn sống / ta chừ có ra ǵ / và cơm cùng
nước mắt / cúi mặt sợ em buồn / cổ ta
không ai bóp / ăn bánh ḿ mắc xương ..." (NNCN tr.
51). Bi hoài hơn Tú Xương sông Vị ngày xưa !
Có lúc nhà thơ cũng liều xin vợ hiền tí tiền
uống bia nuôi cái ngông buồn xa xứ, dĩ nhiên nào có
được yên: "xin vợ dăm cents lẻ /
dồn mua bia uống chơi / một ḿnh ta một
chiếu / xem ra vẫn thảnh thơi / bia chua hay bia
đắng / nốc cạn cái cuộc đời / tại
sao em đập chén / trong hồn ta em ơi / rảnh
rỗi sao không viết / ngơ ngác cơi quê người /
tiến lên th́ bất lực / ngó lại hết
đường lui / cái cần ta không đạt / cái
đạt người không cần / lỡ tay đời
thầy thợ / ước ǵ mọc lại chân / th́ thôi,
thôi cứ uống / không say th́ gỉa say / hết bia c̣n
nước lă / chơi cho đời biết tay"
(Một Chiếu, NNCN tr. 54).
Cuộc sống không bao giờ nguôi ngoai những trăn
trở, âu lo: "... nợ nước nợ nhà chưa
trả / sợ chi cái thứ nợ say / năm bảy chén
sầu cạn sạch / mặt mày như thịt heo quay /
rung đùi đọc thơ Nguyễn Bính..." (Bắt
Chước Viết Hành Ca Lưu Vong, NNCN, tr. 98). Thơ
tự nhiên, làm như "cuộc sống ḿnh càng giàu khó
khăn th́ càng phải hành hạ chử nghĩa nhiều
hơn" như nhà thơ có lần trả lời tạp
chí Văn Học
(115, 11-1995, tr. 74).
Cuộc sống lúc nào cũng dày đặc nỗi lo
sợ đánh mất con người thực của ḿnh.
Mới ba năm lưu xứ mà đă dài như lâu lắm:
"ba năm lạng quạng xứ người / soi
gương già khọm như mười mấy năm /
th́ ra sữa thịt lùi chân / trước anh địch
thủ ngàn cân buồn phiền" (Thơ Mùa Xuân Con
Rồng, NNCN, 106), v́ từng ngày đă là những
đoạn đường dài: "đêm dài dài dằng
dặt / thức đái thức đái hoài / nước ǵ
trong đôi mắt / thỉnh thoảng giọt giọt
dài"
(Gọi Tên Bạn Bè, NNCN, tr. 58).
Sau ba năm ở Montréal, nhà thơ Nghêu Ngao Giữa Ḷng
Montréal chiếm một phần lớn số trang (tr. 34-118)
của Ngơ Ngác Cơi Người, có thể xem là
một kỷ lục. Luân Hoán đă thở vào đất
đai, cây lá nơi ông đă chịu ơn. Hơi thở
Việt Nam t́m được nơi "được cười
được nói được than thở":
"đứng hát giữa ḷng Montreal
trời xanh trời xanh trời quá xanh
có con chim nhỏ bay trong nắng
chở cả ḷng tôi bay quẩn quanh
bỗng tưởng chừng như máu tim ta
đỏ hơn thời tù tội quê nhà
phải chăng chớm nở mầm vong bản
nhục nước phai v́ bả vinh hoa
và tưởng chừng như Montreal
có ta cây cỏ càng thêm xanh
ba năm hồn rót vào thớ đất
góp cả buồn vui cho lá cành
và tưởng chừng như mây khói bay
có hơi ta tiếp nối vơi đầy
được cười được nói
được than thở
không thể không yêu xứ sở này..."
(Nghêu Ngao Giữa Ḷng Montréal, tr. 115-117)
Thấm thía cuộc đời xa xứ, với những
bằng chứng vật lư của thời gian:
"Chiều thứ sáu về sớm hơn thường
lệ
em ôm hôn như thuở mới yêu nhau
thua cháy túi riêng cuộc t́nh đúng lại
giữ cho ḷng gắng đứng tiếp hôm sau
trong tha thiết vang lời em kunh ngạc:
ồ cái ǵ như tóc bạc, đầu anh
(...) không đâu em, chúng chính là đá trắng
đang xây dần phần mộ của riêng ta
hoa ngập nước lâu ngày đành phải ră
hồn ngấm sầu lâu quá phải phôi pha
luật trời đất có sinh có tử
sá chi ta mới chớm trổ sắc ǵa
đời sống bám vinh danh ǵ nuối tiếc
kéo dài chi kiếp bỏ nước không nhà
(...) tóc chớm bạc nhưng hồn sầu đă bạc
xin nhẹ tay, ta nghe nhói cơn đau"
(Bạc Tóc, tr. 68-9)
Điệu buồn đến gần đây, 2003, vẫn c̣n
đó, đậm hơn, sâu hơn, như trong bài Luận
Về Nỗi Buồn ông gọi là "thơ viết
chơi" đăng trên trang Luân-Hoán Internet:
"em muốn được xem nỗi buồn ta ?
nỗi buồn ta có từ hôm qua
cọng thêm chừng độ mươi năm
trước
tưởng chẳng bao nhiêu hóa ra là...
(...) buồn là buồn là buồn, buồn, buồn
buồn t́nh nhập lại với buồn suông
hỡi ơi hạnh phúc ta giàu vậy
giàu vậy dại chi không dám buồn
em cầm đă được một làn hương ?"
Người đọc vẫn yêu thích những bài thơ
t́nh của Luân-Hoán, là lănh địa của chàng, nơi
chàng trai xứ Quảng quen lời ăn tiếng nói, quen
hành cử phóng túng t́nh tang! Nơi xứ người, ông
vẫn đa t́nh, da diết, vẫn nhiều vần thơ
cho t́nh, nhưng người đọc thơ t́nh ông th́
lại như hụt hẫng, v́ h́nh như thời gian và
không gian của t́nh đă qua, đă không trở lại,
nếu có chăng cũng không trọn vẹn, tự nhiên!
Nhà thơ t́nh xứ Quảng, của Đà Nẵng, sau 1985, Luân
Hoán đă dệt những vần thơ lưu xứ
đậm t́nh người, những điệu rất
thơ, rất Việt Nam ở chỗ bi thương,
những "lưu bút" đáng kể của một
trang sử Việt ! So với trước 1975, đây là một
thế giới thơ đứt đoạn. Nhà thơ
thuộc thế hệ tị nạn tiếp sau thời
những "người di tản buồn", rồi
vốn đă lâu ăn ở trong ngôn ngữ dân tộc
nhuần nhuyễn, nên chỗ đứng trên thi-đàn
đă là điều hiển nhiên. Nếu "phân tích"
hết các tác phẩm thơ thời sau của ông, giữa
những chằng chịt tâm thức, t́nh cảm,
người đọc sẽ t́m ra một xuyên suốt có
tính sáng tạo, ở ngôn ngữ, tiết điệu, h́nh
ảnh, ở cả lối kể lể có thể hiểu
là "lắm lời" - oan khiên của nỗi nhớ và
của đời xa! Thật vậy, ở văn
chương gọi là lưu vong đó, cái thực hữu,
cái thực sống, phải chăng chỉ là thế
giới của kư-ức, của quá khứ ? Luồng
điện ư thức đó đưa con người
trở về quá văng, đưa đến những tâm t́nh
với hồn ma bóng quế, những con đường,
góc phố đă đổi tên, đổi chủ. Tính
thơ xuất hiện ở giữa những ḍng chữ
đó, xuất hiện từ kư ức và sáng tạo pha
trộn. Mà thế giới cũng trở nên có ư nghĩa,
nhờ chức năng của thi ca và sáng tạo! Nhà thơ
có thành công hay không là ở tài truyền thông cái sáng tạo
mới từ chất liệu hồn cũ này! Sống
đời lưu xứ, đọc thơ Luân-Hoán như
t́m tâm sự chính ḿnh, vẫn là một cái thú tinh thần c̣n
lại! Thành thử, cùng Cao Đông Khánh và Du Tử Lê, Luân Hoán
đă thành công biến Cơi Người Ngơ Ngác thành thơ
và đưa tính thơ vào kiếp lưu vong ngày càng rời
xa một vùng địa-lư và một trời quá khứ!
Nguyễn Vy-Khanh
11-2003