Luân Hoán với Đà
Nẵng
Phan Xuân Sinh
Hai người cộng đủ hai chân
trải thơ dán cái phong trần đăi nhau
c̣n mưa c̣n nắng đội đầu
chân t́nh c̣n đỡ gốc sầu trổ thơ
Luân Hoán
Đó là mấy câu thơ của Luân
Hoán viết tặng tôi. Hai anh em chúng tôi đều bỏ
một phần thân thể và xương máu tại
chiến trường. Anh bị thương 1969 tại
mặt trận Quảng Ngăi, tôi bị thương 1972
tại mặt trận Quảng Nam. Anh mất một bàn
chân trái, tôi mất một bàn chân phải, nếu hai
đứa tôi cộng lại chỉ bằng một
người b́nh thường. Chỉ khác một
điều, anh là người rất nổi tiếng lâu
nay, c̣n tôi chỉ là thằng làm thơ vớ vẩn
chẳng ra ǵ. Câu thơ nghe chua xót quá, thế nhưng tôi vô
cùng thích thú, thấy được tấm ḷng của anh
trăi ra đối với tôi, không kể chi thành danh hay
tuổi tác.
Khi tôi bước chân vào những năm đầu của
trung học, th́ anh Luân Hoán sắp sửa rời khỏi
trung học. Nói để biết rằng anh thuộc hàng
huynh trưởng, trang lứa với anh lúc đó có Chu Tân,
Đông Tŕnh, Hà Nguyên Thạch, Đynh Hoàng Sa v.v...ở Quảng Nam
- Đà Nẵng. Nhưng phải nói Luân Hoán là người
nổi nhất trong những người làm thơ thuở
đó, tên tuổi anh gắn liền với cái thành phố
thân yêu nầy. Ai tới Đà Nẵng hỏi bất cứ
người nào về Luân Hoán, họ đều biết
ngay, mỗi người mỗi chút về anh, sự
thật có, thêu dệt có, cường điệu có,
tạo ra môt chân dung Luân Hoán thật dễ thương,
thật trân quư. Khi anh đă thành danh, th́ lúc ấy tôi mới
bắt đầu chập chửng làm thơ, anh đang
ở trên ngọn cây th́ tôi c̣n trượt lên trượt
xuống, ngả tới ngả lui dưới gốc, không
cách nào ḅ lên khỏi gốc được. Kém tài, kém
sức, đầu óc chỉ quẩn quanh mấy vần
điệu xói ṃn rỗng tuyếch, tôi biết phận ḿnh
không có khiếu văn chương, không có tâm hồn thi phú,
th́ dù có cố gắng cách mấy cũng chẳng làm nên
chuyện.
Hồi đó, khoảng giữa thập niên 60 khi c̣n đi
học, tôi phải nhịn ăn quà buổi sáng để
lấy tiền mua báo. Tôi có đủ trọn bộ Bách
Khoa, Văn, Văn Học, mà bạn bè trang lứa của
tôi lúc ấy nh́n thấy thèm chảy nước miếng.
Mỗi cuối tháng tôi đạp xe xuống nhà sách Lam
Sơn ở đường Bạch Đằng, đứng
chờ báo từ Sài G̣n về th́ chạy vào mua ngay. Dựng
xe bên lề, t́m mấy bài thơ đọc trước dù
trời nắng chang chang như đổ lữa. Hôm nào có
đăng thơ của Luân Hoán là bữa đó trong
bụng sướng rân, trời như mát lại. Mấy
thằng bạn ngồi ở nhà chờ báo về coi
cọp, chúng nó cũng ở tâm trạng giống tôi là thích
thơ Luân Hoán, đọc tới, đọc lui, trằm
trồ. Sau nầy khi lớn lên một chút, nghiệm
lại tâm trạng nầy chúng tôi phân tích một cách
rất chính xác về hiện tượng Luân Hoán trong ḷng
chúng tôi lúc ấy: Anh là người Đà Nẵng của chúng
tôi. Thơ anh không cầu kỳ, kênh kiệu. Thơ anh man
mác, mang nụ cười tũm tĩm nhưng sâu lắng.
Anh làm thơ sao thấy dễ dàng quá, giống như móc
đồ trong túi ra. Đọc thơ anh thấy gần
gũi, thân mật ù. Sau nầy khi tôi bắt đầu làm
thơ tôi mới thấy thơ Luân Hoán thấy vậy mà
không phải vậy, thơ anh mới đọc qua
tưởng chừng như dễ dàng, nhưng quả
thật là cực kỳ khó khăn. Chính điều nầy
tạo cho Luân Hoán một chỗ đứng riêng, không ai có
thể làm giống hoặc na ná thơ của anh
được.
Tôi không c̣n nhớ ai đó tặng cho tôi tập thơ
"Về Trời" của anh, tôi lận trong
người đi đâu cũng mang theo như một
loại kinh điển, đọc đi đọc
lại. Ngồi uống café với bạn bè bao giờ
cũng đọc vài câu thơ của anh để làm quà.
Khi thấy anh, tôi định mang tập thơ tới cho
anh kư để giữ trong tủ sách làm kỷ niệm,
nhưng khi móc trong người ra th́ nó không c̣n h́nh dáng trang
nhă của một tập thơ, qua bao nhiêu ngày lận trong
người, đẩm ướt mồ hôi trên lưng xe
đạp, vo tṛn cầm trên tay, bây giờ nó tơi tả
rách bươm. Tôi không dám mang lại để anh nh́n
thấy sản phẩm quư báu của ḿnh bị một
thằng nhăi con phá hoại. Tôi cũng tiếc hùi hụi,
tập thơ đó không có chữ kư của anh. Trong sinh
hoạt văn nghệ của Đà Nẵng thuở đó, Luân
Hoán được xem là người tiêu biểu, thơ anh
được đọc trong những đêm
được tổ chức dành riêng cho anh một cách
trang trọng. Theo tôi biết, có lẽ chỉ có anh mới
được niềm vinh dự nầy nhiều nhất,
mặc dù trước anh, cùng thời với anh hoặc sau
anh, Đà Nẵng cũng có những nhà thơ nổi tiếng
trên văn đàn nhưng tiếng tăm của họ,
hoặc cảm t́nh của người đọc tại
thành phố nầy dành cho họ không bằng anh
được.
Trước năm 75, tôi không quen với anh. Nhưng tôi là
dân Đà Nẵng nên biết mặt anh. Luân Hoán vào Thủ
Đức, Luân Hoán ra Sư Đoàn 2, Luân Hoán bị thương,
Luân Hoán làm việc ở Ngân Hàng, và sau 75 Luân Hoán đi Canada.
Có lẽ anh là người được mọi
người biết nhiều nhất và lưu tâm nhiều
nhất. Cùng thế hệ với anh có Chu Tân cũng ở
Đà Nẵng, một nhà thơ cũng nổi tiếng cùng
thời với anh. Chu Tân cũng đi lính và mất một
bàn chân như anh. Thế nhưng Chu Tân chỉ
được bạn bè và những người lưu tâm
đến văn nghệ biết tới điều nầy
c̣n quần chúng h́nh như ít ai biết. C̣n anh, th́
ngược lại khác hẳn, tin anh bị thương
ở Quảng Ngăi nhanh chóng truyền về Đà Nẵng,
trước hết là bạn bè anh, giới văn nghệ
và sau được lan tràn ra quần chúng. Được tin
nầy ai cũng ngậm ngùi thương thiếc. Đúng là
tài hoa bạc mệnh. "Nén Hương Cho Bàn Chân Trái"
ra đời, lúc đó tôi không đọc được
bài thơ nầy, cũng như không có tập thơ
nầy trong tay. Bài thơ nầy được truyền
tụng ở Đà Nẵng, mọi người cho đó là
một bài thơ tuyệt vời của Luân Hoán. Đến
đầu tháng 6 năm 1972, trong một cuộc hành quân
tảo thanh tại Cẩm Hải, Quảng Nam, tôi cũng
mất một bàn chân tại chiến trường. Tôi
cũng được đưa về nằm tại Pḥng
1A của Tổng Y Viện Duy Tân, mà trước đó 3
năm có lẽ Luân Hoán cũng điều trị tại
đây. Một người bạn tới thăm tôi, mang
cho tôi tập thơ "Nén Hương Cho Bàn Chân Trái".
Tôi là một người cùng cảnh ngộ với Luân
Hoán, Anh mất một bàn chân lúc 28 tuổi, tôi mất
một bàn chân lúc mới 24 tuổi. Chiến tranh đă
cướp của chúng tôi quyền được
sống, đă đẩy chúng tôi ra khỏi cộng
đồng của loài người. Thú thật, trong
những ngày nằm tại Tổng Y Viện, mỗi
lần mở tập thơ của anh ra đọc, tôi
đều khóc sướt mướt, khóc ấm ức
trong tức tối. Tâm trạng của tôi lúc ấy không
phải là đọc mà là nuốt từng lời từng
chữ của anh, nuốt tới đâu nghẹn ngào
tới đó. Trong tột cùng của đau khổ như
nhau, không có ai hiểu anh bằng tôi lúc ấy. Anh đă nói
lên giùm tôi tất cả những ǵ mà tôi không nói
được. Cái đau của anh là cái đau của tôi,
cái nhức nhối của anh cũng là cái nhức nhối
của tôi. Tôi đang quằn quại trên giường
bệnh đọc anh mới thấy thấm thía và càng kính
phục anh hơn. Chính sự mất mác quá to lớn
nầy, tôi đă hai lần tự tử được
cứu sống, bởi v́ tôi nghĩ không thể nào mang
một thương tật đau khổ nầy suốt
đời được. Những người bạn gái
đến thăm tôi một lần trong bệnh viện,
rồi ngoay ngoảy bỏ đi như trốn chạy
một loại cùi hủi. Trách sự bạc t́nh của
họ ư ? Không, tôi hoàn toàn không trách họ, chỉ
thấy tủi thân. Với tôi làm ǵ có cái cảnh: "Bên
người yêu tật nguyền chai đá"*, dù có
ngại ngùng họ cũng không thể đi bên tôi
được. Họ cao bay xa chạy cả rồi, có ai
dám đi bên ḿnh đâu. C̣n với anh, anh có môt chỗ
dựa thật vững chắc: Chị Lư, một
người đàn bà tuyệt vời. Một người
t́nh, một người thơ, một người vợ,
mang một ngọn lửa thủy chung, sưởi ấm
anh suốt cuộc đời c̣n lại. Cám ơn chị,
người làm nên Luân Hoán, người thay thế cho
đôi nạng gỗ vực anh đứng dậy, một
chỗ vịn vững chắc để anh tuôn những
câu thơ chắt lọc từ đáy ḷng. Trong muôn trùng
đổi thay của cuộc sống, chị đă
chống lưng cho anh đứng thẳng người.
Trong cái thành công của anh trên văn đàn, hơn một
nữa có sự hà hơi tiếp sức của chị.
Một người làm thơ, gặp một hoàn cảnh
đau khổ và vô cùng bi đát như anh. Chúng ta cũng
muốn biết anh làm thơ như thế nào giữa trùng
trùng bấn loạn của tâm hồn, anh mô tả thế
nào giữa lúc tinh thần ở trạng thái thấp
nhất. Trước đây chúng ta đă có Hàn Mặc
Tử, đem cái đau khổ của thân xác ḿnh vào thơ,
đă làm cho mọi người sững sờ thấm thía.
Bây giờ chúng ta có Luân Hoán, có "Nén Hương Cho Bàn Chân
Trái", đọc nó để chúng ta hiểu anh,
thương cho anh. Nếu người đọc cũng
"sững sờ thấm thía" th́ đó là thành công không
thể chối cải được. Trong "Chân Dung
Thơ Luân Hoán", anh rất tự trọng và khiêm
nhường để nói về tập thơ nầy:
"Không nên mang vết thương cá nhân của ḿnh (dù có
thể đại diện cho cả triệu đau
buồn tương tự) để làm một đề
tài ép người khác phải thưởng ngoạn,
phải xót thương. Không thể trách bạn đọc,
bạn văn có ư nghĩ sai lầm: dùng sự không may
của cơ thể, thịt xương để tạo
tiếng vang trên bước sinh hoạt văn nghệ. Dù
oan t́nh, tôi vẫn thành thật cám ơn bài học
nầy". Theo tôi việc đọc thơ, thưởng
ngoạn thơ không ai ép được. Đó là vấn
đề tự nguyện, đọc thơ mà cảm
thấy xót thương hoàn cảnh đau đớn
của tác giả, người đọc có
được một bữa thưởng ngoạn
rất lư thú. Họ phải cám ơn tác giả. Sợ
rằng tác giả không làm được điều
nầy. Chứ làm "tới" như anh, th́ làm sao có
sự trách móc được.
Người ta bảo, sau khi bị thương, thơ
của Luân Hoán mang vẻ phản chiến? Anh thù ghét và
đay nghiến cuộc chiến. Đúng vậy, chính tôi
cũng ở trong tâm trạng nầy. Nghĩ lại cho
cùng, có ai thích chiến tranh đâu. Nói đến chiến
tranh là nói đến sự tan nát chia ĺa, sự cùng cực
khổ đau. Chỉ có những người kinh doanh trên
xương máu của kẻ khác, những người
sống bằng quyền lợi của cuộc chiến
mang lại, những người được bỗng
lộc, giàu sụ bất kể sự oằn oại
của dân tộc, họ mới thích chiến tranh. C̣n
phần đông chúng tôi thuộc loại "dân ngu khu
đen", những người cô thế bị
đẩy ra chiến trường một cách oan ức,
làm những con vật hy sinh tế thần. Phía sau, cả
một tập đoàn mục nát, chễm chệ ngồi
trên đầu trên cổ điều khiển và vơ vét.
Miền Nam cũng như Miền Bắc toàn một thứ
như nhau cả. Chỉ có người dân hai miền
bị thiệt tḥi. Trách anh Luân Hoán thật là oan ức,
những người chưa hề nếm được
cái mùi đau khổ do cuộc chiến gây ra th́ làm sao
biết được sự khổ đau nầy.
Thỉnh thoảng, tôi có đọc vài bài thơ của anh
dưới cái dạng đó, tôi vẫn thấy anh hiền
ḥa, nhân hậu và nhẹ nhàng với cuộc chiến tranh
phi lư . Cũng trong thời gian bị thương, tôi có làm
vài bài thơ về cuộc chiến, bằng cái giọng
mất b́nh tĩnh, phẩn nộ, thù ghét, đay nghiến,
chưởi đổng, nặng kí hơn, mạnh tay
hơn. Rất tiếc, cùng chung với số phận
tủ sách gia đ́nh trong những tháng đầu Việt
Cộng chiếm Đà Nẵng, sách nào cảm thấy không nguy
hại th́ đem nộp cho Thông Tin Văn Hóa. Sách nào mang
hơi hám bất lợi th́ Ba tôi thiêu rụi. Trong đó có
những bài tùy bút và mấy vài chục bài thơ của tôi.
Khi mất Đà Nẵng tôi đang sống ở Sài G̣n.
Luân Hoán cùng với bạn bè anh sau nầy mở một
tiệm café ở đường Hùng Vương, Đà
Nẵng. Tiệm mang tên "Từ Thức", một nhân
vật mê gái rất dễ thương trong huyền
thoại, đă lạc vào tiên giới. Thỉnh thoảng
tôi cũng chống nạng vào đó uống café, nhưng ít
khi gặp anh. Đây là một nơi mà bạn bè viết lách
của anh hay lui tới. Trong thơ anh gắn liền
với Đà Nẵng nhiều, anh thủy chung với Đà
Nẵng cho nên người dân ngoài tôi rất quư trọng
anh. Cũng như Hoàng Lộc với Hội An vậy. Có
nhiều lần nói chuyện với anh bằng điện
thoại mới biết xa Đà Nẵng mấy chục
năm, anh vẫn nhớ rơ ràng tứng góc phố, từng
con hẻm, nhà của từng người thân quen với
anh, những người đàn bà đẹp, những xóm ,
những làng của Đà Nẵng một thời anh c̣n cắp
sách. Vào Webside của anh mới thấy anh nặng t́nh
với thành phố nầy, anh đă dành rất nhiều
thời giờ để viết về Đà Nẵng,
để những đồng hương có thể vào đây
dạo một ṿng t́m lại những kỷ niệm.
Cuối năm 1974 tôi vào Sài G̣n, rồi sau đó Miền Nam
rơi vào tay Cộng Sản. Thơ Luân Hoán không c̣n
đất dụng vơ v́ những tờ báo hàng đầu
của Sài G̣n bị đóng cửa , anh vẫn c̣n ở
lại Đà Nẵng, cùng chung với số phận với các
văn nghệ sĩ khác, anh sáng tác trong tư thế chui
rúc, rất nguy hiểm. Thế nhưng, làm sao anh bỏ
thơ được. Anh một đời sống
với thơ, thủy chung với thơ, th́ dù có chết
anh vẫn một ḷng với thơ. Chính v́ thế sau
nầy ra hải ngoại, chúng ta được
đọc những bài thơ anh sáng tác trong nước,
được cất giữ kỹ càng, lén lút gửi
đi. Ta ra ngoài nầy đọc thấy rất an toàn,
nhưng nghĩ lại thương anh, sáng tác trong thập
phần nguy hiểm. Ta mới thấy được cái
can đảm của anh lúc bấy giờ không thua ǵ
người lính đứng trước đầu tên
mũi đạn. Vẫn cái giọng rất Luân Hoán đó
nửa cười, nửa như khóc, đọc lên
thấy thấm thía cho số phận con người
của anh.
Cách đây chừng 7 năm, tôi có dịp đi Montréal cùng
với một số anh chị văn nghệ của
Boston. Qua đó anh Trần Hoài Thư đề nghị
đi thăm Luân Hoán, tôi tháp tùng đi ngay. Biết Luân Hoán
mấy chục năm trước, cùng ở một thành
phố với nhau, thấy anh cũng đă nhiều
lần, thế nhưng ngồi với nhau nói chuyện ,
th́ tôi chưa được hân hạnh đó. Đây là lần
đầu tiên ngồi nói chuyện với anh, chụp h́nh
với anh, khi ra về anh tặng cho mỗi người
một tập thơ, không biết sao anh lại viết
tặng tôi tới hai tập: "Mời em lên ngựa"
và "Đưa nhau về đến đâu". Khi ngồi
trên xe ra về tôi lật vội t́m mấy bài lục bát
của anh ra đọc trước. Ngày xưa thú thật
tôi mê nhất là thơ lục bát của Luân Hoán và Viên Linh,
đọc lên thấy sướng ghê lắm. Bẵng
đi một thời gian đọc lại anh, thấy anh
vẫn c̣n chiếm ngự trong ḷng yêu thơ của tôi.
Tháng 7 năm 2000, Tôi ra mắt tập thơ "Đứng
Dưới Trời Đổ Nát" tại Boston, tôi có
mời anh và một số anh em văn nghệ của
Montréal đến dự. Mời vậy, nhưng tôi nghĩ
anh sẽ không bao giờ đi. Điều thứ nhất tôi
là một thứ vô danh tiểu tốt. Điều thứ hai
anh ít khi đi xa, v́ bàn chân giả hơn 30 năm không
được thay, nên đi rất đau. Thế mà anh
không nệ hà những chuyện nầy, anh và các anh Song Thao,
Hồ Đ́nh Nghiêm, Hoàng Xuân Sơn đều có mặt trong
bữa đó, cùng với một số anh chị em văn
nghệ ở những tiểu bang xa xôi. Đó là những
người bạn trong số những người tham
dự làm cho tôi cảm động nhất. Sau nầy có
dịp qua Montréal nhiều lần và lần nào cũng
gặp anh, tôi mới biết anh rất có t́nh với anh em
văn nghệ, trăi ḷng ra để tiếp nhau. Chân anh
đau ngồi lâu không được, sợi dây cột
chân bó chặt máu không lưu thông, ngồi một chút là
phải đứng dậy. Anh bị bệnh suyễn,
thuốc lá và rượu là điều cấm kỵ,
thế mà ngồi với anh em, anh cũng uống
đến tàn cuộc rượu mới ra về. Đó là
những ǵ tôi biết về Luân Hoán sau nầy.
Ngày xưa, tên tuổi Luân Hoán dẫm nát trên các tạp chí
văn nghệ hàng đầu của Miền Nam. Tụi
tôi, những thằng nhóc con mới tập tểnh làm
thơ ở Đà Nẵng nghe tên anh đă sợ mất
hồn. Ngày nay, mom men bước chân vào chốn văn
nghệ, đối với tôi bóng của anh vẫn c̣n lớn
quá, sự nghiệp của anh đồ sộ, nội
lực anh c̣n thâm hậu, trái tim anh vẫn c̣n rạo
rực trẻ trung, thơ anh vẫn c̣n lai láng..c̣n khả
năng tả xung hữu đột. Chưa thấy anh
mệt mơi, hay dừng bút. Đó lại là điều đáng
sợ hơn. Trong lúc tôi mới ngo ngoe được vài câu
thơ, bây giờ đă cảm thấy cùn trí. Anh xứng
đáng tiêu biểu là người Thi Sĩ kiên cường
của quê hương tôi, tên tuổi anh xứng đáng
gắn liền với thành phố đă nuôi anh lớn
khôn., đó là thành phố Đà Nẵng.
Boston, những ngày đầu năm 2004
Phan xuân Sinh
*Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá
Kỷ vật cho em (nhạc Phạm Duy)