LÀM
THƠ NHƯ NÓI CHUYỆN
Trần
Gia Phụng
Những
ư nghĩ của tôi dưới đây về thơ Luân Hoán
hoàn toàn có tính cách chủ quan.
Tôi không dám so sánh Luân Hoán với bất cứ nhà
thơ nào khác, v́ thứ nhất mỗi người mỗi
vẻ, không thể so sánh nhau được; thứ nh́
thích hay không thích, hay hay dở, đẹp hay xấu, tùy theo
tâm cảm mỗi người thưởng thức; bá nhân
bá tánh. Có người thích
thơ Đường, có người thích thơ mới, có
người thích thơ lục bát, có người thích
thơ tám chữ, có người thích thơ lăng mạn, có
người thích thơ trào phúng ...
Riêng
tôi, tôi thích thơ Luân Hoán v́ ba lẽ: thứ nhất thơ
Luân Hoán b́nh dị, thứ nh́ Luân Hoán hay viết về Đà
Nẵng (thành phố tôi đă sống lâu năm), thứ ba,
thái độ ung dung thoải mái trong thơ Luân Hoán dầu
đă bị thương tật trong cuộc chiến vừa
qua.
Thứ nhất, trong khi làm thơ, Luân Hoán sử dụng ngôn từ b́nh dị tự nhiên tài t́nh. Từ ngữ b́nh dị nhưng sức diễn đạt hấp dẫn một cách lạ lùng, làm cho người đọc nắm bắt được dễ dàng những ư tưởng trừu tượng mà anh muốn chuyển đạt, mà chuyển đạt một cách rất là ‘thơ’. Ví dụ, trong một lần về thăm trường cũ, trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng, Luân Hóan đă:
nhón
chân phủi sợi bụi già
đóng
trên khung cửa mở ra hững hờ
tôi
nh́n trong nỗi bơ vơ
không
thấy mà gặp thầy cô bạn bè...
‘Sợi
bụi già, cửa mở hững hờ, nỗi bơ
vơ, không thấy mà gặp...’ Từ
ngữ thật b́nh thường, nhưng người
đọc có thể h́nh dung cả một khoảng
thời gian xa cách (sợi bụi già), cả một không
gian vắng lặng (mở ra hững hờ, nỗi bơ
vơ), và cả một nhân gian đầy kỷ niệm
khắc sâu trong tâm cảm của một học sinh (không
thấy mà gặp thầy cô bạn bè).
Thơ
Luân Hoán không có điển tích xưa cũ, ít dùng chữ Hán
Việt ngoài những chữ phổ thông, không cầu
kỳ, không kiểu dáng; vần điệu mềm mại,
nhịp nhàng, không gượng gạo. Luân Hoán làm thơ như chúng ta nói
chuyện. Đó là cái tài của
Luân Hoán.
Thứ
nh́, Luân Hoán hay viết về Đà Nẵng, là thành phố tôi
sống trên 30 năm, từ tuổi thiếu niên cho
đến lúc trưởng thành.
Thời kỳ vui nhất của một đời
học sinh và để lại nhiều kỷ niệm trong
kư ức là thời kỳ học Trung học. V́ ở tiểu học nhỏ
quá, chúng ta chưa biết ǵ.
C̣n ở đại học, bắt đầu
hiểu biết sự đời, th́ lắm chuyện
phải lo toan. Trong những
năm Trung học ở Đà Nẵng, tôi học trường
Phan Thanh Giản ba năm ở đệ nhất cấp,
trường Phan Châu Trinh hai năm ở đệ nhị
cấp. Khi ở đệ
nhất cấp, mới qua khỏi bậc tiểu học,
c̣n bở ngở trẻ con.
Lên đệ nhị cấp là thời gian trí khôn
mở ra, biết suy nghĩ, biết nghịch phá, biết
vẫn vơ, biết ngồi quán nước, nhất là
biết ‘đi nghễ’. (‘Đi
nghễ’ là một từ ngữ thời tôi đi học,
sau nầy ít thấy nói đến.
Đi nghễ là đi dạo qua những chỗ đông
người để ngắm nghía phái đẹp.)
Thơ
Luân Hoán nhắc lại không phải trường Phan Châu
Trinh, Phan Thanh Giản mà cả các trường ở Đà
Nẵng, các địa danh của thành phố Đà Nẵng,
nghĩa là cả khung cảnh thơ mộng của
thời trung học của tôi ở Đà Nẵng. Khi ở trường Phan Châu
Trinh, tôi quen Luân Hoán, nhưng không thân. Anh ta ở cùng xóm với tôi. Đặc biệt, Luân Hoán, từ
thời học sinh trung học, đă có mái tóc bồng
bềnh như các thi sĩ lăng mạn thuở xưa,
kiểu Huy Cận, Xuân Diệu, nên rất dễ nhận ra
từ xa.
Thời ở trường Phan Châu Trinh, Luân Hoán và tôi học khác lớp. Anh ta thích làm thơ, đăng báo, nói chuyện văn chương với bạn bè, c̣n tôi lại thích đá banh, tắm biển, bắn chim, câu cá. Hai cách sinh hoạt nầy không đi đôi với nhau nên tôi ít gặp Luân Hoán, ngoài việc thỉnh thoảng gặp nhau khi đi học. Lúc đó, tôi chỉ biết Luân Hoán là một học sinh thích làm thơ, có máu văn nghệ, tánh t́nh hiền lành, đến độ nhút nhát, ít va chạm, nên rất được bạn bè thương quư. Có thể do tính nhút nhát, ít nói, Luân Hoán sống nhiều với nội tâm, với trí tưởng tượng, hay mơ mộng và nhờ thế anh hay làm thơ với tấm ḷng là ‘trang tự điển’ [chữ của Luân Hoán] về thành phố cũ, bạn bè xưa.
Thơ
của Luân Hoán tràn đầy h́nh ảnh Đà Nẵng thân yêu
tôi đă sống một thời: “chiều chiều
luồn chợ Vườn Hoa / trôi theo Đồng Khánh bám tà áo
bay / mắt hồng liệng cái ngoắt tay / dắt qua
Độc Lập dựa cây đèn đường / chập
chùng xuân ảnh vải hương / ngó ai ḷng cũng yêu
thương tức th́ / giả vờ châm thuốc nhâm nhi /
nuốt thầm vóc đứng, dáng di quanh ḿnh.” (Đà
Nẵng, 1960).
Ngày nay, nghe nói Đà Nẵng đă thay đổi rất nhiều. Đó là quy luật tất nhiên của cuộc sống, nhưng tôi vẫn tiếc nuối chợ Vườn Hoa, đường Đồng Khánh, đường Độc Lập, bến Bạch Đằng. Những h́nh ảnh xưa cũ nầy chỉ thấp thoáng trong thơ Luân Hoán: “...đà nẵng của tôi ơi đà nẵng / đâu ngờ c̣n có bửa hôm nay / vẫn hồn thuở trước bàn chân cũ / tôi dẫm lần trong đất bụi này // đường nắng dẫn tôi về Chợ Mới / ngập ngừng ngó lối cổng Mê Linh / áo em tà vướng vào rô líp / lẫy, véo tôi hồng năm ngón xinh // tiếp bước chân vui về Giếng Bộng / năm bồn xăng trắng góc Nại Hiên / em Sao Mai dáng buồn cổ viện / gió núi Sơn Chà lộng áo xiêm // theo nước Bạch Đằng qua bến Mía / quẹo lên Độc Lập nhớ nao nao / ṿng quanh Đồng Khánh, Trần Hưng Đạo / nghe gót chân xưa gơ dạt dào // thong thả mà đà qua Xóm Chuối? / ổ gà đường đọng nước mưa dông / nhớ thời lă lướt dông solex / đụng phải một người yêu mấy năm // đă tới đây rồi sân vận động / cơng em Hân đứng lệch hai vai / nắm đại tay người chui vô cửa / ḷng lăn theo bóng, vỗ tay hoài // đă tới đây rồi chợ Tam Giác / ngă lên ga lớn, ngă Thanh B́nh / ngă qua bệnh viện đa khoa, nhớ / trắng cả con đường y tá xinh // ai kêu tôi đó? ồ Lộng Ngọc / ai gọi tôi ḱa? uả Ngọc Anh / thèm trà Thành Kư cà phê Xướng / Từ Thức, Rừng, Tre, ngọt nước chanh // đă khát, thôi vào tham trường cũ / cột cờ tượng đá Phan Châu Trinh / nhốt trăm tên gọi vào trong cặp / tưởng những tim kia đă của ḿnh // ai giận? ai thương? ai c̣n? ai mất? / Tây Hồ, Phan Thanh Giản, Thánh Tâm / tan trường bay bướm theo muôn ngă / giàu măi trong ḷng những vết thương / từng được một thời mê Qúi Phẩm / mê Như Thoa, Phước Khánh, Bích Quân / mê hầu hết những bông hồng biết nói / may chưa yêu nên nổi tiếng lừng khừng // đă có thời vô cùng lộng lẫy yêu cô em mười bốn Phước Ninh / giàu lận đận nên kiếp này có Lư / yêu, được yêu, nên xao lăng thơ t́nh // đă có thời tụm năm tụm bảy / quậy thơ văn họa nhạc lu bù / ḷng c̣n ấm giọng cười Lê Vĩnh Thọ / ngực vang vang nhạc Phạm Thế Mỹ ngậm ngùi // ....” (Trích bài: Quê hương nhắm mắt như sờ được / Đà Nẵng muôn đời trong trái tim trong Cảm ơn đất đă trổ thơ.)
Khi
c̣n ở trong nước trước năm 1995, có một
người bạn ở nước ngoài gởi về cho
tôi một bài thơ của Luân Hoán viết về quư vị
thầy cũ, với những dấu ấn bạn bè, cùng
với những người đẹp học sinh cùng
thời. Vô t́nh, những
nữ sinh đẹp trở thành những điểm
mốc thời gian dễ nhớ.
Ví dụ, có lần họp mặt ở nhà thầy
Nguyễn Đăng Ngọc ở San Diego năm 2002, khi
mỗi người tự giới thiệu ḿnh, th́ các
bạn thường nói: ‘Tôi học lứa Thạch Trúc’,
‘Tôi học lớp Quư Phẩm’, thậm chí có một tu
sĩ thỏ thẻ: ‘Tôi học cùng lớp với Thu Hà’. Tôi đă đùa rằng sao
thầy không nhớ học lớp với ai mà lại
nhớ học lớp với chị Thu Hà? Thật t́nh, chẳng ai nói học
lớp với nam sinh nào, v́ có nói cũng chẳng ai
nhớ.
Xin
hăy cùng nhau ôn lại chuyện trường Phan Châu Trinh qua
lời thơ Luân Hoán: “... môn vật lư không bao giờ
đủ điểm / môn công dân thỉnh thoảng mới
thuộc bài/ nhưng phương tŕnh đă lơ
đễnh giải sai / mà đáp số là đôi mắt
thầy Bùi Tấân / giờ Việt ngữ cũng h́nh
như lận đận / bởi sớm học đ̣i làm
mới văn chương / nhiều khi thầy Nguyễn Đăng
Ngọc phải buồn / hờn, giận kẻ hậu
sinh mù quốc ngữ / Anh, Pháp đủ trung b́nh c̣n tha
thứ / bởi nhờ mê Le Cid với Corneille / nắng ngây
ngây giọng thầy Trần Tấn rè rè /xa hun hút nhưng
vô cùng thấm thía // vách tuờng xanh bích báo hồng bốn
phía / thơ học tṛ đă lăng mạn ba hoa / hỡi
những Quỳnh Chi, Thạch Trúc, Thu Hà / những Qúi
Phẩm, Hồ Thị Hồng, Thanh Thảo.../ những
khuôn mặt một thời làm giông băo / thổi thêm dài
thương nhớ lũ trai tơ / áo trắng thơm
trong những buổi chào cờ / mắt xanh thắp cho ai
vần điệu mới // tuổi mười sáu như
trái vừa chín tới / trôi về đâu năm tháng hỡi
về đâu?/ mới hôm nào c̣n đầy đủ
mặt nhau / điểm danh thử những ai c̣n hiện
diện // ḷng tôi trải làm từng trang tự điển
/ mời trường xem vóc dáng những con hư /
những đứa con vẫn măi măi...h́nh như.../ xa cách
lắm nhưng vô cùng gần gũi // Hà Nguyên Thạch
giờ đây đang thui thủi / bỏ làm thầy đi
t́m củi chẻ thuê / đêm băn khoăn không biết
một nơi về / công viên rộng gối thơ nằm
thao thức / giàu chữ nghĩa nhưng mơ hồ
đạo đức?/ (thứ đạo đức
của chủ nghĩa vô lương) / ngày theo đêm
đời trôi nổi trong buồn / con với vợ c̣n xa
hơn dĩ văng // ngục dẫu tối không ngăn ḷng
hảo hán / ngồi Dựa Lưng Nỗi Chết nhớ
bâng khuâng / một chiều xưa ai chuốc rượu
phong trần / cho mệt mơi rớt Dọc Đường
Số Một / đời êm ái bởi v́ chim vẫn hót /
cớ v́ sao tù tội Phan Nhật Nam?/ Bỏ Trường
Mà Đi làm việc phải làm / Lư tưởng đẹp
như Mùa Hè Đỏ Lửa / vợ con yếu mắt đêm
sầu tựa cửa / nghe ǵ không rừng núi hát trên cao /
nhớ lắm ư mùi thuốc đạn ngày nào / trong
đau xót vẫn cao đầu ngó thẳng // vẫn c̣n
đây đôi Ba Ly Cay Đắng / xin mời anh gắng cạn
Đynh Hoàng Sa / mấy mươi năm lặn lội
trốn quê nhà / con đường cũ vẫn giăng
buồn trước mặt / bột mấy bao trong
những ngày nắng tắt / c̣ng lưng mang qua Vùng Trú
Ẩn Hoang Đường / nói những ǵ với dân tộc
quê hương / mà thơ viết phải âm thầm cất
giấu?// c̣n hay mất những người con yêu dấu
/ những Nguyễn Nho Sa Mạc đă ra đi / những
Phan Duy Nhân lầm lạc chưa về / và nhiều
nữa...tôi làm sao nhớ hết...” (Trích bài ‘Ghé thăm
trường cũ’ trong Ngơ ngác cơi người.)
Năm
1995, tôi qua Canada định cư, th́ hai năm sau, t́nh
cờ tôi gặp lại Luân Hoán tại Toronto. Lần đó, tôi đến
dự buổi ra mắt sách của nhà văn Trang Châu. Luân Hoán cùng đi với anh Trang
Châu. Cũng như thuở
xưa, Luân Hoán ít nói, chỉ trao đổi với tôi tin
tức gia đ́nh, hỏi thăm về thân sinh tôi, nhắc
lại một vài người bạn cũ, rồi tạm
biệt. Bất ngờ vài
tuần sau, Luân Hoán nhờ anh Phan Ni Tấn đến nhà
trao tặng tôi hai tập thơ.
Anh Tấn cũng tặng tôi một tập thơ
của anh Tấn.
Tối
hôm đó, tôi đọc một mạch hai tập thơ
Luân Hoán, tập Cỏ hoa gối đầu và tập
Đưa nhau về đến đâu.
Thú thật, đây là lần đầu tiên tôi
đọc nhiều thơ của Luân Hoán. Trước đó, tôi chỉ
đọc thơ Luân Hoán rải rác trên các báo. V́ thỉnh thoảng mới
đọc một bài, nên tôi chưa thấy thấm thơ
Luân Hoán. Nhưng tối hôm
đó, đọc một mạch thơ Luân Hoán, tôi mới
thấy đă.
Nổi
tiếng nhất trong các bài thơ về Đà Nẵng của
Luân Hoán, có lẽ là bài ‘Cơi bén t́nh thơ’. Bài thơ được Nhật
Ngân, cũng dân Phan Châu Trinh, phổ nhạc thành bài ‘Một
thời Đà Nẵng dấu yêu’ rất dễ thương,
nên được phổ biến rộng răi khắp
nơi. Có một chuyện
buồn cười nho nhỏ là hôm Nhật Ngân gởi cho
dĩa nhạc, tôi mở ra nghe, đến bản ‘Một
thời Đà Nẵng dấu yêu’, ngang câu ‘Người tôi yêu
ở tứ tung/ Phước Ninh Thạc Gián Khuê Trung Thanh
Hà’ và câu kết ‘Người tôi yêu ở tứ tung/
nhưng sao chẳng thấy một người yêu tôi/
nhưng sao chẳng thấy một người yêu tôi...’;
bà xă tôi bảo: ‘Sao bạn của anh yêu nhiều
người quá, hèn chi chẳng có cô nào chịu yêu lại
cả.’ Tôi liền đính
chính: ‘Không, Luân Hoán không có kết luận vậy, đó là
Nhật Ngân thêm vào thôi, c̣n Luân Hoán viết vậy nè: “người
YÊU tôi, những con tinh/ ngo ngoe sống thật hiển linh
muôn đời.” Bà xă tôi
tiếp: ‘Anh ấy gan cùng ḿnh, dám gọi mấy
người anh theo đuổi là những con tinh, như
thế anh Nhật Ngân viết ‘nhưng sao chẳng thấy
một người yêu tôi’ thật là đúng.’
Thứ
ba, lứa tuổi Luân Hoán là lứa tuổi lớn lên trong
hoàn cảnh đất nước chiến tranh. Hằng hằng lớp lớp
thanh niên lên đường nhập ngũ. Luân Hoán cũng thế. Luân Hoán đơn giản cho
rằng nhập ngũ là ‘làm việc phải làm’, tức
bổn phận làm trai thời loạn. Kết quả cuối cùng là anh
bị thương ở Quảng Ngăi năm 1969 và bị
cưa mất chân trái. Tôi nghe
nói sau đó anh ấn hành một tập thơ mang tựa
đề là Nén hương cho bàn chân trái năm 1970. Rất tiếc tôi không
được đọc tập thơ đó. Tôi hỏi Phan Xuân Sinh (hiện
ở Boston). Sinh cho biết có
đọc tập thơ nầy khi nằm bệnh
viện. V́ cũng bị
mất một chân (chân phải) như Luân Hoán (chân trái), nên
Sinh rất cảm thông những điều Luân Hoán
viết. Theo Sinh, lúc đó Luân
Hoán rất bi quan, viết thật cảm động và cam
chịu số phận đến với ḿnh. Đau buồn, bi quan là phản
ứng tự nhiên của một người vừa
phải mất đi một phần thân thể, nhưng
sau đó, ít thấy Luân Hoán viết về sự thiệt
hại của anh nơi chiến trường xưa, ít
than thân trách phận, ít rên rĩ về đề tài
nầy. Đại đa số
thơ Luân Hoán là thơ t́nh, thơ bạn, thơ về
cảnh cũ, người xưa.
Chẳng những thế, mà Luân Hoán c̣n nói với
người t́nh: “...điều chắc chắn em cũng
cần nên biết / tôi bây giờ là kẻ lạc quan / ngày
khập khểnh lang thang nh́n thiên hạ / sống hộ
ḿnh, vui biết bao nhiêu // bởi nước mắt không c̣n
để khóc / bởi trái tim đă hết oán thù / bởi
tàn tật tôi yêu đời hơn nữa / càng yêu
đời, tôi càng nhớ nhung em....” (Trích bài: ‘Hồi âm cho
người t́nh sông Vệ’, trong
Rượu hồng đă rót.)
Có
lần tôi nói ư nghĩ nầy với Nhật Ngân. Anh chàng nhạc sĩ trả
lời: ‘Ừ, tau cũng thấy thế, cái tên nầy
đúng là chịu chơi.’ Ư
của Nhật Ngân muốn bảo rằng Luân Hoán chấp
nhận luật chơi, có chơi có chịu, có đánh
đấm th́ có chịu đ̣n, có đi lính th́ có bị
thương. Tôi nghĩ
rằng nhờ tinh thần phóng khoáng, thoải mái, với tâm
hồn thơ và quan niệm sống trên đời th́
phải ‘làm việc phải làm’, nên Luân Hoán chấp nhận
luôn chuyện ǵ đến th́ nó đến. Trong sự chấp nhận
nầy, h́nh như nơi Luân Hoán thấp thoáng hương
trầm nhà Phật: “... sinh diệt tật nguyền theo
định số? / quả nhân, nhân quả, luật
trời ban? / tâm xà, khẩu Phật, tôi u muội / cảm
nhận đau thương của thế gian // có có không
không tro cốt nát / mai này lở đọng đáy lư
hương / vô t́nh hiển Thánh hay thành Phật / ai thế
tôi qua những ngă đường?” (Trích bài: ‘Khắc
thơ lên gốc bồ đề’, trong Mời em lên
ngựa.) Mừng cho sự
lạc quan của Luân Hoán, “bởi tàn tật tôi yêu
đời hơn nữa”.
Và mừng cho gă thi sĩ mơ mộng lang thang đă
t́m ra chỗ dựa tâm linh, “mai này lở đọng
đáy lư hương”.
Có thế anh mới vượt thoát được
những ‘lận đận’ trong cuộc sống vốn
đă khó khăn với những người b́nh
thường.
Cuối
cùng, tôi xin nêu ra một ư kiến ngoài thơ. Trong bài ‘Quê hương nhắm
mắt như sờ được / Đà Nẵng muôn
đời trong trái tim’ (tập Cảm ơn đất
đă trổ thơ), Luân Hoán đă viết: “giàu lận đận nên
kiếp này có Lư / yêu, được yêu, nên xao lăng thơ
t́nh”. Đúng, trong hoàn cảnh
thương tật lận đận, Luân Hoán đă
được chị Lư tận t́nh chăm sóc, nhưng anh
đâu có “xao lăng thơ t́nh”, v́ khi nói đến thơ Luân
Hoán trước hết phải nói đến thơ
t́nh. Luân Hoán điểm danh
đủ tên người đẹp ở Đà Nẵng và
cả ở những nơi anh đă đi qua. Chẳng những thế, Luân Hoán
c̣n thổ lộ: “ người tôi yêu ở tứ tung...”. Vậy là sao ông Luân Hoán ơi?
Trần
Gia Phụng
(Toronto,
23-7-2004)