Luân Hoán, Thơ Yêu Đất Như
Yêu Người
Trần Trung Đạo
Tôi nhỏ hơn anh Luân Hóan 14
tuổi. Và nếu càng ngược ḍng thời gian bao nhiêu
th́ mức độ trưởng thành của hai anh em chúng
tôi lại càng xa hơn bấy nhiêu. Anh viết bài thơ
đầu tiên khi tôi chưa khóc chào đời. Anh xuất
bản thi phẩm đầu tay khi tôi c̣n ngồi trên
ghế tiểu học. Anh trở thành một trong những
hiện tượng nổi bật trong sinh hoạt văn
hóa Quảng Đà nói riêng, và miền Nam nói chung, khi tôi c̣n là
học sinh lớp mười trường Trần Quư Cáp.
Thế hệ văn thơ của anh là những tên
tuổi chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Những Tạ
Kư, Hoàng Trúc Ly, Hồ Thành Đức, Nguyễn Thùy, Trầm
Tử Thiêng, Tường Linh, Hoàng Lộc, Thái Tú Hạp, Lôi
Tam, Vũ Hữu Định, Hạ Quốc Huy, Phan
Nhật Nam, Nhật Ngân, v.v..., đă góp phần làm rạng
rỡ quê hương xứ Quảng chúng tôi.
Trước 1975, tôi không được hân hạnh quen anh
hay thậm chí biết mặt anh, đừng nói chi
đến chuyện được viết về thơ
anh. Nhưng rồi ḍng đời dong ruổi. Tôi già
nhanh, trong lúc các anh th́ dường như ngày càng trẻ
lại. Cuối cùng chúng tôi gặp nhau trên chặng
đường lưu lạc ở xứ người.
Trong dịp anh qua Boston tham dự buổi ra mắt thơ
của nhà thơ Phan Xuân Sinh, anh Luân Hoán gọi tôi tới
để chụp với anh một bức h́nh
kỷ niệm. Tôi cảm động lắm, nghĩ
thầm, ước chi mấy em trường nữ ngày
xưa có mặt để chứng kiến giây phút lịch
sử này.
Cám ơn đất đá trổ thơ
Ḷng ta hạt bụi bơ vơ bám hoài
(Thơ Luân Hoán)
Ngày khởi công xây dựng website
xuQuang.com, mặc dù website có chứa thơ của hàng
trăm nhà thơ xứ Quảng, chúng tôi đă mượn
hai câu thơ trên của anh Luân Hoán làm chủ đề cho
trang văn học Quảng Đà, và cũng để thay
cho lời cám ơn về một quê hương đă hun
đúc nên những tâm hồn yêu đất, yêu người
của chúng tôi. Thơ Luân Hoán đậm đà t́nh
đất. Anh viết về Hội An, thành phố nơi
tôi lớn lên và nơi anh đă chào đời:
Hội An Hội An Hội An
rún ta trong thớ đất vàng trổ thơ
lâu năm trở lại Faifo
nghe hồn phố Hội dạt dào cỏ cây
Chiêm, Hà, Bồ, Pháp, Tàu, Tây
c̣n vương trong hạt mưa bay hững hờ
chỉ giùm ta vạt đất nào
đă chôn cuống rún trổ thơ thành chùm.
(Luân Hoán, Hội An)
Hay:
sao c̣n ngại hỡi các em xứ Quảng
hỡi các em kiều diễm của Hội An
của thành phố, ta ra đời làm khách
lúc về thăm ngại cả bước chân vang
sao c̣n
ngại hỡi các em tóc lụa
mắt bồ câu chưa rộng quá cổng trường
tay xanh biếc thơm hàng rào dâm bụt
mắt trong veo mát rượi hạt sương.
(Luân Hoán, Nụ Hoa Cho Người Em Hội An)
Thơ ca gắn liền vào đời sống
tinh thần của người dân Quảng từ bao
giờ tôi không biết chính xác nhưng chắc là lâu
lắm. H́nh ảnh quê
hương thân yêu ảnh hưởng sâu đậm trong
hồn thơ của tất cả nhà thơ xứ
Quảng. Ḍng sông Thu Bồn, có lẽ không khác sông Vàm
Cỏ trong Nam, sông Hồng ở Bắc bao nhiêu,
nước vẫn là nước, bờ vẫn là bờ,
ghe thuyền vẫn ghe thuyền xuôi ngược. Thế
nhưng, qua thơ của Luân Hoán, những rặng tre, ḍng
nước, chiếc ghe đă trở thành thánh tích. Nhà
văn Lâm Chương có lần phát biểu, đọc
một bài thơ của nhà thơ miền Nam hay miền
Bắc, nhiều khi khó biết họ quê quán ở
đâu, nhưng nhà thơ xứ Quảng th́ khác, bàng bạc
trong thơ là h́nh ảnh của ḍng sông, đ́nh làng, thôn xóm,
bóng đa già đă một thời che nắng che mưa. Nhà
thơ xứ Quảng nào cũng ít nhất đôi ba lần
viết về những địa danh mà họ đă
từng ghi dấu chân trong đời. Đúng thế,
nhưng không ai viết nhiều về địa danh
xứ Quảng như anh Luân Hoán. Anh đưa vào thơ
gần như tất cả những nơi chốn anh
đă một lần đi qua hay đă dừng chân.
Anh viết về Hội
An:
Đêm.
trở lại, mưa sa mù Phố cũ
đường hoang vu thao thức ánh đèn vàng
dáng âm thầm muôn thuở của Hội An
bước khe khẽ sợ phố phường thức
giấc
gió tha thướt vỗ trăm lời thân mật
mừng ta về thăm lại ấu thơ xưa
lặng nh́n nhau, Phố đă nhận ra chưa?
ta vĩnh viễn một thằng con bất hiếu
thân phiêu bạt, giờ đây ḷng trải chiếu
bước bâng khuâng xin thâm tạ ơn đời
ba mươi năm hồn thả sợi t́nh lơi
bao giờ buộc đời ta vào với Phố?
(Luân Hoán, Đêm Mưa Về Hội An)
Tiên
Phước:
chiều ba mươi, núi dặn rừng
cành oằn lá ướt, tạm ngừng trổ hoa
gió giăng hơi đá thướt tha
nhốt Tiên Châu giữa mượt mà mây rơi
ṿ đầu gối, ngó khơi khơi
mùa xuân sắp bước tới nơi mất rồi
từng giây, đất tiếp giáp trời
mẹ chưa về tới đứng, ngồi ngó quanh
(Luân Hoán, Tiên Phước,
1949)
Ḥa Đa:
sáng ra thấy mẹ mỉm cười
thấy cha hút thuốc rung đùi ngâm thơ
thấy xôi bánh ấm bàn thờ
thấy con se sẻ bất ngờ vô hiên
thấy tôi coi bộ có duyên
giày quai rọ, bê rê nghiêng tóc bồng
cả làng Liêm Lạc sạch bong
nắng tơ gió lụa ḷng ṿng ngọn tre
(Luân Hoán, Ḥa Đa, 1953)
Đà Nẵng:
chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa
trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay
mắt hồng liệng cái ngoắt tay
dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường
chập chùng xuân ảnh vải hương
ngó ai ḷng cũng yêu thương tức th́
giả vờ châm thuốc nhâm nhi
nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh ḿnh.
(Luân Hoán, Đà Nẵng, 1960)
Một lần họp mặt văn nghệ, nhà
thơ Phan Xuân Sinh đố chúng tôi, tại sao xứ ḿnh
thường bị nghèo đói quá. Hẳn nhiên tôi
đổ thừa cho ông trời, theo lối “trời hành
cơn lụt mỗi năm”. Anh ta nói: “Không phải, lư do
chính là xứ Quảng của mấy ông thơ mọc
nhiều quá nên không c̣n đất để lúa mọc
đó thôi.” Nói xong cười khoan khoái. Mỗi khi có
dịp thăm bà con xứ Quảng tôi thường kể
lại chuyện vui này. Ở hải ngoại, dù thông tin
liên lạc khó khăn, các sinh hoạt văn hóa Quảng Nam,
từ Boston, California, Dallas đến Houston, Seattle, DC,
Atlanta, v.v... thường rất là đông đảo. Bà con
xứ Quảng có thể chịu nghèo tiền, nghèo
bạc nhưng nhất định không chịu để
ai chê nghèo văn chương, thơ phú.
Trong đại hội Quảng Đà tại
Dallas năm 2003, anh Phan Xuân Sinh được mời
thuyết tŕnh về sinh hoạt của văn nghệ
sĩ Quảng Đà hải ngoại. Tôi khuyên anh
đừng nhận trọng trách đó nếu anh không thích
nghe trách móc về sau. Lư do, trong ṿng 10 phút th́ ngay
cả để kể tên thôi cũng không đủ
chứ đừng nói ǵ là hành tŕnh sáng tác của mỗi
người. Nhà thơ Phan Xuân Sinh tỏ vẻ không tin.
Tôi đọc anh nghe danh sách gần một trăm vị
tôi biết. Anh nghe xong, đổ mồ hôi và đồng ư
là rất khó điểm danh hết các khuôn mặt văn
nghệ Quảng Đà hải ngoại. Văn nghệ
sĩ gốc Quảng Đà đông đến nỗi, có
lần tôi nói vui với anh Lâm Chương: “Nếu ai cá
với anh về gốc gác của một nhà thơ, cho dù
anh không biết, vẫn cứ trả lời là Quảng Nam
Đà Nẵng, tôi nghĩ xác suất ăn cá của anh
cũng trên 70 phần trăm." Năm ngoái, khi nghiên
cứu tài liệu để viết về Trà Kiệu,
tôi đọc bài biên khảo của Linh mục Trần Quư
Thiện dựa vào các khám phá mới nhất về Hàn
Mạc Tử. Mẹ của nhà thơ Hàn Mặc Tử,
cụ bà Nguyễn Thị Duy, là người làng Trà
Kiệu, Quảng Nam. Giọt sữa mẹ và hùng khí
Quảng Nam đă góp phần tạo nên một nhà thơ
lớn của Việt Nam thế kỷ 20. Tuy không nói ra
nhưng trong ḷng tôi rất lấy làm sung sướng và hănh
diện.
Số lượng văn nghệ sĩ xứ
Quảng ngày càng tăng, v́ ngoài lư do là một tỉnh
lớn, có nhiều nhân tài, Quảng Nam với hai thành
phố lịch sử Hội An và Đà Nẵng c̣n là
trạm dừng chân lâu dài của nhiều văn nhân thi
sĩ khắp ba miền. Truyền thống Quảng Nam
rất trọng văn hóa giáo dục nên tiêu chuẩn
để được gọi là nhà thơ, nhà văn
xứ Quảng cũng rất là văn nghệ. Nếu
một nhà thơ hay nhà văn nào đó lớn lên ở
xứ Quảng và tự nguyện chọn xứ Quảng
làm quê hương, anh chị sẽ được xem
như là nhà văn, nhà thơ Quảng Đà. Cho đến
nay chưa một ai phiền trách chuyện này. Giới
cầm bút Quảng Đà, dù sinh ra hay lớn lên trên xứ
Quảng, đều sinh hoạt với nhau trong chân t́nh và
b́nh đẳng. Không ai ngạc nhiên khi nghe một nhà thơ
xứ Quảng nói giọng Huế, một nhà văn xứ
Quảng nói giọng Quảng B́nh. Trường hợp
của các đàn anh Phan Nhật Nam, Nhật Ngân, Vũ
Hữu Định là những thí dụ điển
h́nh. Thời “Bỏ Trường Mà Đi”, “Tôi
Đưa Em Sang Sông”, “C̣n Một Chút Ǵ
Để Nhớ” của các anh là ở Đà
Nẵng. Dù hôm nay, các tác phẩm, những bài ca của các
anh đă bay ra khỏi những mái nhà tôn nóng nực
ở khu Chợ Cồn, vượt qua cả Thái B́nh
Dương bao la để đến nhiều nơi trên
thế giới, nhưng hơn ai hết, các anh
hiểu rằng tiếng chim hót trong vườn cây ở
Garden Grove sáng hôm nay đă bắt đầu từ chiếc
tổ ước mơ được đan trên
những tàn cây Sao của trường Phan Châu Trinh
thuở nọ.
Thật vậy, những kỷ niệm
đẹp nhất trong một đời người
của đa số nhà văn, nhà thơ xứ Quảng măi
măi c̣n in dấu trên con đường Hùng Vương nhộn
nhịp, bên bờ tường vôi Hồng Đức,
Nữ Trung Học, trên lớp vỏ khô của hàng
phượng đỏ trong sân trường Sao Mai, Phan Thanh
Giản. Trong ngày họp mặt liên trường ở
California cách đây hai năm, nhạc sĩ Nhật Ngân ôm
đàn hát nhạc phẩm Cơi Bén T́nh Thơ do anh phổ
từ bài thơ rất dễ thương của nhà
thơ Luân Hoán: “Người yêu
tôi ở lầu đèn, cây cao lá rậm ánh trăng khó
vào, trèo rào tôi lén dán thơ, mạch t́nh dẫn những
đường thơ đi về ...” Nh́n anh hát, tôi nghe
ḷng quay quắt nhớ về Đà nẵng nên cũng ôm
đàn lên hát với anh: "Người
tôi yêu ở bên sông, những hôm trở gió đ̣ không sang
bờ, chờ em tôi thả thơ trôi, thơ theo sóng
nước bập bềnh lô nhô ..." Tôi thích nhất vẫn là hai câu
cuối:
Người
tôi yêu ở tứ tung
Nhưng sao chẳng thấy một người yêu tôi.
Khi bắt đầu cầm bút viết về
thơ Luân Hoán, tôi cảm thấy phân vân nếu không
muốn nói là khó khăn, lo ngại. Các anh Thái Tú Hạp, Lâm
Chương, Trần Hoài Thư, Phan Xuân Sinh ít ra c̣n
chuyện để nhắc, để kể. Tôi chẳng
có ǵ. Chúng tôi thuộc hai thế hệ với không gian
và thời gian xa cách. Tôi định viết cho anh một
e-mail thoái thác nhưng sau đó lại đổi ư.
Tôi nghĩ anh không phải là mẫu người chuộng
vai vế hay quan tâm đến những lời ca tụng
đầy sáo ngữ chúng ta thường đọc
thấy ở những trang giới thiệu sách, mà là
người biết trân trọng với một kẻ có
ḷng, dù đó là một người làm thơ thuộc
thế hệ nối tiếp như tôi.
Nhưng tôi sẽ bắt đầu từ đâu
để viết về anh, một nhà thơ thành danh khi
tôi tóc c̣n để chỏm? Tôi sẽ bắt đầu
từ đâu khi đứng trước một công tŕnh
đồ sộ của anh với 19 thi phẩm trải dài
gần nửa thế kỷ không ngừng sáng tác? Tôi
ngồi suốt buổi chiều đọc thơ anh và
đọc luôn cả những bài viết của các nhà phê
b́nh thơ viết về thơ anh, để t́m một
điểm tương quan nào đó trong quê hương,
trong t́nh yêu hay thân phận để bắt đầu
cho bài viết của ḿnh. Thơ anh trải rộng một
cách tự nhiên theo cảm xúc vô cùng đa dạng.
Thơ anh mênh mông và đầy ắp t́nh người.
Thơ anh đi rất xa nhưng không lạc mất
đường về. Thơ anh rất mới ngay cả
trong những thể thơ lục bát, bảy chữ,
tám chữ phổ thông và quen thuộc từ hàng trăm
năm trước. Đọc thơ anh tôi cảm thấy
ḿnh nhỏ bé khi đối diện với một
tấm ḷng vô cùng nhân bản. Bài thơ Tâm Sự Cùng Em Trai,
tuy nhẹ nhàng, đơn giản nhưng nói lên nỗi khát
vọng của một người Việt Nam nh́n
đất nước đang bị hút sâu trong cuộc phân
tranh đẫm máu:
h́nh
như có tổ chim trên mái rạ
anh nghe vui tiếng mẹ rỉa lông con
chao ôi nhớ chiếc lồng tre thơ dại
ôm say mê lên đôi mắt xưa tṛn
giờ th́ chúng tập nhau bay, có lẽ
cho anh xin viên sỏi nhỏ tay em
anh c̣n lại chút lương tâm này đó
nỡ ḷng nào đem bắn chúng sao em
anh vẫn nhớ trên hoàng hôn bờ cỏ
đôi chim nào đạp mái, ngượng bàn tay
khi giương ná bàng hoàng nghe tuổi lớn
bỏ t́nh trôi theo đường cánh chim bay
cũng từ đó nguyện yêu đời măi măi
sao bây giờ bọt lệ trắng niềm vui
làn chăn mỏng hoang vu ṿng ngực nhỏ
nghe ǵ em trong thăm thẳm môi cười
chắc vang vọng một vài viên đạn nổ
ngang lưng trời, ngang khúc ruột quê hương
người người chết cho tự do vẫn
sống
xác thay phân bón cho cỏ xanh đường
anh ngại nói, đă từ lâu
anh muốn...
tội cha già bán mệt nhọc nuôi con
may mẹ đă nằm yên trong ḷng đất
anh em ḿnh mỗi đứa mỗi cô đơn
em đừng trách anh bỏ nhà bỏ cửa
sống lang thang xao lăng cả học hành
em cũng khóc từng đêm nằm suy nghĩ?
nín đi nào, đừng xé nát ḷng anh.
(Luân Hoán, Tâm Sự Cùng Em Trai)
Và bây giờ th́ điều khó khăn không c̣n là
ở chuyện t́m được câu mở đầu
cho bài viết nhưng là việc phải dừng lại
ở đây. Tôi muốn
viết thêm nhiều nữa về thơ anh. Nếu có
thời gian, tôi có thể viết say sưa cả
một cuốn sách về thơ Luân Hóan. Thơ Luân Hoán
như cánh bướm vướng trên những mái tóc
thề, những tà áo lụa, nhưng thơ anh cũng
chảy qua những cánh đồng khô cháy ở Tam
Kỳ, Quế Sơn. Thơ Luân Hoán đuổi theo
những bóng hồng kiều diễm trên bờ sông
Saint-Laurent, trong cơn mưa mùa hạ Montreal, nhưng
vẫn không quên ngọn đèn dầu héo hắt chiều
cuối năm trong căn nhà nghèo nàn ở Ḥa Đa, Tiên
Phước. Thơ Luân Hoán, v́ thế, măi măi là thơ
của t́nh yêu đất và yêu người.
Trần
Trung Đạo
Boston, Hoa Kỳ, cuối tháng 5 năm 2004