Nh́n Lại 40 Năm Luân Hoán

Vương Trùng Dương

                                                                     

                                                                  

 

Tháng 5-2004, nhận được tập thơ Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ của anh Luân Hoán từ  Canada gởi tặng; tôi chọn những bài thơ trong thi phẩm nầy để đăng tải trên vài tờ báo ở Nam California, đáp lại tấm ḷng của anh từ phương xa. Anh cho biết, em trai anh, nhà thơ Lê Hân đang cùng bạn bè thực hiện cho anh một tập Kỷ Niệm Một Đời Thơ Luân Hoán, bằng những đóng góp bài vở của bằng hữu để chào đón cái tuổi 65 sắp đến, sống chết không biết sẽ c̣n được bao  lâu!. Nghĩ đến bệnh t́nh và sức khỏe của anh, tôi chợt nhớ đến những lời tâm t́nh của chị Trần Thị Lư - hiền thê của anh - với Hồ Đ́nh Nghiêm “Ông nhà tôi, th́ mở miệng ra, không nhức chân quá th́ cũng đau đầu quá, không buồn quá th́ cũng chán quá... cứ thế gặp ai cũng than thở, làm như than thở th́ hết buồn chán. Đặc biệt đầu mùa đông, ảnh thường phán một câu: chắc không qua khỏi mùa đông năm nay...” ḷng bàng hoàng, xúc động!

Anh với tôi, đồng hương, cùng những ngày trong quân trường Bộ Binh Thủ Đức. Tháng 12 năm 1996, tôi theo học Khóa I Nguyễn Trăi của Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt, quân trường lúc đó đang h́nh thành nên khóa tôi được gởi sang học quân sự giai đoạn I ở Trường BB Thủ Đức cùng với khóa 24. Năm 1966, Đại Úy Vũ Trọng Mục, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị trường BBTĐ thành lập Ban Biên Tập với thành phần Sinh Viên Sĩ Quan cho nguyệt san BBTĐ; v́ vậy, khóa 23 & 24 đă quy tụ khá đông như Nguyên Sa, Trần Sơn Hà, Lưu Trung Khảo, Trần Hoài Thư, Luân  Hoán, Chu Tân, Mê Kung Phan Nhự Thức, Phạm Văn B́nh, Hồ Minh Dũng, Cao Thoại Châu, Lâm Chương... tạo thành sắc thái đặc biệt cho tờ báo.Cùng sinh hoạt trong ban biên tập lúc đó, tôi thân với Phan Nhự Thức và Chu Tân v́ thỉnh thoảng thường mược cớ để trốn học, la cà với nhau.

Tháng 5-1967, chúng tôi chia tay, hơn hai năm sau, tôi nhận được điện thoại của Phan Nhự Thúc, trong tiếng khóc, báo tin Luân Hoán mất một bàn chân rồi!... Chiến trường ở Quảng Ngăi lúc đó rất khốc liệt, không c̣n ǵ ngoài lời an ủi “thôi đành, để c̣n sống với vợ con”.

Ba mươi bảy năm rồi, mỗi người một phương, tuy không gặp Luân Hoán nhưng thơ văn của anh rất gần gũi với tôi. Tôi đang thực hiện loạt bài Chân Dung Người Lính Cầm Bút giữa người nằm xuống và kẻ c̣n lại, nhưng viết về Luân Hoán, khó quá, bạn bè đă đề cập rất nhiều; nếu có ghi lại cũng khó thoát ra quỹ đạo các cây bút đă viết về anh.

Thơ anh đă xuất hiện cho đến nay gần nửa thế kỷ, tôi xin lấy thời điểm thi phẩm Về Trời cho đến tập thơ vừa nhận được để ‘trả nợ t́nh xa’.

 

Ḍng Đời

Luân Hoán, tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941, cuối năm Canh Th́n ở phố cổ Hội An, Quảng Nam. Quê nội ở Liêm Lạc, Ḥa Đa, Ḥa Vang, Quảng Nam, cách Đà Nẵng khoảng mười cây số về hướng Nam. Quê ngoại ở La Qua, Điện Bàn, Quảng Nam, cách Đà Nẵng khoảng ba mươi cây số về hướng Nam.. Thân phụ anh là ông Lê Hoán, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Luân nên anh ghép tên song thân thành bút hiệu Luân Hoán. Ngoài ra, anh c̣n có các bút hiệu: Lê Quyên Châu, Châu Thị Ngọc Lê, Đoàn Thị Bích Hà, Châu Hải Châu, Lư Phước Ninh, Lê Bảo Hoàng, Cự Hải...

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, như nhiều gia đ́nh khác, năm 1947, gia đ́nh anh di tản lên miền rừng núi Tiên Hội, Tiên Phước, Quảng Nam. Sau nầy, Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín; vào cuối thế kỷ XIX, Quảng Nam có hai phủ là Điện Bàn và Thăng Hoa, tổng Tiên Hội thuộc Thăng Hoa có các thôn, trong đó có thôn tên cũng là Hội An và Hội Lâm sát nhập thành Tiên Quư, và Thanh Bôi cùng Tiên Quư c̣n gọi là Tứ Ḥa, nằm cạnh sông Tiên, nhánh sông Chiên Đàn, chạy dần về hướng bắc, gặp sông Tranh thành sông Thu Bồn.

Năm 1951, gia đ́nh anh chuyển về Ḥa Vang và năm 1953 dời về Đà Nẵng. Sau đó, thân phụ anh là viên chức ở Ngân Khố. (Trong thi phẩm Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ có ba bài thơ của anh ghi lại địa danh: Hội An, 1945 - Tiên Phước, 1949 và Ḥa Đa, 1953).

Cụ Lê Hoán rất sính thơ văn nên từ nhỏ Luân Hoán được hấp thụ máu thi phú của thân phụ để tấp tễnh làm thơ.

Giữa thập niên 50, năm học Đệ Ngũ, anh có thơ được đăng tải trên Tuổi Xanh, Gió Mới rồi dần dà đến các tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ngàn Khơi, Kỷ Nguyên Mới, Mai, Bách Khoa, Văn Học... Những bài thơ của thuở học tṛ được chọn lọc lại để in trong các thi phẩm Về Trời (Văn Học, 1964), Trôi Sông (Văn Học, 1966)...

Vào giữa thập niên 50 và 60, những nhà thơ trẻ đất Quảng xuất hiện trên nhiều tờ báo ở Sài G̣n như Luân Hoán, Thành Tôn, Thái Tú Hạp, Chu Tân (gốc Huế), Triều Hoa Đại (gốc Bắc) Nguyễn Thị Liên Phượng (Nguyễn Nho Sa Mạc), Phương Tấn, Hoàng Quy, Đynh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch, Vương Thanh (gốc Bắc), Phan Duy Nhân (Dương Phù Sao), Huy Giang... bên cạnh những khuôn mặt hiện diện ở Sài G̣n như Hoàng Trúc Ly, Tạ Kư, Bùi Giáng,Tường Linh... Sau đó, xuất hiện thêm các khuôn mặt trẻ như Tần Hoài Dạ Vũ (gốc Huế), Hoàng Lộc, Uyên Hà, Vũ Đức Sao Biển, Đinh Trầm Ca, Hạ Quốc Huy, Nguyễn Nho Nhượn, Phan Xuân Sinh, Trần Yên Ḥa... tạo thành phong trào thi ca trong giới trẻ cùng với các nhóm Sông Thu, Đất Hàn...

Mê thơ và cứ nhởn nhơ với đời nên đường học vấn không đi đến chốn, theo ước vọng của ông ǵa. Cuối năm 1966 anh bước vào ‘Ngưỡng Cửa Quân Đội’ Khóa 24 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường, anh đổi về làm Trung Đội Trưởng, Trung đội II, Đại Đội II, Tiểu Đoàn I, Trung Đoàn 4, Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Ở đó, anh có dịp sinh hoạt văn nghệ với Hà Nguyên Thạch, Khắc Minh, Phạm Trung Việt, Vương Thanh, Đynh Hoàng Sa, Nghiêu Đề, Minh Đường, Trần Thuật Ngữ, Phan Nhự Thức... qua các tạp chí Trước Mặt, Tập Hợp .

Cũng như Trần Hoài Thư, hai que sậy văn nghệ, ra trường đă lao ngay vào đơn vị tác chiến. Và, tháng ngày quân ngũ  kết thúc với bàn chân trái của anh vào cuối năm Mậu Thân, đầu năm Kỷ Dậu, 1969. Anh đă kể lại h́nh ảnh đau thương nầy:

“Cuộc hành quân bước qua ngày thứ 5, chúng tôi có lệnh trở về Núi Dẹp. Khi ngang một cḥm mộ mồ côi, con đất Thi Phổ của Quảng Ngăi bỗng toát miệng cười, trải tôi nằm ngửa trên một thảm cỏ rất xanh. Có lẽ 4 giờ chiều, trời đất mênh mang yên lặng. Tôi nhịn đau chống tay ngồi tháo giầy, cái áo giáp đè nặng trên lưng. Ba ngón chân sát cánh ngón cái bị dập nát. Với vết thương này, nếu Quân Y Viện Việt Nam, có lẽ tôi chỉ bị mất đi nửa bàn chân. Tiếc thay v́ có chút xíu cấp bậc, người đồng minh sốt sắng đưa tôi về bệnh viện dă chiến Hoa Kỳ, trên ngọn núi Đức Phổ. Và sau đó, theo công thức ấn định, tôi bị cắt bỏ nửa phần chân dưới trong cơn mê. Kỹ thuật cưa cắt từ một phần xương thịt lành lặn, qủa đă sớm giúp vết thương liền miệng an toàn. Nằm với thương binh Mỹ từ 24 tháng chạp đến mùng Ba Tết, tôi được đưa về Quân Y Viện Quảng Ngăi. Bạn văn t́m đến đủ mặt Vương Thanh, Phan Nhự Thức... khóc như trẻ thơ. Qua một đêm tôi được về Tổng Y Viện Duy Tân. Trong tay, ngoài cặp nạng, c̣n có cái khăn tay của Khắc Minh buộc sẵn. Gần một tháng sau, tôi nhắn tin buồn cho gia đ́nh. Vợ tôi đang trong thời kỳ chuẩn bị sinh cháu đầu ḷng, Lê Ngọc Ḥa B́nh...”

Cuộc t́nh của anh giống như cuộc t́nh của nhà thơ Hữu Loan với cô học tṛ Lê Đỗ Thị Ninh, năm Hữu Loan 33 tuổi và cô học tṛ mới tṛn 16. Người t́nh, người bạn đời Trần Thị Lư gắn bó với Luân Hoán trong những thập niên qua cho biết: “...Tôi đến với ảnh chẳng qua v́ hồi đó tôi c̣n trẻ quá mà ảnh th́ có cái mă được trai lắm. Ảnh đến nhà ba mẹ tôi thuê pḥng ở trọ, rồi kèm tôi học, ngon trớn kèm luôn, quỉ thật”. Chị nhỏ hơn anh tṛn một con giáp nên phải man khai giấy khai sinh thêm hai tuổi cho khỏi vị thành niên mới hợp lệ để làm hôn thú.

Thi phẩm Nén Hương Cho Bàn Chân Trái (cùng với bạn văn) ấn hành năm 1970 với những bài thơ buồn rất tuyệt.

Giải ngũ, anh về làm việc ở ngân hàng Việt Nam Thương Tín Đà Nẵng. Tưởng cũng nên biết, trước khi vào quân đội, Luân Hoán làm việc tại Ṭa Thị Chính, thời bác sĩ Mẫn, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đại úy Tích, văn pḥng Xây Dựng Nông Thôn. Sau tháng 4-1975, trong thời điểm nầy anh cho biết:

“Tôi chỉ phải tập trung cải tạo tại trại Ngô Văn Sở cũ. Và đến đợt thực thi chính sách đổi tiền một cách rầm rộ, đều khắp, tôi cũng như hầu hết viên chức cũ của ngành ngân hàng, đều được móc ra để trở về việc chuyên môn. Tôi trở lại bộ phận kế toán. Trước khi nhận việc, tôi bị gọi tŕnh diện thủ trưởng. Lăo cán bộ này, có lẽ chấp hành đúng chính sách, cho tôi xem lời phân loại trên phíếu lư lịch cá nhân của tôi: ‘Thành phần cặn bă của chế độ cũ’. Dĩ nhiên tôi không hề buồn và xấu hổ bởi sự đánh giá trên. Nhưng tinh thần bị bao vây và khủng bố tinh tế như vậy, tôi phải biết lo sợ, đề pḥng và quyết tâm trốn ra nước ngoài. Sự thiếu hụt chân đi, chân chạy của tôi là một trở ngại quá lớn trong kế hoạch vượt biên. Nhưng tôi cũng đă tổ chức, tham dự hai lần. Cả hai đều thất bại trước khi bị phát hiện . Lần đầu, trong lúc cả nhà đang đợi đến giờ ra đi, bất ngờ cách cửa nhà tôi độ 40m xảy ra một án mạng. Đường Hùng Vương, mặt tiền của nhà tôi bị phong tỏa. Lần thứ hai, ông ǵa vợ tôi trù trừ tạm giử lại một chiếc xe đ̣ chạy Đà Nẵng - Quảng Ngăi. Chúng tôi trà trộn cùng hành khách đến điểm hẹn thứ nhất, bất ngờ xe hỏng máy giữa đường, sửa măi không được. Bỏ cuộc. Cũng may vào năm 1979 tôi nhận được giấy bảo lănh đoàn tụ của em trai tôi (Lê Hân) từ Canada. Có giấy, nhưng vẫn sợ và ngại, nên măi đến năm 1981, bắt được mối lo lót, tôi mới lập thủ tục và ra đi vào năm 1985”. Ngày 02 tháng 2 năm 1985, anh định cư tại thành phố Montréal, Québec, Canada. Gia cảnh: vợ và bốn con, hai trai, hai gái.

 

Ḍng Thơ

Trong bốn thập niên qua, nhà thơ Luân Hoán đă ấn hành 18 thi phẩm, riêng anh và chung với bằng hữu. Trang web của anh, http://www.digital-info.com/luanhoan, được thực hiện đă lâu và rất công phu nên được phổ biến khắp nơi.

Trong cuộc sống, bản tính anh hơi nhút nhát, không thích đám dông, tính t́nh chơn chất, hiền lành, chân t́nh, không màu mè, kiểu cách nên ảnh hưởng rất nhiều trong ngôn ngữ thi ca. Có điều, trong t́nh yêu, anh sống trọn vẹn với người bạn đời, anh cảm thấy hạnh phúc có được người vợ thủy chung, lo cho chồng, chăm soc con cái để tâm hồn anh ‘mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’ v́ vậy, anh có những người t́nh trong thơ, tưởng chừng như thật để bày tỏ với  tha nhân.

Dù thơ anh bay bổng với bóng dáng nào đi nữa, h́nh ảnh Lư, vợ anh, vẫn là nguồn an ủi vô biên:

“... em hỡi em,

người anh yêu

anh có quyền hôn em lúc này

bởi ngày mai anh trở ra mặt trận

ở đó, anh không thiếu một thứ ǵ

kễ cả máu

chỉ duy có thứ này

hăy viện trợ cho anh

đó là giọt lệ em xanh biếc...”.

(Và, h́nh như nhiều nhà thơ xứ Quảng tôi quen thân, thơ t́nh rất lăng mạn nhưng đời thường lại chung t́nh với vợ, có lẽ sợ Quảng Nam hay căi nhau... th́ bất tận).

Nhận định về thơ Luân Hoán, qua các thi phẩm, thân hữu và bạn bè đă ghi nhận, điển h́nh như: Đỗ Quư Toàn, Bùi Bảo Trúc, Thái Tú Hạp, Nguyễn Đông Ngạc,  Trần Hoài Thư, Nguyễn Mạnh Trinh, Lưu Nguyễn, Hồ Trường An, Phan Ni Tấn...

Đỗ Quư Toàn gặp Luân Hoán định cư tại Canada, nơi xứ lạnh, tâm t́nh của nhà thơ đến trước trao gởi đến người bạn mới:

“...Nếu kiếp sau trời cho tôi làm thi sĩ, tôi muốn được làm thơ t́nh như Luân Hoán. Sáng làm thơ. Trưa làm thơ. Tối trước khi đi ngủ cũng hăy làm thơ đă. Làm thơ khi thức dậy, để lót dạ. Làm thơ khi đứng đợi xe, để qua th́ giờ...

... Thơ Luân Hoán mang lại cho t́nh yêu học tṛ nhiều điều mới lắm. V́ những bài thơ t́nh của Luân Hoán thật hơn, cụ thể hơn, lẩm cẩm ngu ngơ hơn tất cả những thi sĩ nổi tiếng trên. Nghĩa là học tṛ hơn. Thật sự học tṛ không khoác vô t́nh học tṛ một bộ áo của ngôn ngữ diễm lệ hay thêu dệt những t́nh tứ kiêu kỳ. Ngôn ngữ của Luân Hoán thật giản dị. H́nh ảnh là h́nh ảnh b́nh thường của đời sống hàng ngày”.

Vừa định cư tại Canada, thi phẩm Hơi Thở Việt Nam do Sông Thu của Thái Tú Hạp xuất bản năm 1986 như món quà ra mắt với thân hữu hải ngoại, ḍng thơ của người xa xứ khi vọng về dĩ văng đă in đậm trong tâm thức, Bùi Bảo Trúc viết:

“Hơi Thở Việt Nam với 39 bài thơ, 5 chữ, lục bát, 7 chữ, 8 chữ là những bài thơ c̣n vang vọng âm hưởng của những bài thơ mà người ta đă được đọc của ông trong những năm trước 1975. Những h́nh ảnh xám ngắt của quê hương tan nát, những binh đao trận mạc, những ước mơ của một đời về một ḥa b́nh không bao giờ đến, những quà tặng chiến tranh, những chân tay chia ĺa trên một thân thể trở về sau một cuộc chiến”.

Thái Tú Hạp và Luân Hoán, thân nhau từ thuở mới cắp sách đến trường, qua suốt bao thập niên, t́nh bạn luôn luôn gắn bó, và cái nh́n của anh về Luân Hoán cũng như ư nghĩ của bạn bè:

“Bút pháp của Luân Hoán vững vàng, nhuần nhuyễn. Thong dong, xuôi suốt ở thế 7, 8 chữ. Mềm mại, nhẹ nhàng ở thể lục bát. Cô đọng, tự nhiên ở 5 chữ. Thơ của anh dồi dào h́nh ảnh, màu sắc với giọng giản dị đôn hậu, hay đưa tục ngữ vào thơ, đánh thức được xúc cảm của người đọc. Kêu gọi sự tham dự của người thưởng thức đến từng ḍng, từng chữ... Tóm lại Luân Hoán là nhà thơ của cảm xúc. Và anh đă thành công trên đường đi của anh”.

Nguyễn Đông Ngạc cảm nhận tấm ḷng của Luân Hoán với thơ, đă bày tỏ:

“Thơ ông là sự cô đọng của tâm hồn được bày tỏ phần lớn bằng thể thơ dân tộc, sáu tám, phóng khoáng, hồn hậu, ngọt ngào, trữ t́nh, dạt dào như ca dao. Do đó khi đọc thơ ông những ḍng chữ như biến mất chỉ c̣n lại cái nghĩa hay nói cách khác chữ và nghĩa chỉ c̣n là một, hổ tương, nói ngay được với người đọc những điều nhà thơ muốn diễn tả. Tâm hồn người đọc đồng điệu với tâm hồn người sáng tác rất nhanh, rất dịu dàng, rất thấm, rất sảng khoái. Người đọc thấy thú vị tưởng ḿnh cũng đang là người sáng tác, cũng làm thơ với Luân Hoán”.

Gặp nhau ở quân trường, cảm nhận được sự trân quư của con người yêu thơ, sau ba mươi năm, thời thế đổi thay ảnh hưởng đến tâm tính, nhưng với Luân Hoán, vẫn một ḷng như xưa, Trần Hoài Thư  ghi nhận:

“Chưa bao giờ tôi thấy một người thơ nào lại âu yếm cùng thi ca đến như thế. Tôi không nói đến chữ nghĩa như một số người đă bảo. Bởi Luân Hoán không phải là một phù thủy chữ nghĩa. Phù thủy chữ nghĩa chỉ là cái thùng rỗng, hay người kỹ nữ về già. Đọc kêu to nhưng không thấm thía, không bùi ngùi, tha thiết. Với anh, tưởng như mọi thứ, mọi điều, mọi vật, nhỏ vô cùng như hạt bụi, to lớn vô cùng như trời đất vô lượng, tất cả đều có linh hồn và tất cả đều được thi ca ǵn giữ...

... Nói đến thơ, người ta sẽ nói đến cái ǵ tốt đẹp, tuyệt vời, vượt xa cơi ô trọc thường t́nh. Với Luân Hoán, trái lại, thi ca gần kề với quả đất, cơi trần gian”.

Qua các cuộc mạn đàm, trao đổi, Nguyễn Mạnh Trinh nhận xét:

“Thơ Luân Hoán gần gụi với đời sống. Đề tài không cao xa, nó đứng gần thực tại một với tay. Tất cả có mặt trong ḍng sống chất nghèo đói, thiếu thốn, bất công dăy đầy, nhưng tràn đầy mơ ước. Trong tiếng than van vẫn ẩn chứa cao ngạo. Trong cam chịu vẫn cố ư vượt lên...”.

Với t́nh yêu và cuộc đời được thể hiện trong thơ Luân Hoán, khi đề cập đến Kỹ Thuật Trong Thơ, Lưu Nguyễn dẫn chứng về ngôn ngữ, h́nh ảnh và nhạc điệu, với ḍng kết:

“Tôi đă đọc thơ Luân Hoán trong nỗi thông cảm sâu xa, từ những bài thơ t́nh nồng nàn lăng mạn của tuổi học tṛ thơ ngây trong trắng, đến t́nh nghĩa vợ chồng đậm đà giấy mực, Luân Hoán lúc nào cũng tha thiết, cuồng nhiệt như tuổi vừa biết yêu. Có thể nói dưới mắt của Luân Hoán, cuộc đời là một bài thơ bất tận. Thơ trải dài theo từng chặng đường đất nước, mang nỗi ray rức thương nhớ khôn nguôi qua cuộc bể dâu của vận nước nổi trôi, âm vang như tiếng thở dài trong đêm vắng của một kiếp người lầm than lưu lạc bên trời lận đận...”.

Từ Pháp, Hồ Trường An cũng bắt gặp được ḍng thơ của Luân Hoán, lưu lại suy nghĩ của ḿnh:

“Ngôn ngữ thơ anh cực kỳ đơn giàn mà tinh khôi tân kỳ. Tài xử dụng ngôn ngữ cùa anh lạ lắm: anh làm thơ khơi khơi như nói chuyện, đôi lúc như hí lộng. Chúng ta không bắt gặp sự gọt dũa, trau chuốt trong thơ anh. Y vậy, mà ngôn ngữ anh đẹp lạ lùng, nó chứa cả nguồn sinh lực vô biên, hồn nhiên tuyệt vời. Qua ngôn ngữ thơ đó, chúng ta bắt gặp một sự nhạy cảm rất thơ, một tâm hồn phóng khoáng kỳ diệu”.

Nhật Ngân, Phạm Thế Mỹ, Vĩnh Điện, Mai Đức Vinh... đă đem thơ Luân Hoán phổ thành ca khúc. Phan Ni Tấn đă phổ nhạc hai ca khúc Khiêng Nước và Phải Ḷng Con Gái Bến Tre, với anh, chân dung Luân Hoán được phác họa:

“Nh́n chung trong Luân Hoán có hai con người. Một con người vọng động nổ lực diễn đạt thơ ḿnh bằng những lời lẽ đơn sơ, phóng túng, hào săng, nhiều khi gần với khẩu ngữ. Và hồn nhiên trong sáng đối với t́nh yêu lứa đôi, t́nh học tṛ. Một con người khác lặng lẽ hơn thâm trầm hơn làm thơ về nỗi chia ĺa quê hương nhắm mắt như sờ được....”.

Gần nửa thế kỷ đóng góp trên thi đàn Việt Nam, rất nhiều bài viết về Luân Hoán từ nhận xét về bài thơ, từng tập thơ đến tổng quát về ḍng thơ của Luân Hoán... cảm nhận được con người chọn thơ như lẽ sống, trân quư ư thơ mà giản dị trong ngôn ngữ. Quê hương, t́nh yêu, bạn bè, chiến chinh... được gói trọn qua hàng trăm bài thơ của Luân Hoán, rất gần gũi và dễ cảm thông.

 

Kết

“... Ngoài tập Về Trời, đầu tay, phải bán một phần nhỏ ruộng đất được gia đ́nh chia cho phần ḿnh để in thơ. Những thi phẩm c̣n lại, hầu hết được bạn đọc, bạn văn (trong số này, có nhiều bạn đến nay, tôi vẫn chưa được gặp mặt, bắt tay một lần) in cho....

... Trong cuộc sống tôi, có nhiều việc bắt đầu bằng những t́nh cờ. Nhưng việc làm thơ lại được quyết tâm học hỏi, trau dồi đàng hoàng với ông thân sinh. Thời gian khởi đầu, tôi làm thơ, thuần tuư về mê thơ, khoái làm thơ...

... Quê hương đúng là một đề tài lớn trong thơ của tôi. Tôi có thể viết về quê hương dù đang ở bất cứ một nơi nào khác trên trái đất. Tuy nhiên sức sống và linh hồn của những ḍng thơ này vẫn chỉ bất nguồn từ những rung động sống thật đă được có trong quá khứ...

... Tôi không làm dáng cho thơ tôi, nhưng tôi cũng không thể, không tiến chiến mục tiêu... Thời gian hoàn tất một bài thơ, (với tôi, thường là một loạt, vài ba bài) quả không có thời gian nhất định. Nhưng trung b́nh độ 3 đến 4 tiếng đồng hồ là nhiều nhất, dĩ nhiên không - những bài thật dài. Sau khi hoàn tất, thường chỉ thay đổi một ít chữ. Nếu phải sửa lại nhiều, tôi viết lại bài mới, có khi đổi cả thể loại... Và, làm thơ là để giải bày tâm sự của chính ḿnh và viết cho người khác...”

Thơ và chân dung Luân Hoán được đúc kết lại từ bản thân, người bạn đời, thân hữu và bạn bè quá đủ để nói lên Luân Hoán qua thi ca và Luân Hoán dễ thương trong cuộc sống.

Thi phẩm đầu tay Về Trời của anh do Văn Học xuất bản vào cuối năm 1964, trong Lời Bạt, Dương Kiền đă viết:  Thơ anh là những âm thanh t́nh tự thiết tha và tất cả giá trị của anh là ở điều đó. V́ thế đôi khi anh bất chấp những xảo thuật của ngôn ngữ để làm tăng vẻ đẹp h́nh thức; anh chỉ quan tâm tới một điều: nói tiếng nói của con người, t́m thấy nhau trong nhịp điệu của sự sống đầy yêu mến thiết tha’ . Từ sáu mươi bài thơ trong Về Trời đến bảy mươi bài thơ trong Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Hoa, nh́n lại một chặng đường quá dài nhưng ư thơ của Luân Hoán vẫn  luôn luôn súc tích và quyện trong ḷng người. Xin mượn câu nói của nhà văn Pháp Chateaubriand vào đầu thế kỷ XIX để nh́n lại 40 năm Luân Hoán: ‘Thơ là khúc hát nội tâm’.

 

 

Vương Trùng Dương

Little Saigon, Tháng 7-2004