Nguyễn Mạnh Trinh
hỏi chuyện Luân Hoán
1.Nguyễn
Mạnh Trinh (NMT): Xin anh cho
độc giả một vài ḍng tiểu sử của ḿnh?
|
Ngoài mục t́nh sử khá giàu có, tiểu sử
tôi không có ǵ. Cung cấp cho anh đôi điều lư
lịch căn bản: |
2. NMT:
Nếu có người gọi anh là "nhà thơ xứ
Quảng " th́ anh có ư nghĩ ǵ?
|
Thưa anh nếu cách đây trên 10 năm . Có
người gọi tôi là "nhà thơ" th́ tôi rất
vui và khoái . V́ ít ra, nhờ đó, tôi biết chắc
được: ḿnh quả thật làm được
thơ. Người gọi tôi lại màu mè, tḥng thêm hai
chữ "Xứ Quảng", th́ tôi càng thú vị
hơn, v́ điều đó xác định rơ ràng cội
nguồn, mà tôi rất vừa ḷng . Với thời
điểm hiện tại, có người gọi tôi là
"nhà thơ xứ Quảng" qua mặt chữ in
hoặc viết, đó là chuyện tự nhiên, đă quen
thuộc, không tạo cho tôi ư nghĩ ǵ . Nhưng giả
dụ, tôi đang đi chơi với anh A, chợt
gặp anh B, Anh A giới thiệu : " đây Luân Hoán nhà thơ xứ Quảng " th́
tôi chắc chắn sẽ mất nhiều tự nhiên và
mắc cỡ nữa . Bởi tôi thấy thừa cả
bốn chữ "nhà thơ
xứ Quảng". |
3. NMT: Thi
ca và quê hương, theo anh là một đề tài lớn và
liên quan đến nhau . Bây giờ ở thời
điểm này có tạo ra cho anh những rung động
khi sáng tác không?
|
Quê hương đúng là một đề tài
lớn trong thơ của tôi. Tôi có thể viết về
quê hương dù đang ở bất cứ một
nơi nào khác trên trái đất. Tuy nhiên sức sống và
linh hồn của những ḍng thơ này vẫn chỉ
bất nguồn từ những rung động sống
thật đă được có trong quá khứ. Viết
với sự sống lại những ngày đă qua như
thế, dĩ nhiên sẽ cạn và xơ cứng dần.
Tôi xúc động trước những tin nghe
được từ quê nhà. Nhưng không đủ rung
động, khi không cảm nhận h́nh ảnh trực
tiếp, nên tôi không mấy khi làm thơ trong trường
hợp này. Đề tài về quê hương trong thơ tôi
lúc này chỉ c̣n thấy thoáng, mờ nhạt . |
4. NMT: Anh
đă sinh hoạt cả hai thời kỳ văn học :
20 năm văn học miền nam trước 1975 và 25
năm văn học hải ngoại sau 75. Anh có những
nhận xét nào, những điểm tương đồng
cũng như dị biệt?
|
Tuy có sinh hoạt cả hai thời kỳ văn
học trước và sau 1975, nhưng thời điểm
nào, tôi cũng ở cách xa những nơi được
gọi là Thủ Đô Văn Hóa Việt Nam. Lại là một
người làm thơ tài tử, rất ít quan tâm
đến những vấn đề lớn lao của
Văn Học Nghệ Thuật, nên tôi không dám nói lên
những nhận xét chắc chắn rất hời
hợt, thiếu chính xác của ḿnh. |
5. NMT: Có
người cho rằng văn học ở hải
ngoại thừa kế văn học miền nam
trước 75 . Anh có nghi ngờ về sự chính xác
của nhận định này?
|
Tôi cho rằng không có sự kế thừa nào
cả. Với những người viết cũ: Khi có
lại tự do lẫn điều kiện, họ
tiếp tục những đam mê, hoặc những
nghiệp dĩ đă có. Với những người
viết mới, nếu hợp với khả năng,
họ t́m đến và thực hiện sở thích của
ḿnh. Mỗi tác phẩm là một túi đựng t́nh
cảm lẫn tư tưởng của người sáng
tác trong giai đoạn họ đang sống. Vịn vào
giai đoạn hoài niệm để xác định là kế
thừa sẽ không xác thực. |
6. NMT:
Riêng thi ca, anh có thấy sự kế thừa và nối
tiếp qua hai thời kỳ văn học nói trên?
|
Với thi ca, sự tiếp nối có chăng là
việc xử dụng thể loại để diển
đạt . Trong những cái rọ mang tên là Thơ đó,
nếu việc dàn trải t́nh cảm, tư tưởng
mới lạ đă là điều đáng mừng. Ngay
sợi giây chuyền - vàng - lục - bát cũng đă có
những đánh bóng khá đẹp, vậy nên kể là một
bước tiến của thi ca. |
7. NMT:
Trước 1975 anh xuất hiện với văn giới
như thế nào? Có kỷ niệm nào đáng nhớ về
những tác phẩm đầu tiên trong đời cầm
bút?
|
Tập tành làm thơ rất sớm, nhưng măi
đến năm lên đệ ngủ, quen thân với anh
Châu Văn Tùng tôi mới có dịp đọc các loại
báo ấn hành tại Sàig̣n . Liền đó tôi gởi
thử một bài thơ đến tuần báo Tuổi
Xanh và được chọn đăng. Sau Tuổi Xanh
lần lượt đến Gió Mới, rồi cũng
như những người ở tỉnh lẻ khác, tôi
gởi đăng thơ nhiều trên các báo Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Ngàn Khơi, Thời Nay, Kỷ
Nguyên Mới ... cuối cùng dành bài để gởi
đăng ở Mai, Bách Khoa và Văn Học . Tập chí
Phổ Thông của ông Nguyễn Vỹ, tôi gơỉ 2 bài
hai lần khác nhau, đều không được
chọn, đây là một thất bại, lúc đó tôi
rất bực ḿnh. Nhờ vào sự trong sáng, vui vui,
thơ tôi có bài được ông Đoàn Xuyên chọn in vào
sách Việt Văn lớp nhất làm tôi rất vui . Ngoài
bút hiệu L. H. tôi c̣n cho đăng thơ với tên
thường dành cho phái nữ như Lê Quyên Châu, Châu
Thị Ngọc Lê, Đoàn Thị Bích Hà ... điểm này
tạo được một vài kỷ niệm khá thú
vị. |
8. NMT:
Trước 75 có nhóm "những nhà văn nhà thơ
miền trung ." trong đó có anh . Anh có thể nói qua, các
anh đă sinh hoạt văn chương như thế nào trong
thời kỳ ấy?
|
Không biết có phải trí nhớ tôi đă sa sút
hay không, mà thú thật tôi không nhớ ǵ đến nhóm
" Những nhà văn nhà thơ miền trung" như
anh nhắc. Có thể có . Nhưng tôi có sinh hoạt trong
nhóm đó hay không ? th́ h́nh như không. Dù sao, những sinh
hoạt tại Quảng Nam vào các giai đoạn của
thời đó, đại khái như thế này: |
9. NMT: Lúc
đó chiến tranh ảnh hưởng thế nào khi anh
cầm bút?
|
Trong cuộc chiến Việt- Pháp, tôi trôi
nổi cùng gia đ́nh qua nhiều vùng núi đồi
hiểm độc. Tuổi thơ đă lưng lửng
những tiếng đạn bom, những h́nh ảnh tang
thương của cuộc chiến. Đà Nẵng, nơi
tôi định cư khởi từ năm 1953 cũng
chỉ là một thành phố luôn luôn có bóng dáng thần
chết mai phục. Rồi những biến cố
lịch sử tiếp theo, dựng tôi lớn nhanh, xô tôi
vào thành phần những người trẻ tuổi
sớm có nhiều ưu tư về thời thế. Theo
đúng lứa tuổi, tôi bị gọi vào khóa 24 SQTBTĐ .
Vào thời kỳ này, tôi không hiểu chính tôi một cách rơ
ràng. Tại mặt trận, mặc dù " súng lận
lưng quần cho có chuyện / mắt đầy cỏ
lá, hồn đầy thơ" ... nhưng tôi luôn luôn
là một người lính sáng suốt, hết sức ḿnh.
Với ba chiến thương bội tinh và nhiều huy
chương khác của vài năm chiến đấu
,đủ nói lên điều này. Nhưng cũng ngay trong
cuộc hành quân, thư thả được giờ nào,
là tôi làm thơ lên án cuộc chiến ḿnh đang tích
cực tham dự . Tôi không làm dáng cho thơ tôi, nhưng tôi
cũng không thể, không tiến chiến mục tiêu.
Đồng đội cần kề của tôi thay nhau bị
bắn ngă ngay trong những giờ phút tưởng như
tịnh yên, an toàn nhất . Tôi chưa hề chĩa
mũi súng vào một thân xác địch quân nào. Nhưng tôi
đă từng chấm tọa độ, gọi pháo binh,
để rồi sau đó lục soát, bắt gặp
nhiều xác người. Những " Viên Đạn Cho
Người Yêu Dấu " " Ḥa B́nh Ơi, Hăy Đến
" ( in chung với Phạm Thế Mỹ, Lê Vĩnh
Thọ ), có lẽ đă góp một phần nhỏ xô
giạt phần đất tự do miền Nam vào tay vơ
thần Cộng Sản, như anh Hà Thúc Sinh trong Đại
Học Máu đă tỏ ư hối tiếc. Nhưng tôi làm
được những ǵ tốt hơn ,ngoài việc
thủ vai " một sĩ
quan mù, chỉ huy một trung đội điếc
" thời bấy gời ? |
10. NMT: Bây
gời ở tại hải ngoại, anh nh́n lại
chiến tranh như thế nào? có thay đổi ǵ với
thời kỳ trước?
|
Chiến tranh lúc nào cũng ghê tởm, đáng lên
án . Nhưng nếu bắt buộc phải chiến
đấu để bảo vệ tự do cho dân
tộc, giữ vẹn lănh thổ quốc gia khỏi
rơi vào tay kẻ thù ngoại bang, tôi vẫn sẽ
động viên những người thân kế tiếp
tôi, tham dự tích cực . |
11. NMT: Anh
có coi việc NMT: Anh có nghĩ thi ca biểu lộ dễ dàng
nhất tâm tư thời đại so sánh với các bộ
môn văn học khác?
|
Điều này, tôi nghĩ c̣n tùy ở khả năng
và sở trường của mỗi tác giả . Thi ca
chỉ lấn hơn vài bộ môn khác ở lợi điểm
gọn nhẹ, nhưng sự cô đọng, và c̣n có cái
sáng sủa đi kèm . |
12. NMT: Anh
làm thơ có dễ dàng không ? Thường thường, thói
quen bao lâu anh hoàn tất một bài thơ ? Và sau đó có
sửa chữa nhiều không?
|
Trong " Mời Em Lên Ngựa " tôi đă
từng than : "ta làm thơ
khá dễ dàng / cọng thêm dễ dăi ,đâm nhàm mất
thôi / mở ḷng định quét nước vôi / ngặc
t́nh yêu vẫn đời đời mới tinh .". |
13. NMT: Anh
làm thơ là để giải bày tâm sự của chính ḿnh
? Hoặc viết cho người khác, mà anh thương
mến?
|
Cả hai trường hợp đều có.
Nhưng viết về chính ḿnh nhiều hơn . |
14. NMT: Anh
có ghi lại những biến cố đáng nhớ của
đời ḿnh bằng thi ca thí dụ như Nén Hương
Cho Bàn Chân Trái?
|
Vâng, tôi thường thực hiện
điều này. |
15. NMT: Quê
hương trong thơ anh cụ thể với những
địa danh, cũng như danh tánh những nhân vật .
Điều ấy có phải là sự cố tâm của anh?
|
Đúng thế . Được gọi lại tên
người, tên đất, tôi cảm thấy như
sờ được, nắm được trong tay
những thân thương đă cách xa. Gọi tên, dù gọi
trong thơ, tôi vẫn cảm thấy được
hồi đáp . Và cái khoảng cách chia xa được
rút ngắn lại một cách thần diệu . |
16. NMT:
Chiến tranh đă lấy đi một phần thân thể
của anh ? Anh có thể kể về trường hợp
ấy?
|
Độ nửa giờ sau khi vượt tuyến
xuất phát, tiểu đoàn chúng tôi đụng lớn
từ nhiều cánh. Đơn vị nhỏ của tôi, ngay
từ phút đầu đă phải cho đi phép vĩnh viễn
hai tân binh vừa bổ sung. Ba người khác “rách áo”,
cũng vừa lên trực thăng . Nhưng cuối cùng,
cũng như nhiều lần khác, chúng tôi tràn mục tiêu
. Hai ngày truy kích tiếp theo, địa bàn mở rộng
an toàn. Cuộc hành quân bước qua ngày thứ 5, chúng tôi
có lệnh trở về Núi Dẹp. Khi ngang một
cḥm mộ mồ côi, con đất Thi Phổ của
Quảng Ngăi bổng toát miệng cười, trải tôi
nằm ngửa trên một thảm cỏ rất xanh. Có
lẽ 4 gời chiều, trời đất mênh mang yên
lặng. Tôi nhịn đau chống tay ngồi tháo
giầy, cái áo giáp đè nặng trên lưng. Ba ngón chân sát
cánh ngón cái bị dập nát. Với vết thương
này, nếu quân y viện Việt Nam, có lẽ tôi chỉ
bị mất đi nửa bàn chân. Tiếc thay v́ có chút xúi
cấp bậc, người đồng minh sốt
sắng đưa tôi về bệnh viện dă chiến
Hoa Kỳ, trên ngọn núi Đức Phổ. Và sau đó, theo
công thức ấn định, tôi bị cắt bỏ nửa
phần chân dưới trong cơn mê. Kỹ thuật
cưa cắt từ một phần xương thịt
lành lặn, qủa đă sớm giúp vết thương
liền miệng an toàn. Nằm với thương binh
Mỹ từ 24 tháng chạp đến mùng ba tết, tôi
được đưa về quân y viện Quảng
Ngăi. Bạn văn t́m đến đủ mặt:Vương
Thanh, Phan Nhự Thức. khóc như trẻ thơ . Qua
một đêm, tôi được về quân y viện
Duy Tân, trong tay ngoài cặp, c̣n có cái khăn tay của
Khắc Minh buộc sẫn. Gần một tháng sau tôi
nhắn tin buồn cho gia đ́nh. Vợ tôi đang trong
thời kỳ chuẩn bị sinh cháu đầu ḷng, Lê
Ngọc Ḥa B́nh. Thời gian này Lê Vĩnh Thọ, Phạm
Thế Mỹ lên thăm tôi mỗi ngày . Tin tôi ngă ngựa
đă được phổ biến trong bè bạn . Anh
Trần Phong Giao có thư gơỉ gắm tôi cho một
y sĩ. Tôi nhận được nhiều thư
khuyến khích an ủi . |
17. NMT: Anh
có chút ǵ nuối tiếc về sự đóng góp
xương máu ấy?
|
Sau 28 năm đi đứng nghiêm chỉnh,
đàng hoàng, bỗng ngă ra thành một người
khuyết tật . Khó có thể giữ được b́nh
thảng, không nuối tiếc. Nhưng bất lực
trước sự việc đă xảy ra, tôi đă
cố gắng nguôi quên sự không may của số
phận. Buồn một nỗi, cho đến ngày hôm nay,
tôi vẫn c̣n mang nặng mặc cảm xấu hổ
về sự tàn phế, khi phải đi ngang qua
trước những đôi mắt, mà tôi cảm thấy
đang ṭ ṃ, đánh gía dồn lên thân xác ḿnh. Vốn đă
ngại đám đông, càng thêm sợ đám đông, tôi ít
dám xuất hiện trong những buổi họp mặt
đông đảo cũng v́ điểm này . |
18. NMT:
Biến cố tháng 4 . 75 ảnh hưởng thế nào trong
đời sống anh?
|
Cuộc đổi đời của dân
miền Nam, đến với Đà Nẵng sớm hơn
Sàig̣n một tháng . Ảnh hưởng của biến
cố này đối dân chúng miền Nam thật quá
lớn. Điều này, chúng ta đă hiểu rơ. Riêng cá nhân tôi,
ở mặt tinh thần bị tổn hại nhiều
nhất. Để thích ứng với t́nh thế, sau
nhiều giai đoạn bầm dập, tôi thực
hiện những điểm tự đề ra:
|
19. NMT: Và
thi ca có phản ảnh đời anh lúc đó?
|
Anh cho phép tôi trích vài đoạn để thay
câu trả lời : |
20.
NMT: Khi đề cập
tới nỗi đau khổ, dù cùng cực, tôi vẫn
thấy được cảm giác khác, như niền hy
vọng, hoặc cảm xúc với t́nh người ...
như vậy điều ấy có đúng với tâm
trạng anh không . Hay tất cả chỉ là màu đen
tối thằm?
|
Là một người thường
được bạn bè nhận xét : " Có nụ cười mở đường,
đi trước ", nên trong tôi, có lẽ nỗi bi
quan thường được niền lạc quan đi
kèm, tôi luôn tin tưởng có sự tốt đẹp
hơn ở những chặng đời sẽ đi tới,
dù có hay không, nên tin cái đă, đó là quan niệm của
tôi, tâm trạng sẽ ảnh hưởng bởi quan
niệm sống này . |
21.NMT: Đặc biệt, anh có làm thơ
gởi tặng riêng một người nào không, ví dụ
một người đẹp, một người t́nh
chẳng hạn?
|
Không những không, mà có lẽ c̣n quá nhiều,
bởi khi làm thơ tôi thường nghĩ đến
một đối tượng cụ thể nào đó .
Nhiều khi đề tặng một người nào
đó ,mà như họ đại diện cho chính ḿnh. Tôi
cảm thấy cô độc khi ḿnh lầm lũi trong
bước chân thơ . |
22.NMT: Anh nghĩ thế nào về t́nh
yêu . Lúc trẻ và bây giờ khi đă đứng tuổi?
|
Chúng ta, trải qua nhiều thế hệ,
đều cho rằng t́nh yêu là đề tài của muôn
thuở, tôi cũng không có khả năng vượt
khỏi . Có khác chăng thời trẻ tuổi thơ t́nh
của tôi thường được lồng vào với
những h́nh ảnh khác, nhiều nhất là quê
hương. Càng lớn tuổi tôi càng tách rời chúng ra
hơi xa một chút. Xin được đưa vài
dẫn chứng . |
23. NMT:
Thơ của anh có đề cập đến t́nh dục
không? Đề cập đến một cách mơ hồ
hoặc cụ thể. Và anh nghĩ một cách chân thực
về vấn đề này?
|
Tôi thấy không có ǵ đáng ngại và xấu
hổ khi đề cập đến t́nh dục bằng
ngôn ngữ thơ. Tôi đă có thực hiện điều
này, cụ thể hay mơ hồ, xin anh cho bạn
đọc kết luận sau khi đọc đoạn
trích sau đây : " dẫu
ṃn mơi qua đường xưa lối cũ / vó ngựa
ta c̣n thở vẫn c̣n phi / mông em nở và cập chân
rất điệu / khép càn khôn vào giữa nhụy xuân th́
/ em kiều di-m dẫu không ngừng sáng tạo / thế
trên yên dông băo tuyệt như nhau / ngă về bắc,
dạt về nam cuồng nhiệt / tay cương chùng
theo vận tốc chậm mau / ... vẫn đường
cũ mà mỗi lần qua lại / hương trong ḷng
vẫn đổi mới luôn luôn ... // ( trích trong thi
tập Mời Em Lên Ngựa ). |
24. NMT: Anh
có bao giờ đề cập đến Thiền,
đến triết học trong thơ của anh?
|
Tôi nghĩ là không, nếu có vài nét chẳng qua là
sự t́nh cờ . |
25. NMT: Có
phải v́ mệt mơi trước cuộc sống nên hay suy
tư về một thế giới khác, lăng mạn và
nhiều thơ mộng hơn?
|
Có thể đúng như vậy . Tôi đă
từng ví ḿnh như đă chết viết vài bài thơ
ở cơi âm . |
26. NMT: Khi
bắt đầu một bài thơ, anh có chọn lựa
sẫn thể loại hay để tự do theo cảm
hứng?
|
Không có chọn lựa nào trước khi
viết. Trừ khi viết xong một bài nếu không
ưng ư, cần sửa chửa nhiều, tôi thường
bỏ và chuyển qua một thể loại khác. |
27. NMT: Anh
có nghĩ về việc làm mới thi ca? Thơ mới và
thơ hay có ǵ liên hệ?
|
Thơ hay chính là thơ mới rồi . Tôi
vẫn nghĩ nên làm Mới thi ca, nhưng làm mới
như thế nào, ra sao, th́ tôi đang ḷ ḍ thử
nghiệm, chưa đạt kết quả nào . |
28. NMT: Tôi
có đọc một vài bài thơ của anh làm rất
"lạ" so với thơ b́nh thường kư tên LH
trên tạp chí thơ tại sao lại có sự kiện này?
|
Điều đó, có lẽ cũng nằm trong
cố gắng như vừa nói trên. |
29. NMT: Anh
có nhận xét nào về sự cổ xúy cũng như
cố công làm mới của nhóm chủ trương tạp
chí thơ?
|
Tôi ngưỡng mộ các bạn thơ của
tạp chí Thơ và mong mỏi họ thành công . Điều
cần thiết là phải làm cách nào ,để cái mới
đó có hồn, có vía đàng hoàng, phổ biến
được đón nhận rộng răi . |
30. NMT: Anh
có nghĩ thơ mà chú trọng đến kỹ thuật và
h́nh thức quá sẽ làm loăng đi phần nội dung tích
chữa?
|
Kỷ thuật và h́nh thức là những
điểm tất phải có của một bài thơ,
nhưng nếu chú trọng quá đáng, có lẽ loăng
bớt nội dung, đó là chưa kể nếu quá màu mè,
bài thơ lại dễ biến ra một họa phẩm
siêu thực . |
31. NMT:
Chắc anh có đọc những bài thơ trong
nước, bây giờ, theo anh có hiện tượng nào
nổi bật, cũng như thi sĩ nào đáng đề
cập?
|
Đọc không được nhiều, nên vài
nhận xét của tôi sau đây có thể không mấy chính
xác . |
32. NMT: C̣n
ở hải ngoại, anh có nhận xét nào về thi ca hôm
nay?
|
Tại hải ngoại . Số lương người
làm thơ càng ngày càng đông . Đề tài lẫn nội dung
không có sự thay đổi đáng kể . Nhưng h́nh
thức và cách dùng từ ngữ có nhiều cách tân, nh́n
lạ mắt, khá khó đọc trước đám
đông . Những nhà thơ : Trần Mộng Tú, Đỗ KH,
Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Tô Thùy Yên, Ngô Tịnh
Yên, Ngu Yên, Thái Tú Hạp, Chu Vương Miện, Hoàng Xuân
Sơn, Phan Ni Tấn, Chân Phương , Triều Hoa
Đại ... vẫn là những cây bút sáng giá của bộ
môn thi ca . |
33. NMT:
Nếu so sánh anh kết luận thế nào về văn
học ở trong nước và ở hài ngoại hiện tại?
|
Trong, lẫn ngoài, tôi thấy, cả hai
đều có những đội ngủ quyết tâm
cải tiến đi lên . Khác chăng là trong nước
hơi vội vă, ở ngoài hơi đắn đo. |
34. NMT: Và
thi ca th́ nhận định ra sao khi so sánh?
|
Tôi chỉ xin đưa ra nhận xét bên lề .
Trong nước thi ca ít ra cũng c̣n được xem là
một trong những món ăn tinh thần, c̣n giữ
được một số độc giă . Những thi
phẩm cá nhân hoặc tuyển tập liên tiếp ra
đời trong một đất nước kinh tế
c̣n yếu kém, nói lên điều này. Đó là chưa kể giá
trị của nhà thơ c̣n có được chút ít, qua
việc nhận tiêu biểu 1 chút nhuận bút khi có thơ
in trên các tạp chí . Tại hải ngoại, thi ca trở
thành một loại son phấn để làm dáng cho
nhiều bậc khá giả . Trọng lượng của
người làm thơ có tuột dần xuống, trên
kệ sách của các quán sách có vắng bóng thi ca cũng là
điều hợp lư . |
35. NMT: Anh
có nghĩ thi ca VN sẽ có ngày chen chân trên thi đàn thế
giới? hay chỉ là mộng ước thôi?
|
Thế hệ của chúng ta chắc chưa làm
được đều này một cách vẽ vang . |
36. NMT: Anh
có nghĩ suy nào về giao lưu văn hóa giữa trong
nước và hải ngoại? Bây giờ và tương lai?
|
Hiện tại vấn đề giao lưu
văn hóa giữa trong và ngoại nước đang
ở giai đoạn đầu, tuy không hẳn là một
chiều, nhưng rơ ràng chưa cân bằng . Vui vẻ
đưa tay ra trước vẫn là giải pháp tốt,
tôi tin với thời gian mọi sự sẽ
được cải thiện . |
37. NMT: Tương
lai của văn học VN hải ngoại nói chung và thi ca
nói riêng hội nhập và văn chương bản xứ,
thành lập một nhánh riêng, hoặc hội nhập
với ḍng chí nhớ quê nhà?
|
Tôi nghĩ, văn chương nghệ thuật
hải ngoại đang và sẽ có một nhánh riêng . |
38. NMT: Theo
anh có sự khựng lại trong giới cầm bút hải
ngoại trong thời gian gần đây?
|
Sự khựng lại của giới cầm
bút hải ngoại tôi thấy chỉ xảy thoáng qua trong
năm 1989. Hiện nay tôi rất lạc quan . Giá trị và
sự vững mạnh của các tạp chí Văn
Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21 ...
đủ để thuyết phục điều này . |
39. NMT: Anh
có dự tính nào về sáng tác trong thời gian tới?
|
C̣n đọc, c̣n cầm được cây bút
là c̣n có dự tính . Nhưng xin anh cho tôi trốn câu trả
lời này . |
40. NMT: Một
ngày của thi sĩ LH?
|
Một ngày của tôi hoàn toàn không giống nhau.
Sự thay đổi và khác biệt tùy thuộc vào
nhiều yếu tố : thời tiết / t́nh cảm gia
đ́nh / giao dịch với người chung quanh /
những cao hứng bất ngờ vân vân ... Nhiều khi,
sau khi mở hộp thư đă thay đổi toàn bộ
chương tŕnh đă dự tính . Dù sao tôi cũng có
điểm này gần như cố định : Ngày nào
tôi cũng bỏ ít nhất 10 phút để ngó trời,
ngó đất, nh́n thiên hạ đi đường, tôi
vốn sợ cô đơn . |
41. NMT: Anh
có muốn nói ǵ với đọc giả?
|
Cám ơn và xin phép anh cho tôi tỏ lời cảm
tạ chân t́nh đến tất cả những bạn
đọc đă, đang và sẽ đến cùng thơ
tôi . NGUYỄN MẠNH TRINH thực hiện |