CHÂN DUNG LUÂN HOÁN

TRONG BÓNG CH

Nguyn L Uyên

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

luân hoán

 

 

 

Luân Hoán xuất hiện trên văn đàn miền Nam khá sớm. Theo như tự sự của ông th́ “năm 11 tuổi đă bắt đầu tập làm thơ do thân phụ ông hướng dẫn”. Ba năm sau, Luân Hoán có thơ đăng trên Tuổi Xanh; sau đó lần lượt đăng trên các tạp chí Gió  Mới, Mai ở tuổi 15, 16. Cũng theo ông, th́ Ngàn Khơi và Tiểu Thuyết Thứ Bảy đăng thơ thời niên thiếu của ông nhiều nhất . Đến nửa thập niên 60, ông có chân trong Ban Biên Tập tạp chí Văn Học (sau khi nhà văn Dương Kiền chuyển giao Chủ bút cho ông Phan Kim Thịnh). Từ đó thơ ông xuất hiện đều đặn trên Bách Khoa, Phổ Thông, Văn Học, Văn…

Thơ Luân Hoán hướng về đề tài chiến tranh, t́nh yêu, thân phận tuổi trẻ… như nhiều nhà thơ khác cùng thời (Hẳn nhiên, mỗi người đều có cách nh́n khác nhau về đề tài ḿnh chọn lựa). Sau khi gửi lại một chân nơi chiến trường Mộ Đức 1969, Luân Hoán vẫn tiếp tục làm thơ, như một cái nghiệp trói chặt cuộc đời ông. Có người nói: Luân Hoán đă đứng dậy và làm thơ hay hơn xưa bởi bên cạnh có người vợ hiền, để, tới nay ông đă có trên 10 tập thơ được xuất bản trong và ngoài nước.

Tập đầu tay, Về Trời do Văn Học (?) ấn hành khoảng đầu năm 64. Tập thứ hai Trôi Sông cũng do Văn Học ấn hành. Và tập thứ 3, thứ 4… khốn thay, bây giờ không có mặt trong tủ sách gia đ́nh. Điều này cũng dễ hiểu sau cái ngày đen tối 30.4, thời điểm của phần thư, biếm trích!

Chính v́ những điều này, nên tôi chỉ dám nh́n ḍng thơ ông như một kẻ cỡi ngựa xem hoa. Âu cũng là vạn bất đắc dĩ, không thể khác được.Tuy nhiên, với hơn 10 tập thơ xuất bản trước sau, th́ không thể không nhắc đến thời kỳ ông ở trong quân ngũ.
Cũng chính là người trực tiếp tham dự vào “tṛ chơi súng đạn” do những tên giảo hoạt dựng lên, nên ít nhiều ḍng thơ ông đă xới động ḷng người đọc nhiều nhất, buộc ta phải nhăn mặt, ph́ cười hoặc quặn thắt, đau theo từng câu thơ ông viết từ trái tim, nước mắt và máu.

Tâm trạng của những “chàng tuổi trẻ” nơi chốn sa trường lúc này, khi bật ra thành lời hay giữ kín trong ḷng đều khiến người đọc phải thông cảm: Bởi bản thân họ vốn dĩ không mấy “lành lặn” về tâm hồn. Cái sự không “lành lặn” kia, thế tất sẽ dẫn đến sự cẩu thả với ngay chính thân thể ḿnh cũng không có ǵ khó hiểu. Đó là những anh chàng “Râu lởm chởm tóc rễ tre lộn xộn/ Má hóp môi ch́ da xếp nhô xương”là h́nh ảnh chân thật của những chàng Luân Hoán thời chiến. Có thể coi đây như là biểu tượng của những chiến binh trong những năm tháng dài ngoài trận mạc được chăng? Rơ ràng, những nét phác hoạ sơ sài về ngoại h́nh, vừa là tâm thế của những anh lính trận thuở trước, phần nào cho người đọc thấy rơ hơn về sự nhếch nhác của cuộc chiến tương tàn: 50 con trên núi đánh nhau với 50 con dưới biển, theo sự điều khiển của ngoại bang! Tuy nhiên “tóc tai, người ngợm” của Luân Hoán không có vẻ khinh bạc như Nguyễn Bắc Sơn, khi kêu lên “Cắt tóc cạo râu là chuyện nhỏ/Ba ngàn thế giới cũng không to”, nhưng ngẫm lại, nó lại là nguyên mẫu của người lính chiến từ thời Vương Duy đến Quang Dũng, hay Cao Xuân Huy, Trang Châu… sau này.

Hẳn nhiên, người lính trận th́ chẳng có ǵ gọi là thong dong; trận mạc chẳng phải là nơi đầy hương thơm, cỏ lạ, là nơi chốn b́nh yên để rong chơi!

Những địa danh ghi lại qua những cuộc hành quân dài ngắn, khác với những nhà thơ cùng thời, là đạn bay, là khói lửa, nhớ nhung về người yêu ở hậu phương, Luân Hoán bắt ở một nhịp khác, rất thật, rất trần trụi, rất có thể không làm hài ḷng các  bậc túc nho c̣n sót lại khi ông đưa tính dục vào thơ. Ban đầu, mới chỉ là sự liên tưởng vu , (trong bài Ở ngă tư Ba La) như sự trổi dậy của bản năng gốc, chợt “thức giấc” sau những đêm dài đi kích:

 

Đêm ngă tư Ba La

Ngào ngạt hương thịt da

Nằm nghe ếch nhái

Vừa làm t́nh vừa ca.

 

Cái hiện thực trên kia, Luân Hoán vừa phơi ra có thể giải thích theo Freud từ những ẩn ức thuộc về nhu cầu b́nh thường của con người b́nh thường nhất. Nó không xa lạ, không buông thả hay tệ hơn như một thứ nhục dục thấp kém.

 

Đêm luẩn quẩn đi tuần

Ngày dạo quanh Quán Lát

Trí năo bỗng lừng khừng

Buồn nghêu ngao nằm hát

Tám tuần chưa làm t́nh

Tám tuần chưa hớt tóc

(Dừng quân ở núi Dẹp)

 

Có thật nó trần trụi lắm không khi mà nhà thơ đă phơi trần sự thật không cần phải che đậy? Và liệu như thế th́ chất thơ sẽ có giảm di chăng?  Điều này xin nhường cho các nhà phê b́nh văn học phân tích. Riêng tôi, người đă từng đọc nghiến ngấu tập đầu tay Về Trời, th́ Luân Hoán không nhân danh một sứ mệnh cao cả nào, như những người lính Bắc phương, mà đơn giản ông nói được điều ông suy nghĩ, ông cảm rồi cuồn cuộn dâng lên, không thể kềm giữ lại. Đó là sự thật.

Vả lại chất “chiến binh” trong hầu hết các nhà thơ miền Nam là sự trong sáng, hồn nhiên đầy ắp trong tâm trí họ, khi nh́n thấy mọi sự vật diễn ra chung quanh ḿnh. Họ hồn nhiên đến nỗi đi hành quân mà tưởng đi picnic như NBS, hay nổi máu giang hồ hảo hán để gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân như Linh Phương khi nh́n thấy em VC xinh đẹp như con gái Sài G̣n. Ở Luân Hoán chưa thấy những g̣ bó, một chiều thẳng đuột đi đúng lề đúng cách như các nhà thơ Bắc phương. Ví như mấy câu sau đây:

 

Hai mươi tháng Chạp đi lùng giặc

Mộ Đức, Nghĩa Hành lội nhởn  nhơ

Súng lận lưng quần cho có chuyện

Mắt đầy cỏ lá, hồn đầy thơ

(Đệ nhất thiêng liêng là giờ nhớ em)

 

Trong khi đi hành quân mà mang cỏ lá vào mắt, mang thơ đầy ắp hồn và súng đạn th́ “lận lưng quần cho có chuyện” chỉ có thể có trong cung cách người lính miền Nam, trong thơ ca miền Nam. Đó cũng chính là chất hồn nhiên của Luân Hoán và của tất cả các nhà thơ cùng thời. Ngay cả khi đoàn quân đang tiến chiếm mục tiêu, nhà thơ cũng có những nỗi nhớ bâng khuâng mắt em đưa đẩy hai đầu vơng/ ta ngủ giữa ḷng em với thơ. Chưa hết, khi mưa đă tạnh, cuộc hành quân vẫn đang tiếp diễn, thay v́ làm nhiệm vụ truy kích hay dàn chiến thuật tiến chiếm mục tiêu th́ Luân Hoán lại đưa người đọc đến thật gần với hoa với cỏ, làm như đó là cuộc đi dạo, và trước mắt, trong những lùm bụi kia là những người bạn trẻ đang chơi tṛ cút bắt chứ không phải quân địch?

 

Hiển linh thay đoá hoa vạn thọ

Một thoáng ta đang ở tại nhà

Bát ngát trời thơm hương sắc xuân

Bỗng quên đang lặn lội hành quân

Ta ngồi huưt sáo mừng cây cỏ

Hứng giọt mưa trong thế rượu mừng

(Hiên ngang một đoá hao vạn thọ)

 

Trong khi Vũ Hữu Định “thấy cơm sôi chợt nhớ nhà” là cái nhớ của kẻ “giang hồ vặt” như ông đă từng thú nhận, th́ Luân Hoán lại có những ư nghĩ rằng ḿnh đang ở quê nhà, khi nh́n thấy đoá hoa vạn thọ, là biểu tượng của mùa xuân trong dân gian nông thôn, là nh́n thấy sự b́nh yên để quên rằng ḿnh “đang hành quân” . Phải chăng hương sắc xuân là sắc màu mơ ước của Luân Hoán về một chút thanh b́nh đang giữa mùa chinh chiến?

Phàm chiến tranh th́ phải có mất mát, đau thương. Và một lần trong đời của thế hệ chúng tôi, dường như không ai tránh khỏi cảnh chia ĺa oan nghiệt với người thân, bạn bè… Số phận ấy cũng không rời Luân Hoán, khi bạn ông, Thiếu uư Nguyễn Nam ngă xuống. Đó là nỗi đau của ông. Và cái cách để tẩy rửa nỗi đau kia không phải là những lời lẽ hằn học, mà là một hành động rất “trẻ thơ”, rất “hồn nhiên tuổi ngọc” (chữ của nhà văn Vơ Hồng) đến chảy nước mắt. Thay v́ kêu gào trả thù, mà không biết trả thù ai, th́ bắn bừa vào chiếc lu sành, như thể chiếc lu kia là kẻ khốn nạn giết chết người bạn thân của ḿnh.

 

Ta trở lại đồn qua xóm cũ

Rút colt bắn lẫy cái lu sành

Nước tràn, lu vỡ, trời, ta khóc

Bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh

Ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng

Đến lượt ta hay đứa nào đây?

(Bàn giao cho bạn…)

 

(Mở ngoặc để xin được chắp tay vái Luân Hoán, như lời thơ Quách Thoại ta sụp lạy cúi đầu trong bài Thược Dược, khi ông dùng từ lẫy trong bắn lẫy. Ông đă đưa ngôn ngữ nói của giới b́nh dân vào hoàn cảnh này là quá xuất thần: bắn lẫy cái lu sành!)

 

Cuối cùng cái ngày đen tối nhất cũng đă đến với, không chỉ có những chiến binh cầm súng đối đầu, mà c̣n cả nửa đất nước. Mọi nhân phẩm, giá trị đạo đức làm người tối thiểu nhất bị chà đạp, lăn nhục. Chỉ có kẻ chiến thắng và người thua cuộc. Không có máu mủ, nghĩa đồng bào, t́nh tự dân tộc nào được xưng tụng, tôn vinh. Chỉ c̣n lại sự giả trá, hằn học. Và tất cả phải gánh chịu khổ nạn này như một định mệnh tiên thiên:

 

Các anh là súc vật

Nhân dân hằng căm hờn

(Tŕnh diện)

 

Những ai đă từng ra tŕnh diện trong những ngày đầu quân quản hẳn đă nghe câu nói này của các cán binh. Nó trở thành câu cửa miệng, được tuyên truyền dạy dỗ cẩn thận trước khi tiếp quản. Luân Hoán đă mang cả ngôn ngữ nói đưa vào thơ, không đánh bóng, xi mạ dùng nguyên xi thứ khẩu ngữ thường sử dụng, khiến người đọc càng cảm thấy đau xót khi đọc hai câu thơ trên và nhớ lại những ngày tủi nhục xa xưa kia. Chỉ một câu nói được lặp lại bằng ngôn ngữ thơ làm chúng ta phải chạnh ḷng, như tiếng thở dài sau khi xếp lại tập Animal Farm (George Orwell viết từ tháng 11 năm 1943- tháng 2 1944. Bản in đầu tiên phát hành tại Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945, được dịch ra 68 thứ tiếng, ấn hành hàng triệu bản trên thế giới).

 

Chúng tôi là súc vật

Hôm nay học làm người

(Tŕnh diện)

 

Đây là giai đoạn mà tất cả mọi người đều phải gánh chịu số phận bi thảm nhất một đời người: Bị tập trung giam giữ trong những trại tù khổng lồ không có bản án, đến 10 năm 20 năm… Nhiều người đă bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc. May mắn trở về th́ cũng chỉ là những thân cây c̣i cọc biết di động, để sau đó lại hứng tiếp cuộc sống đầy nhóc nỗi nhục nhằn. Luân Hoán cũng trở về, và ông ghi lại, một cách nguyệch ngoạc cuộc sống lúc đó:

 

Ngủ ngồi trên gác tối

Bụng rỗng như b́nh hoa

Cắm cành cây hy vọng

Xanh sắc nỗi xót xa

(Gác chiều)

 

Và những hy vọng ấy là thực tế phơi bày trước mắt ông:

 

Chữ thánh hiền không lẽ cũng mang gông

… Càng vùng vẫy ta càng bất lực

Dao ai kề sau cổ, chợt rùng ḿnh

(Vết thương)

 

Rồi ông tự vỗ về, an ủi:

 

Tuổi chưa lớn nhưng đớn đau quá lớn

Không các con chắc ba đă đầu hàng

(Theo vết xe lăn)

 

Hẳn nhiên đó chỉ là cách ta thán trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Bởi v́ sau đó, ông vẫn sống, đứng lên. Đứng lên và sống hết ḷng với đời, với thơ, với những khốn luỵ nơi xứ người.

 

Thêm một ngày, ngày nữa

Lang thang như đi chơi

Cúi đầu chợt nh́n thấy

Bóng ta trên đất người

(Mỏi chân ngồi bên đường Saint Denis)

 

Ông đi đâu đến mỏi chân phải ngồi bên vệ đường xứ người? Hoá ra, trong bài sau, ông cho biết “đi làm cu li” một cách rất yêu đời, v́ “ngẫm ra ta cũng ngon/chưa hoàn toàn vô dụng”.

Mấy câu sau mới đọc nghe dung dị, như nói chơi với bạn. Nhưng càng đọc càng thấm, càng đau, càng cảm thông cảnh ngộ với những ai đă bỏ nước ra đi:

 

Xin được chân cu li

Tại hăng Aronoff

Ngày ngày ta ra đi

Như cán bộ đi họp

Sáng đi như đuổi ma

Chiều về như ma đuổi

(Đi làm cu li ở đường Iberville)

 

Viết tới đây tôi chợt nhớ lại thiên tiểu thuyết Giờ thứ hai lăm của nhà văn Roumanie, C. Virgil Georghiu viết từ năm 1949, mô tả lại cảnh sống tù ngục, đoạ đày của người dân Roumanie, phải bỏ tổ quốc ra xứ người. Nhưng cái thiên đường tự do kia cũng không khá hơn như ḷng mong đợi của họ. Hệ quả là những thất vọng, buồn chán… về thân phận của kẻ lưu vong.

Dẫn ra chi tiết này để chúng ta có thể nhận ra rằng, trong cuộc sống nơi xứ người, Luân Hoán và những người như Luân Hoán, vốn dĩ có tâm hồn nhạy cảm, có lẽ cũng cảm thấy thừa thăi, đau đớn bởi sự cách ly về mặt văn hoá, tập quán; những khó khăn nhất định để hoà nhập như một tiền đề khiến tất cả đều cảm thấy cô đơn, lạc lơng:

 

Hát lên đi hỡi thằng ta

Bài lưu vong đă xót xa chín muồi

…Ngoài trời tuyết tả tơi bay

Trong ta trống rỗng mà quay quắt buồn

…Bia tan dần bọt trong ly

Uống như uống bóng nắng chiều quê hương

Rùng ḿnh mặt chạm mù sương

Bặm môi khói thuốc như vương màu buồn

(Ngồi lê)

 

Cũng có lúc ông tự dằn vặt lương tâm bất định:

 

Bỗng tưởng chừng như máu tim ta

Đỏ hơn thời tù tội quê nhà

Phải chăng chớm nở mầm vong bản

Nhục nước phai v́ bă vinh hoa

(Nghêu ngao giữa ḷng Montréal)

 

Tới đây lại có thêm sự liên tưởng khác: Không biết đọc đâu đó một bài thơ của Xuyên Sơn, cũng có tâm trạng như Luân Hoán, xin dẫn ra để thấy hết nỗi nhục nhằn, thân phận của những người phải bất đắc dĩ bỏ nước ra đi:

 

Anh có ở lại đây một trăm năm,

Ăn gà tây, uống coca, cũng không thành Mỹ trắng.

Anh có ở lại đây một ngàn năm,

Cắt cỏ dang nắng, cũng không thành Mỹ đen.

Tiếng Anh tiếng U nay chắc anh nói cũng đă quen,

Nhưng đến bao giờ mới phai mùi nước mắm.

Anh có muốn ở lại suốt đời ?

Để mỗi lần đi cày về anh tắm,

Chỉ tắm dưới ṿi sen ?

Những người đồng hương anh vừa quen hôm qua,

Ngày mai có thể trở thành kẻ lạ.

Những người thường làm mặt lạ,

Lại có thể bá cổ hôn anh,

Nếu anh lên nhanh, nếu anh trúng số.

Ôi cái xứ sở xô bồ,

Lắm người qua hơn hai mươi năm

Vẫn c̣n bị hố.

Hàng xóm, láng giềng, nhà nhà lố nhố,

Nhưng chẳng ai thèm biết tên ai.

Xe của ai nấy đi,

Nhà của ai nấy đóng kín mít..

Tết tây tết ta, lễ tạ ơn tạ nghĩa,

Chẳng hề qua lại hỏi thăm nhau.

Thỉnh thoảng gặp nhau trên đường đi,

Cũng đặt bày làm người lịch sự,

Mấp máy nói hai nói ba, chào nhau,

Như chào cái cột cờ di động.

Đường phố, phi trường, núi rừng , ruộng đồng quá rộng,

Mà ḷng con người đa phần tôi gặp,

Lại nhỏ bé đến li ti,

Nhỏ bé đến dị kỳ,

Nhỏ bé c̣n hơn những ǵ nhỏ nhất !

sao ?sao ?  

 

Tâm trạng ră rời chán ngát. Cơi ḷng nát tan v́ bị xổ đẩy tới nơi chốn tận cùng không ai muốn đến. Đó là những ǵ Luân Hoán phơi bày, một phần rất nhỏ trong những bài thơ ông sáng tác nơi xứ người.

Đọc ông để chia sẻ chút ngậm ngùi cùng ông, quay quắt cùng ông, đau đớn với ông.

 

Nguyễn Lệ Uyên

(tháng 6/2011)