NGHĨ
SAO VIẾT VẬY:
"Tán
gẫu về Luân Hoán"
Việt Hải
Tôi biết
nhà thơ Luân Hoán nhiều qua thi ca mượt mà của anh.
Anh làm chủ website Vuông Chiếu. Tôi lẩm bẩm thầm
nghĩ chiếu thì phải vuông, chiếu làm sao mà tròn trịa
được nhỉ ? Nhà văn Hồ Ðình Nghiêm trong bài
viết văn xuôi "Sang Sông" trên trang mạng Luân Hoán
cũng đã nói chắt nịch về chiếc chiếu
vuông:
"Chiếc
chiếu vuông ấp ủ mùi hương nồng và nó
ấm khi ghé đít ngồi xuống. Một người
con gái lom khom xuất hiện án ngữ tầm nhìn. Cánh
cửa khép lại như cũ,...", hay
"Người
con gái bày gối mền ra trên vuông chiếu. Nhẹ nhàng,
chậm rãi. Không háo hức, chẳng bối rối. Không
than thở, chẳng vui mừng..."
Tham
khảo:
http:// www.luanhoan.net/vanxuoi/0vanxuoi.htm
Tôi hỏi nhà văn Doãn Quốc Sỹ,
tác giả của truyện ngắn "Chiếc chiếu
hoa cạp điều", về hình thể của
chiếu hoa cạp điều, nhà văn bảo rằng
chiếu thường được dệt hình vuông.
Thế là ông nhà thơ Luân Hoán chọn tên trang nhà mỗi khi
email sang tôi cái tên rất "chiến", rất kêu
"VC", tức VeeCee, hay chữ viết tắt của
Vuông Chiếu
Nhà văn
Hoàng Ngọc Lễ trong bài viết "Bà Bắc" có
đề cập đến cái danh từ mà ông Luân Hoán
vốn thích thú như sau:
"Thế mà từ
ngày làm ăn khấm khá, con cái đỗ đạt, bà coi thế
giới này chỉ còn là một cái vuông chiếu nhỏ
hẹp dưới con mắt bà. Thậm chí ngay như
chồng bà cũng ..."
Ông nhà văn Cẩm An Sơn đã ở
Huế, ông giải thích "vuông chiếu” theo nghĩa bóng
là một chỗ riêng biệt hay một không gian riêng
biệt cho ai đó. Còn về nghĩa đen thì có nghĩa
là chiếc vuông chiếu nhỏ mà ngày xưa các vị
nghệ sĩ mang theo vào những cuộc lễ hội nghe
ngâm thi ca, hoặc ca trù, nhạc dân gian.
Cẩm An Sơn có quê quán ở Quảng
"Nếu giở lại trang
sử xưa, nghề dệt chiếu ở vùng Quảng
Ở
Quảng
Khi
nói vùng Nga Sơn, Thanh Hóa thú thật tôi nghĩ là không
thể không liên tưởng đến ngài Mai An Tiêm với
sự tích quả dưa hấu cũng như ông nhạc
sĩ lão thành với bài hát bất hủ "Tôi xa Hà
Nội", hay "Nỗi Lòng Người Đi".
Bởi vì Nga Sơn là quê quán của 2 vị này. Ngoài ra, Nga
Sơn rất nổi danh về ngành đan chiếu,
loại chiếu cói, tức danh từ "lác" của
người miền
Chiếu
cói Nga Sơn đã đi vào ca dao văn học của
người Việt
Chiếu
Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải
tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông
Nga
Sơn là vùng đất nằm sát biển, cách thành phố
Thanh Hoá 40 km về hướng Ðông Bắc. Với 8 xã
nằm dọc bờ biển là một vùng triều mầu
mỡ, ngoài trồng sú vẹt, mảnh đất này
chỉ trồng được một loại cây duy
nhất là cói, dùng để dệt nên chiếu Nga Sơn.
Theo
lời tương truyền của người xưa
kể lại thì chiếu cói Nga Sơn cùng chiếu cói
của Kim Sơn, thuộc tỉnh lân cận Ninh Bình, là
một trong những vật lễ cống tiến
triều đình, được các bậc vua chúa, quý
tộc rất ưa thích. Cói Nga Sơn vốn nổi
tiếng là sợi nhỏ, dai, óng mượt. Ðiểm
đặc biệt ít có nơi nào có thể trồng
được loại cói dài như ở vùng này, loại
cói chuyên dùng để dệt nên những tấm chiếu
vừa đẹp lại vừa bền.
Đó
là chuyện chiếu Nga Sơn của Anh Bằng, còn kể
tiếp chuyện chiếu Quảng Nam của Cẩm An
Sơn thì vùng Cẩm Nê không có chỗ nào trồng cây đay
và cói mà lại có nghề dệt chiếu nổi tiếng
và phát đạt về đời sống kinh tế cho
người dân địa phương. Muốn có nguyên
vật liệu để dệt chiếu như đay, cói
phải đi đến các vùng xa trong tỉnh mua về
sử dụng. Cẩm Nê dệt nhiều loại chiếu,
khổ rộng, khổ hẹp, dệt chiếu trơn và
dệt chiếu hoa. Chiếu trơn là loại chiếu
để nguyên sợi màu trắng không nhuộm màu.
Chiếu hoa như loậi hoa cạp điều mà nhà
văn Doãn Quốc Sỹ đề cập trong văn
của ông.
Loại
chiếu hoa ở Cẩm Nê không phải dệt chiếu
trắng xong mới dùng khuôn in hoa lên trên nền như
một số vùng khác làm mà phải chọn sợi cói
về nhuộm phẩm, màu sắc tùy theo màu yêu cầu người
chủ. Dệt chiếu hoa nhiều công phu. Ngoài công phu
chọn và nhuộm sợi lác còn phải công phu khi dùng
sợi đay mắc canh cửi. Vào nghề mới
biết những khó khăn về nghề nghiệp và
nghệ thuật.
Thưa
quý bạn, đó là điểm tán gẫu về tên Vuông
Chiếu, bấm chuột Micky vào tận sào huyệt, Luân
Hoán mở ra một chân trời Amazon chằng chịt. Các
mục như: thư ngỏ, nối
trang,
tin văn, tác giả Việt
Tôi
ghé qua mục "tác giả Việt
-
Nhà văn Trần Thị Kim Lan
"Trả
lời ba câu hỏi chung, về sáng tác
(tạp
chí Văn Học số 123 tháng7 năm 1996)
Vì
sao viết ?
Tôi
nghĩ tất cả chúng ta đều sống, ghi nhận
sự việc cảnh đời và diễn đạt ý
tưởng, tâm tư bằng cách này hay cách khác. Như
một thôi thúc người ta viết, viết mãi.
Viết
để làm gì ?
Tôi
nói lên tâm tình của người sống xa xứ cùng quá
trình thích nghi trong hoàn cảnh xã hội mới. Tôi ca
ngợi tình người,. Tôi tin tôi viết thoải mái
tự nhiên và phần lớn do ngẫu hứng. Vì chưa
có ước vọng trở thành nhà văn chuyên nghiệp
nên tôi ít có công trình đóng góp trong lãnh vực này.
Viết
cho ai đọc ?
Thật
ra tôi chưa bao giờ đặt điều này thành
vấn đề. Mỗi độc giả đối
với tôi là một ân nhân của người viết. Xin
cảm ơn tất cả những ai muốn đọc
những sáng tác của tôi."
- Nhà văn Võ Kỳ Điền
trả
lời nhà văn Hồ Đình Nghiêm
về
thi ca / văn chương miệt vườn
(tạp
chí Nắng Mới - Montréal
...đối
với những điều tôi đã học thì thơ lúc
nào cũng khó hơn văn và trong các thứ nghệ
thuật thì thi ca cao qúi nhứt. Trong giới văn nhân
người ta phân biệt hai loại cầm bút : văn
nhân và ký giả. Ngòi bút ký giả chỉ chuyên viết
những bài có tính cách thời sự đăng báo, không
được kể đến tính nghệ thuật. Trong
giới văn nhân lại chia ra làm bốn cấp.
đứng đầu là thi sĩ (poète) rồi văn
sĩ (écrivain) tiểu thuyết gia (romancier), kịch tác gia
(dramaturge). Phải phân biệt rõ như vậy mới
hiểu rõ được câu nói của Hồ Trường
An:
‘Có
những người được gọi là nhà văn mà
suốt đời không viết nổi một câu văn’.
Tây
phương đã quan niệm và sắp hạng như
vậy đó. Còn Tàu thì khỏi nói, thơ là nhứt
Người đi học phải làm thơ từ khi còn
nhỏ và cho tới già, tới chết cũng còn làm
thơ. Văn của họ cũng viết theo thể
tứ lục, biền ngẫu...cũng y như thơ. Còn
loại văn giống như mình bây giờ thì bị coi là
tiểu thuyết, Chữ tiểu thuyết có nghĩa là
những chuyện vụn vặt không đáng kể. Trong
văn chương thi cử ngày xưa, kẻ sĩ
phải học tứ thư, ngũ kinh, bát sử Tàu và
tập làm thơ phú, kinh sách. Tiểu thuyết không kể
đến, nó là ngoại thư.
-
Nhà văn Lê
trả
lời nhà báo
(đài
phát thanh
đăng
trên Văn Học 147, tháng 7-1998
Văn
chương có tính giải trí và chúng ta không nên phủ
nhận điều này như nhiều nhà lý luận văn
học mác-xít trong nước từ trước
đến nay. Thế nhưng, đối với riêng tôi,
nếu viết chỉ để giải trí - cho mình hay cho
người đọc - thì đó là một thảm
họa. Văn học không bao giờ có thể trở thành
một kỹ nghệ giải trí được. Tôi
chưa bao giờ hình dung một nhà xuất bản lớn
như nhà xuất bản Văn Nghệ ở Mỹ
hiện nay, hay nhà xuất bản Văn Học trong
nước lại có thể thay thế vai trò của
một Thúy Nga Paris chẳng hạn. Ngoài ra, theo tôi, sáng tác
cần được bảo đảm như một hành
vi tự thân và tự do, vì khi đó người viết
mới thật sự là mình. Nếu không thật sự là
mình, không cá biệt hóa được phong cách sáng tạo
của mình thì người viết khó mang lại cho văn
chương một cái gì đáng nhớ. Và như thế
nên tìm một nghề khác, để chí ít khỏi làm
mất thì giờ của những người thiết tha
với văn chương.
-
Nhà văn Phạm Quốc Bảo
trả
lời tạp chí Văn Học
ba
câu hỏi chung về Sáng Tác
(Văn
Học số 120 tháng 4 năm 1996)
Tôi
viết được nhờ sức thúc đẩy phát
xuất tự trong tôi.
Tôi
viết về những gì khiến tôi chú ý thắc mắc,
những gì quấn quít trong đầu tôi, những gì làm
rung động trái tim của tôi.
Tùy
theo thể tài tôi muốn viết, tôi chọn thể
loại văn chương để diễn đạt
cho thích hợp trong ý định của mình.
Đọc
gỉa là một phần không thể thiếu
được trong chu trình sáng tác của tôi. Và tôi là
người đọc đầu tiên, tôi có chịu
những gì tôi viết ra không đã.
- Nhà văn Đinh Phụng Tiến
Chân Dung Tự Họa
(tạp
chí Hợp Lưu số 37 tháng 11 năm 1997)
Kinh nghiệm sống là chất
liệu vô cùng qúi báu của người viết. Và
người viết không thể tách rời nơi anh ta
đang sinh sống để nói chuyện, bày tỏ
những suy nghĩ của mình với người cùng
thời. Làm được điều ấy, ít ra là, anh ta
không thể không có những kinh nghiệm sâu đậm
về nơi chốn mà anh ta đã sinh ra và lớn lên.
Người viết và người
đọc bao giờ cũng là đôi bạn song hành,
nhưng người viết phải đi trước, ít
nữa là nửa bước chân. Cho nên, mỗi nhà văn
đều có một số độc giả riêng của
mình. Họ thường cùng đi chung với nhau trên
từng chặng đường. Cho đến lúc, một
trong hai người đồng hành ấy, có một
người bước nhanh hơn., hẳn có người
bị bỏ rơi lại phía sau. điều ấy
giải thích rất rõ là một khi anh nhà văn không còn
đủ khả năng đáp ứng được
những yêu cầu của người đọc, anh ta
bị quần chúng mình bỏ rơi. Ngược lại,
người đọc không theo kịp người bạn
đồng hành của mình cũng sẽ rơi vào hoàn
cảnh tương tự. Chừng đó , sự ly dị
ắt xảy ra và mỗi người đi tìm kiếm cho
mình...người bạn đồng hành mới. đây là
một cố gắng của cả hai phía: người
viết và người đọc.
Những người viết và
người đọc Việt Nam ở hải ngoại
đang ở trong một hoàn cảnh hết sức lạ
lùng. ở thế hệ thứ nhất, họ có cùng
với nhau một quá khứ. Họ dễ dàng chia xẻ
với nhau những kinh nghiệm ấy. Qua thế hệ
thứ hai hay thứ ba, điều gì sẽ xảy ra ?
Chừng ấy, thực tế sẽ đòi hỏi
phải có những người viết mới. Những
người viết mới vào thời điểm bấy
giờ sẽ lại khác chúng ta ngày hôm nay. Ngôn ngữ
sẽ thay đổi. Sự phát triển của dòng văn
chương mà chúng ta vẫn gọi là dòng văn chuơng
hải ngoại sẽ phát triển với nhiều nét
hết sức bất ngờ.
Những nhà văn trong nước bao
giờ cũng giữ một vai trò chính yếu. Vì họ
ở với quê hương.
- Nhà văn Hoàng
Khởi Phong
trả lời nhà thơ Nguyễn
Mạnh Trinh
(tạp chí Văn Học số 123
tháng 7-1996)
...Văn chương, cái này đúng là
một cái nghiệp đã đe doạ nhiều
người, nhiều gia đình. Nó không thua gì hiểm họa chiến tranh. Chả
thế mà các tạp chí văn chương cứ hiện ra
rồi lại biến đi, còn các nhà văn thì ẩn
hiện vô lường. Nghĩ cho cùng thì tôi thấy tội
nghiệp cho...tôi và tội nghiệp cho cả...văn
chương...
Trước tiên tôi
là nhà văn, vậy bài viết bắt buộc phải có
văn chương. Theo tôi một nhà văn, không nhất
thiết phải có hành vi chính trị, nhưng trong thời
điểm chúng ta, nhà văn nên có ý thức về chính
trị. đây cũng chính là điểm mà anh Nguyễn
Mộng Giác đôi lần tỏ ý băn khoăn về tôi,
bởi vì đối với phần lớn các nhà văn, chữ
"chính trị" bao hàm những ý nghĩ không mấy
tốt đẹp. Nói tới chính trị là người ta
nghĩ tới "thủ đoạn" . Nhưng
nếu chúng ta có "thủ đoạn" để cho
người xấu không thể hành hạ người
tốt, để cho xã hội tốt đẹp hơn,
trên ra trên, dưới ra dưới, nhà văn viết những
tác phẩm hay hơn, nhà giáo dạy học tốt hơn,
nhà binh không lo đến việc phe cánh, bọn tham nhũng
không ló mòi ra được, bọn gian thương hết
cục cựa, quan toà ra dáng ông toà, bác sĩ không ham mở
phòng mạch...thì nên có những "thủ
đoạn"như vậy. Sao lại cản ? Sao
lại sợ ?
Tôi không nghĩ những bài viết mà
anh đề cập đến là những bài nghị
luận chính trị. Nghị luận, tham luận, khảo
sát chính trị nên để cho những người làm
chính trị viết, không phải nghề của nhà văn.
Nhưng cũng không thể cấm một nhà văn, dùng
văn chương là ngôn ngữ chính để diễn
tả một vài sự kiện liên quan đến chính
trị. Tôi không thấy cần xếp loại những bài
viết này, mà điều quan trọng là tôi đã chạm
được đúng đến vấn đề trong các
bài viết của tôi chưa ?
Thói quen cầm bút của tôi,
trước tiên là suy nghĩ thật kỹ về
đề tài tôi định viết. Chọn những hình ảnh bắt
mắt liên hệ tới đề tài, rồi dùng những
hình ảnh này để dẫn những suy nghĩ,
những ý tưởng trong đầu. Có khi suy nghĩ
cả tuần mà khi ngồi xuống viết chỉ
viết trong một buổi tối mà thôi. Suy nghĩ thì
đâu có cần đòi hỏi tới nơi chốn, khung
cảnh. Suy nghĩ ở trong đầu, nếu còn cần
ngoại cảnh thì có khi ngoại cảnh chi phối cả
những suy nghĩ của mình chăng ? Tôi làm việc
thợ tiện, ca đêm, để không buồn ngủ,
mỗi khi bấm cái nút cho máy chạy, tôi ngồi xuống
và nghĩ ngợi xa gần, riết rồi tiếng máy
không còn ứng được vào trí tôi. Cuốn "Ngày N
+..."được tôi viết trong xưởng tiện,
cuốn "Thư Không Người Nhận"
được viết trong lúc bán hàng chợ trời, không
có khách. Phần đầu của "Người Trăm
Năm Cũ" được suy nghĩ và viết trong
những lúc lang thang trên đường, suốt hai năm
trời không có địa chỉ nhất định.
Trước kia tôi viết bằng bút, tôi có thể viết
tại bất cứ chỗ nào, bàn ăn, ghế đá công
viên, trên tay lái xe, nằm dài trong sa lông phòng khách, thậm chí
còn ghi chú trong phòng vệ sinh. Bây giờ viết bằng máy
vi tính, nên phải ngồi vào bàn cẩn thận hơn,
thế thôi. Tôi không kiểu cách phải có phòng yên tĩnh, vì
nói nào ngay trong khoảng 15 năm nay, tôi không bao giờ có
một căn phòng cho riêng mình.
Tôi đọc nhiều quan
điểm của ngòi bút trong mục "tác giả
Việt Nam", Luân Hoán thu gom mục này cũng vui vui, dù
mục chưa được thêm vào cho những đóng góp
mới.
Kế tiếp, khi nói về Luân Hoán mà
không đề cập đế thi ca của anh sẽ là
một thiếu sót lớn.. Khi bàn về thơ Luân Hoán, thi
sĩ Thái Tú Hạp trong bai viết "Những Tác Phẩm
Của Luân Hoán Trước 1975" cho nhận định
như sau:
"Luân Hoán học làm thơ từ
năm mười một tuổi. Anh đã cho đọc
giả biết điều này, qua câu hỏi của nhà
văn Hồ Trường An (dưới bút hiệu Ðào Huy
Ðán). Người dạy anh làm thơ đầu tiên là thân
phụ anh: Ông Lê Hoán, một điền chủ, một viên
chức ngành ngân khố, với 4 bà vợ và một
đời đào hoa. Người vợ thứ 3 của
ông, bà Nguyễn thị Luân, chánh quán La Qua, Ðiện Bàn
Quảng Nam, là thân mẫu của Luân Hoán. Nhà thơ đã
ghép tên cha mẹ để làm bút hiệu. Và cái bút hiệu
này đã đánh ngã những bút hiệu khác anh đã dùng,
để sống còn cùng ngòi bút của anh đến hôm
nay. Luân Hoán có thơ đăng trên hầu hết các báo có
tầm vóc của miền Nam trước 1975. Chính các
tạp chí này đã có công giới thiệu, thúc đẩy
anh sớm thành danh....".
Thái
Tú Hạp viết tiếp:
"Thơ Luân Hoán ở tập này
nhẹ nhàng và cái buồn u uất, bất mãn của
thời cuộc đã vơi đi rất nhiều. Không khí
tin yêu cuộc đời sống bàng bạc trong thơ.
Phải chăng sau khi đã trả xong phần nào cái
nợ làm trai, tâm hồn nhà thơ lắng dịu hơn.
Hãy nghe anh:
" đố ai biết tôi bây
giờ mấy tuổi
đang nghĩ gì và đang ao
ước ra sao
đời thân mật rũ rê tôi
trở lại
sống bình thường như
điệu ca dao "
(Khai Bút Ðầu Xuân )
Ðạt được như thế
, bởi Luân Hoán đã biết quan niệm " hạnh phúc
nào cần tìm ở đâu xa" khi chung quanh "chim hót
quanh vườn cây nẩy lộc", "vịt
đầy ao gà đầy vườn chuối chín" và
"chó băng rào nhảy cởn gọi nhau vang"...Nhà
thơ tưởng tượng :
"sẽ đứng cười
trong sân đất sét khô
hút với người láng giềng
điếu thuốc rê Cẩm Lệ
bàn chuyện làm ăn
hân hoan như trái tim đều
nhịp "..."
Nhà văn Võ Kỳ Ðiền bên xứ
lạnh buốt Canada viết trong bài "Người
Thơ Ngơ Ngác Cõi Người" về Luân Hoán:
"Năm 1989 ở hải ngoại
có thể được coi là năm phát triển sung mãn
của thi ca. Bạn đọc đã thấy những
tập thơ muôn màu muôn vẽ xuất hiện ở Úc,
ở Âu Châu và nhứt là ở Canada.
Chọn lọc những thi phẩm có
tầm vóc đặc biệt của nền văn
chương Việt Nam, tôi xin được giới
thiệu một tập thơ đặc sắc. Ðó là
tập Ngơ Ngác Cõi Người của thi sĩ Luân Hoán
đã được nhà xuất bản Nhân Văn ở Hoa
Kỳ phát hành.
Ðây là một tập thơ bộc
lộ được hết cái nét tài hoa của tác
gỉa. Một tác gỉa khá đặc biệt trong làng
thơ. Ðặc biệt vì Luân Hoán coi thơ như lẽ
sống đời mình. Thơ đến với thi sĩ
như những thói quen hằng ngày. Với một
người thường, một ngày được chia ra
làm bốn: đi làm, đi ăn, đi chơi, và đi
ngủ. Ðối với Luân Hoán thì như vậy chưa
đủ, phải kể thêm một điểm nữa là
làm thơ. Nhưng cái điểm làm thơ bao trùm hết
bốn cái kia. Ði làm cũng làm thơ, ăn cũng làm
thơ, chơi cũng làm thơ, dĩ nhiên đi ngủ
nằm chiêm bao cũng làm thơ. Nói hơi quá đáng
một chút, con người Luân Hoán từ đầu
tới chưn , tất cả đều bàng bạt
chất thơ.
ta xin làm nụ hoa
để cho đời trang
điểm
ta xin làm tiếng ca
để cho người lưu
luyến
(Mùa
Xuân Montréal)
Con người thơ đó lại
cam chịu một nỗi bất hạnh (mà cũng là cái
may mắn cho chúng ta những người mê thơ) là
gặp nhiều cảnh bất ưng của đời
sống vây quanh. Quê hương tan nát ngục tù, dân tộc
đồng bào sống lầm than khốn khổ, bạn
thân đứa còn đứa mất, tác gỉa
lận đận
nơi góc biển chân trời, sống kéo lê cuộc
đời nơi xứ lạ quê người. Chính cái tâm
trạng thê lương khốn khổ đã bật lên
thành những dòng thơ mới nghe qua thấy giọng
điệu cười cợt, dững dưng, nhưng bên
trong chứa đầy nghẹn ngào uất ức.
Ðó là những cảnh huống ở
Cõi Người. Ðó là những Nỗi Niềm Ngơ Ngác
quạnh hiu. Lần dỡ từng trang, chúng ta thấy nhà
thơ có cuộc sống vật chất tương
đối đầy đủ ở xứ người,
nhưng trái tim vẫn còn đập nhịp yêu
thương hờn giận cũ. Dòng máu đỏ vẫn
âm thầm len qua những địa danh quen thuộc, qua
những khuôn mặt bạn bè thân yêu. Nỗi nhớ nhà,
nhớ nước, nhớ người quay quắt khôn
nguôi:
" người ơi người
ơi người ơi
ta còn hay mất bên trời lưu vong
"
(Cúi Mặt Chào Ðà Nẵng)
hay:
" nhớ gì đâu, nhớ nhớ
thương gì, mà thương
thương
trái tim ta đã rớt
ở bên trời quê hương "
(Gọi
Tên Bạn Bè)"
Thơ Luân Hoán chất chứa hồn
âm nhạc, nhạc sĩ Phan Ni Tấn trong bài "Nhạc
Ðiệu Trong Thơ Luân Hoán" như sau:
"Một buổi sáng trên
đường tới sở, khi ngang qua một hồ
nước, tôi thích thú bắt gặp đôi thiên nga đang
lượn lờ trên mặt hồ. Nhìn vẽ nhởn
nhơ, thong thả, nhẹ nhàng của loài thú tôi lại
thương thân mình, biết là vội vàng hấp tấp
song khó mà cưởng lại được dòng cuồn
lũ của đời sống cuốn đi.
Từ đó, mỗi lần lái xe ngang
hồ nước, tôi đều dõi mắt tìm kiếm
đôi uyên ương xinh xắn nhàn nhã kia. Có hôm trở
trời, mặt hồ khói sương dật dờ ảm
đạm, dưới đáy sủi lên một lớp bùn
non vàng ệch.Những hôm đó chim trời vắng bóng,
lòng buồn vu vơ tôi thường ê a bài thơ Mắt
Chiều của anh Luân Hoán gời cho tôi cách đây 5 năm,
cùng với một loạt thơ khác của anh:
anh theo chim vịt kêu chiều
lên vùng thương nhớ đổ
xiêu tiếng buồn
vàng trời tình thiết tha buông
màn sương lệ kết thành
nguồn chở em
luyến lưu mùa động tay
mềm
mây qua cửa sổ lênh đênh vào lòng
thôi rồi anh trót chờ mong
mắt
chiều em đỏ lên hong nụ cười
Tôi rất thích cái nhạc điệu
trong thơ Luân Hoán . Không riêng gì vần lục bát mà các
thể loại khác anh cũng chứng tỏ cái khả
năng tượng hình phong phú không những về vật
thể mà còn về âm thanh. Sự giàu âm trong ngôn ngữ
thơ và dấu giọng đã là yếu tố chứa
đựng âm nhạc rồi."
Nhà thơ Song Thao cho bài viết bàn
bạc về thơ Luân Hoán về 2 khía cạnh tình yêu và
quê hương cho ta một vị ngọt ngào nào đó:
"Thơ Luân Hoán không thể là
thơ không hay được. Nó như một hòn đá:
nhìn bên ngoài tưởng như thô sơ, mộc mạc
nhưng thật ra bên trong có chứa ngọc. Chất ngọc
tinh tuyền vì nó được chắt lọc từ
cuộc sống muôn vẽ muôn sắc. Hình như bất
cứ trong hoàn cảnh nào cuộc sống Luân Hoán cũng có
thơ được.Lúc vui lúc buồn, khi đắng cay,
khi phẩn nộ, lúc tủi nhục, lúc hiên ngang, khi
dịu dàng, khi hờn dỗi...mà thơ nào cũng mang cái giọng
chất phác, duyên dáng nhưng tiềm ẩn bên trong là cái
tinh quái, sắc sảo. Ðọc xong một bài thơ là
mường tượng ngay ra được nụ
cười của nhà thơ nằm đâu đó . Nụ
cười có lúc ngọt, lúc bùi, lúc chua, lúc nồng nhưng
cũng có lúc đắng lúc cay.
Vị ngọt ngào của tình yêu có
lẽ là cái vị thấm sâu vào nhà thơ nhất. Cái
"tên dật dờ" đã sớm bước vào
đường tình tự những ngày xa lắc xa lơ
khi chưa qua khỏi tuổi thơ dại:
" nhớ năm hết tuổi
mười ba
cái lòng đã muốn lân la cái tình"
(Ta phỏng vấn ta - NNCN)
Anh hoa phát tiết sớm sủa
như vậy nên thơ tình của Luân Hoán có những câu
dễ thương lạ:
" mỗi lần sắp sửa yêu
ai
tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ
lùng
tưởng như có triệu vi trùng
ngo ngoe đòi được nhớ
nhung với mình "
(Triệu
Chứng - ÐNVÐÐ)"
(Quê
Hương, Tình Yêu Trong Thơ Luân Hoán)
Nhà văn Bích Phượng bên Paris
nhật xét về Luân Hoán trong bài viết "Tản mạn
về tình thơ Luân Hoán":
"Thơ của nhà thơ Luân Hoán
đến với tôi thật tình cờ… và muộn màng… vì
khi tôi vô tình lạc buớc vào «Trên vuông chiếu của Luân
Hoán»… Thiệt là một khám phá bất ngờ đầy thú
vị ! Đọc xong những dòng thơ ông viết, tôi có
một cảm giác thân quen cho dù tôi chưa từng
được một lần biết đến nhà thơ
này. Có thể vì tôi thuộc thế hệ sau ông nhiều
lắm.
“mười sáu tuổi em tập làm
thiếu nữ
vai tóc thề áo lụa trắng bay bay
quai nón đỏ
ngậm hờ vành môi ướt
vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay
em đến lớp nắng theo
đùa trên áo
cặp che ngang ngực thơm ngát
ngọc lan
tay giở vở tưởng
chừng như đệm nhạc
hồn
thanh xuân em lót xuống từng trang”
Thi phong của thơ Luân Hoán nhẹ
nhàng, trau chuốt như những dòng trên trong bài
"Điều Bí Ẩn Bình Thường". Luân Hoán
đã từng dạy học, nhưng ông có tâm hồn thi
phú, có ai buộc tâm tư nhà thơ thôi đừng lãng
mạn trong lời thơ đâu nhỉ:
”tôi đứng lặng vài giây trên
bục giảng
giáo án thuộc lòng bỗng chốc
lãng quên
nét phấn lạc giòng, chữ run
mặt bảng
trở lại bàn hồn nghe đã
lênh đênh
thôi tôi hiểu ra rồi, em bé bỏng
chẳng có gì mới lạ phải
không em
trái tim đựng bao nhiêu điều
bí mật
cũng chỉ là tôi đã chớm yêu
em.”
(Điều Bí Ẩn Bình
Thường- Luân Hoán)
Thơ ông thuộc hệ phái thi ca lãng
mạn diễm tình. Thơ ông có chiều sâu nhưng không
kiêu kỳ. Nét độc đáo trong thơ ông là sự bình
dị để diễn đạt trọn dòng tư
tưởng của mình..."
Bích Phượng, tức thi sĩ
Vũ Tiểu Vi, so sánh mức độ tình thơ của
Luân Hoán như bài viết ghi nhận:
"Với tôi Luân Hoán ở mức
trung dung giữa chất thiền hiền hòa của Thái Tú
Hạp và nét táo bạo của thơ Việt Hải. Nên
thơ viết về tình yêu của Luân Hoán cho tôi có cảm
giác như ông là một người khao khát tình yêu trong ý
thơ bóng bẩy và có nhiều mộng tưởng. Dòng
thơ ông nhất là những dòng lục bát ngọt ngào,
đậm đà và trữ tình như những câu ca dao.
Thơ ông khiến người đọc say ngây ngất
mùi hương giấy trắng trinh nguyên học trò.
Đọc thơ ông tôi hoài niệm
về một thiên đường ký ức, về cái
thuở mộng mơ thơ ngây với những chuyện
tình vu vơ, với những dòng lưu bút thơm màu
mực tím mồng tơi, với những bài thơ chép tay
vội vàng, những tà áo trắng duyên dáng, những hàng
phượng đỏ, những cái bâng khuâng trìu mến,
những hờn dỗi, những nôn nao hẹn hò
đợi chờ, những hân hoan nồng thắm. Nhà
thơ Mạc Phương Đình đã nhận xét về
thơ Luân Hoán như sau:
”Trong thơ anh, ngòi bút tài hoa bay
bổng, uốn lượn theo cảm xúc, chắp cánh cho
từ ngữ đi vào từng ước muốn của
bày tỏ, gởi nó đi theo dòng tình, nhịp nhàng như
những nốt nhạc chính xác trên cung bậc. Cũng với nhũng con chữ tầm
thường trong hàng ngày giao tiếp, Luân Hoán đã chọn
lựa, đã sắp xếp chúng đúng vào những vị
trí, để biến chúng thành những dòng thơ tuyệt
diệu…”
"em từ bụi chuối
bước ra
ánh trăng làm nũng chao qua ống
quần
niềm vui giấu dưới bàn chân
vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm
ngùi"
(Trăng đêm nở hoa- Luân
Hoán)"
Như đã trình bày trong bài viết
qua các chủ đề lạm bàn về ý niệm của
Vuông Chiếu, xét qua những nhận định của các
nhà văn về văn chương đối với
họ như thế nào, và cuối cùng là những nhận
định về thi ca của Luân Hoán mà giới văn
học bình phẩm ra sao.
Điều cần nói ở đây là
Luân Hoán đã được vườn thơ Việt Nam
dang ta mở rộng đón chào anh, bao bạn bè quý mến
thơ của anh. Văn
học sử cận đại nhìn nhận những áng
thơ mượt mà, bóng bẩy của anh mà sách báo, các
trang liên mạng, giới văn chương vẫn trân
trọng như hiện tượng tích cực của làng
thi ca Việt trong cuối thế kỷ 20 và đầu thế
kỷ 21.
Việt Hải, Los Angeles