KÝ ỨC MẮT ĐEN - MEMORY OF BLACK EYES

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Nhà xuất bản Thế Giới /Thế Giới Publishers  

Hà Nội, 2009

 

Tập thơ gồm 21 bài do nhà thơ trẻ Nguyễn Phan Quế Mai và chuyên gia ngôn ngữ Mỹ Hilary Watts tuyển họn và dịch sang tiếng Anh. Lời tựa của nữ thi sĩ Mỹ Mary E. Croy. Lời bạt của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng.

Sách dày 100 trang có 9 phụ bản của Họa sĩ thư pháp Trịnh Tuấn. Ảnh chân dung tác gả do nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán. Nguyễn Trọng Tạo trình bày bìa. Nxb Thế Giới ấn hành cuối tháng 12/2009.

 

 


 

 

Nguyen Trong Tao's poetry brings a fresh spespective toVietnamese

culture

Poet Mary E.Croy



"Poetry not yet perfected is honest poetry," is a scintillating line from Nguyen Trong Tao. When I read that line it flattened me with the wisdom of a poet who understands not only the craft of words but the process of life. "Memory of Black Eyes" will astonish you with its flavors, sensuality and grace. 

Here is a poetry of life written by a man who has experienced war, love and triumph. The collection spans over twenty years and is astounding in its breadth and clarity. 

Mr. Tao's poetry speaks thoroughly to the modern experience, while paying homage to the long tradition of Vietnamese literature which precedes him. It is a wonderful introduction to the lyric traditions of Vietnam, helping the Western reader see Vietnam in a larger framework. Too often we see Vietnam as a war, not as a country. "Memory of Black Eyes," with its concrete and sensual images, will bring a fresh perspective of the vibrancy of Vietnamese culture.

Yet the collection is most remarkable for the universality of its themes. It is above all an exploration of the human condition, not just an ethnic showpiece. "Sometimes I am afraid to be king", Mr. Tao states in "Believe or Don't Believe it's All right". This is the problem for all of us-taking control of our lives and staking our claim to greatness is often more frightening than remaining in the shadows.

Like many lyric poets, the emotional landscape of the human being is intimately linked to the natural world. "The flowers still bloom in the right season", even in times of war and hunger in "Scattered Stories about the Time I live". There remains a world that winks in millennia and yet reveals itself in one "one little flower soaked as persistent rain falls" (Divide). The cycles of nature and the human heart are universal and ancient.

Mr. Tao reminds us of this continuity in the title poem "Memory of Black Eyes". Are the black eyes 18 years old or 180,000 years old? Does it matter? These eyes which beckon us long to communicate and become the basis of all words, music and poetry. They are both the observers of our lives and the observed, the lover and beloved that stretches just out of touch and can only be invoked on the sacred ground of poetry. 

This is sacred ground explored by many others around the world. The use of nature, yet grounding in the every day is very reminiscent of Mary Oliver. Like Oliver, Tao has a love of concrete images from nature that tie the poem to a specific emotional landscape, whether joyous, humorous or tragic. The voice is direct and honest, I was most reminded of Czeslaw Milocz. Like Milocz, Tao is able to take us to unexpected places with a music of powerful invitation. 

But perhaps most of all there is common ground with Pablo Neruda. The quality of a love song in so many of the poems takes on a haunting quality. For both Tao and Neruda this is a love song released from its artificial constraints by the power of nature. In both there is the sense that love takes on a life- in- itself, independent of the lover and the beloved. 

Let me take a moment to comment on the translation.  Ms. Mai has taken on the very difficult task of translating from the original Vietnamese into modern English.  In this task she has made a remarkable achievement-not only is the content preserved but also the music of the verse.  You will find Mr. Tao's poetry understandable and a pleasure to read.  Translation is an art not to be taken lightly and Ms. Mai has proved herself to have the highest mastery of this art. With the support of Ms. Watts, "Memory of Black Eyes"  is one complete bilingual anthology highly worthy of reading.

Tao's poetry is poetry that is not afraid to ask questions: questions for the reader, for the poet, for the universe. 

Hanoi, December 2009

 

Thơ Nguyễn Trọng Tạo mang một tầm nhìn tươi mới
về nền văn hóa Việt Nam

Nhà thơ Mary E. Croy

"Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng" - đó là một câu thơ lỗi lạc của Nguyễn Trọng Tạo. Câu thơ ấy đã trải tôi phẳng lì khi tôi đọc nó, bởi sự thông thái của một nhà thơ - người không những hiểu nghệ thuật của ngôn từ, mà còn hiểu về quá trình đời sống. Tập thơ song ngữ "Ký ức mắt đen" sẽ làm bạn sửng sốt về những mùi vị, sự hấp dẫn và sự thanh nhã của nó.

Đây là tập thơ về cuộc đời viết bởi một người đàn ông đã trải qua chiến tranh, tình yêu và chiến thắng. Tập thơ này bao trùm khoảng thời gian hai mươi năm, và làm tôi kinh ngạc bởi chiều rộng và sự mạch lạc của nó.

Thơ của Nguyễn Trọng Tạo nói về sự trải nghiệm hiện đại một cách thấu đáo, đồng thời tỏ lòng tôn kính về truyền thống lâu đời của văn học Việt Nam đã đi trước ông. Thơ của Nguyễn Trọng Tạo là sự giới thiệu tuyệt vời về những truyền thống trữ tình của Việt Nam, giúp người đọc phương Tây nhìn Việt Nam trong ngữ cảnh rộng hơn. Thường chúng ta nhìn Việt Nam như một cuộc chiến tranh, mà không phải như một đất nước. "Ký ức mắt đen", với những hình ảnh cụ thể và hấp dẫn, sẽ đem tới một tầm nhìn tươi mới về sự sống động của nền văn hóa Việt Nam.

Nhưng sự xuất sắc nhất của tập thơ này là sự phổ quát của đề tài. Trên hết, nó là sự khám phá thân phận của loài người, chứ không phải là một tác phẩm về một chủng tộc nào đó. "Mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua" - Nguyễn Trọng Tạo đã khẳng định trong bài "Tin thì tin không tin thì thôi". Đây là vấn đề của tất cả chúng ta - điều khiển cuộc sống và nỗ lực vươn tới sự cao thượng thường làm chúng ta sợ hãi hơn là việc sống trong những chiếc bóng.

Giống như những nhà thơ trữ tình, quang cảnh xúc cảm của loài người được gắn liền với thế giới tự nhiên. "Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa", vẫn nở cả trong thời chiến tranh và thời đói khát như trong bài thơ Tản mạn thời tôi sống. Có một thế giới mà vạn năm đi qua chỉ trong nháy mắt nhưng tự ngỏ lòng mình trong một "một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm" (Chia). Vòng quay của thiên nhiên và của trái tim con người đều phổ quát và cổ xưa thế đấy.

Nguyễn Trọng Tạo nhắc nhở chúng ta về sự tiếp nối của những vòng quay này trong bài thơ mà tựa đề của nó cũng là tựa đề của tập thơ: Ký ức mắt đen. Những đôi mắt đen 18 tuổi hay 18 vạn tuổi? Điều này có quan trọng không? Những đôi mắt này từ lâu rồi ra hiệu cho chúng ta giao tiếp cùng chúng và trở thành nền tảng của ngôn từ, âm nhạc và thơ ca. Chúng là những người quan sát cuộc sống của chúng ta và đồng thời bị quan sát, là người yêu và được yêu ở ngoài tầm với và chỉ có thể hiện về trên mảnh đất linh thiêng của thơ ca.

Mảnh đất linh thiêng của thơ ca đã được nhiều người trên khắp thế giới khai phá. Cách sử dụng các hình tượng thiên nhiên, để phản ánh các vấn đề cuộc sống của Nguyễn Trọng Tạo làm ta nhớ tới Mary Oliver. Giống như Oliver, Nguyễn Trọng Tạo thích sử dụng các hình ảnh rõ ràng của thiên nhiên để gắn bài thơ với một cảnh quan xúc cảm cụ thể, đó có thể là vui sướng, khôi hài hoặc bi kịch. Giọng thơ của Nguyễn Trọng Tạo thẳng thắn và trung thực, gợi tôi nhớ tới Czeslaw Milocz. Giống Milocz, Nguyễn Trọng Tạo có thể đưa chúng ta đến những nơi không ngờ tới bằng một âm điệu của lời mời đầy uy lực.

Nhưng có lẽ hơn tất cả, có sự tương đồng giữa thơ Nguyễn Trọng Tạo với thơ của Pablo Neruda. Rất nhiều bài thơ tràn đầy nhạc điệu tình yêu - điều này làm chúng rất ám ảnh. Đối với cả Nguyễn Trọng Tạo và Neruda, bài hát tình yêu được sức mạnh thiên nhiên giải thoát khỏi những đè nén nhân tạo. Trong thơ của cả hai người, ta có cảm giác rằng tình yêu có cuộc sống riêng của nó, không bị ràng buộc bởi người yêu và người được yêu.

Cho phép tôi dành chút thời gian để bình luận về bản dịch. Cô Nguyễn Phan Quế Mai đã đảm nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn: dịch các tác phẩm thơ từ nguyên bản tiếng Việt sang tiếng Anh hiện đại. Những nỗ lực của cô đã đạt được kết quả đặc biệt - không những chuyển tải được nội dung mà còn cả nhạc điệu trong thơ. Quý vị sẽ thấy thơ Nguyễn Trọng Tạo dễ hiểu và đem đến cho chúng ta cảm giác hạnh phúc khi đọc nó. Dịch là một nghệ thuật không thể coi nhẹ và cô Nguyễn Phan Quế Mai đã chứng tỏ mình có sự tinh thông cao nhất trong môn nghệ thuật này. Với sự giúp đỡ của cô Hilary Watts, "Ký ức mắt đen" là một tác phẩm thơ dịch hoàn chỉnh và rất đáng đọc.

Thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ không sợ hãi đặt ra những câu hỏi: những câu hỏi cho người đọc, cho nhà thơ, và cho cả vũ trụ.

Hà nội, tháng 12.2009
Nguyễn Phan Quế Mai dịch





 

AFTERWORD


The world without the moon, imagined only
A grave for the moon, where could it be?

The primary concern of this poem ("The world without moon") is with the meaning of nature in its relation to our human society. After addressing the issue, the poem moves and does not contain more information than is necessary. It leaves the impression of love. It is a love poem. A personal love.

As a young poet, Nguyen Trong Tao wrote his poems in rhyme and meter but he later changed his manner to write more free verse and new forms. His poetry clearly shows a craftsmanship in both romantic style and realistic writing. As one of the best poets of his generation, the generation of war, he rapidly emerged from the tradition and finally found his voice among the new, contemporary poetry.

His simple lyrical style can be deceptive. Although the poems in this book are not abstract, I found them very philosophical. The music of his poems, which I enjoy the most, a combination of multiple factors including traditional forms of poetry, the sound and the sense of  Vietnamese language, the ballad and sonnet and other "international" forms, reminds me of his background as a music composer. Dealing with many social and historical struggles, his sense is still lyrical in language and balanced in structure.

This book of selection successfully includes different types of his verse: long, excessive, free style and short, precise, highly structured poems; beautifully combines the seriousness and the playfulness.

I am also happy to learn that Nguyen Trong Tao's generosity, support and enthusiasm have made him an important figure among young poets in Vietnam.

The English version by Nguyen Phan Que Mai and Hilary Watts is really a good work. I strongly believe that readers will be excited by this new bilingual collection.


Tung Duc Nguyen
Vancouver, November 18, 2009



THAY LỜI BẠT


Thế giới không còn trăng, dù chỉ là tưởng tượng
Nấm mồ trăng chôn cất ở nơi nào?

Bài thơ trên đây của thi sỹ Nguyễn Trọng Tạo nói về ý nghĩa của thiên nhiên trong mối quan hệ của nó với xã hội loài người. Nhưng không dừng lại ở đó, bài thơ vượt lên, cũng không bao gồm quá nhiều thông tin hơn mức cần thiết, để lại ấn tượng về một điều gì như tình yêu. Đó thực sự là một bài thơ tình. Một thứ tình yêu cá nhân, riêng lẻ.

Thời trẻ Nguyễn Trọng Tạo làm thơ có vần, cũng như nhiều người khác, nhưng về sau anh viết nhiều hơn các thể thơ mới và thơ tự do. Thơ anh hàm chứa một nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, trong cả hai phong cách lãng mạn và hiện thực. Là một trong những nhà thơ nổi bật của thế hệ mình, thế hệ chiến tranh, anh nhanh chóng vượt lên khỏi các truyền thống phổ biến và tìm thấy tiếng nói của mình giữa một nền thơ mới, hiện đại.

Phong cách trữ tình của thơ Nguyễn Trọng Tạo thoạt nhìn có vẻ đơn giản nhưng thật ra đó chỉ là sự giản dị bề ngoài. Mặc dù các bài thơ trong tập này không đầy tính trừu tượng, đối với tôi, chúng lại chứa đầy các yếu tố triết học. Âm nhạc trong thơ anh là sự kết hợp nhiều yếu tố, bao gồm các thể thơ truyền thống, các phẩm chất âm thanh đặc trưng của tiếng Việt, các thể thơ thế giới như ballad và sonnet, với sở trường của anh như một nhà soạn nhạc mà về mặt này anh cũng nổi tiếng không kém. Thơ Nguyễn Trọng Tạo viết về nhiều đề tài xã hội và lịch sử, tuy vậy ngôn ngữ của anh là một thứ ngôn ngữ nặng chất trữ tình, giữ được sự cân đối của cấu trúc.

Tuyển tập thơ này của anh bao gồm được trong đó những thể loại thơ khác nhau, ví dụ như kiểu viết dàn trải, dài, phóng túng bên cạnh kiểu thơ ngắn, chính xác, cô đọng; kết hợp tính tạo vấn đề và sự vui thú.

Tôi cũng được biết rằng Nguyễn Trọng Tạo là một người ủng hộ các khuynh hướng làm mới thơ ca hiện nay ở Việt Nam với sự nhiệt tình hiếm có, vì vậy anh rất nổi tiếng giữa các nhà thơ trẻ và mới.

Bản dịch tiếng Anh của Nguyễn Phan Quế Mai và Hilary Watts là một công trình tốt đẹp. Tôi tin chắc rằng người đọc sẽ đón nhận tuyển tập thơ song ngữ mới này một cách hào hứng.

Nguyễn Đức Tùng