V Quê Ln Cui

Văn Quang

Rất bất ngờ, vào dịp cuối năm 2012, các ông Nhất Giang và Vi Túy từ Úc gọi điện thoại cho tôi với một câu hỏi cũng rất “giật gân”:

- Anh có muốn về Thái B́nh không?

Tôi nghĩ hai ông này định dỡn mặt với ḿnh đây. Tôi c̣n đang phân vân t́m cách đối phó để khỏi rơi vào bẫy việt vị, Nhất Giang nói ngay:

- Thật đấy, chuyến này báo Văn Nghệ sẽ đi làm từ thiện ở Thái B́nh, quê hương anh đấy. Anh thấy thế nào?

Tôi trả lời không cần suy nghĩ:

- Các anh làm từ thiện từ Đồng Bằng sông Cửu Long đến Campuchia, rồi Huế, Pleiku, Kontum, chỉ c̣n thiếu miền Bắc. Đồng bào đói khổ th́ ở đâu cũng là người Việt ḿnh cả. Sao lại không ra miền Bắc một chuyến nhỉ?

Vi Túy hỏi rất thành thật:

-Theo anh, miền Bắc c̣n nhiều gia đ́nh nghèo lắm không?

- Ở đâu cũng có người nghèo trên khắp giải đất VN này. Ở miền Bắc, họ hàng tôi c̣n nhiều, nhất là ở tỉnh Thái B́nh mà các anh vừa đề cập tới. Có những người “trên không chằng, dưới không rễ”, nói rơ ra là họ không có người thân, không có họ hàng hang hốc với chính quyền địa phương, phần đông c̣n nghèo khó là cái chắc, chẳng khác ǵ những người ở các vùng quê miền Nam đâu.Chưa nói đến trường hợp như mấy đứa cháu tôi, sự nghèo khổ c̣n thê thảm hơn, kéo dài suốt từ năm 1954 tới bây giờ. Tôi kể lại sơ lược sự thật đó để các anh hiểu rơ hơn.

Nỗi khổ từ “muôn năm cũ”.

 

Năm 1954, sau khi gia đ́nh tôi vào Nam, anh cả tôi ở lại miền Bắc bởi anh theo kháng chiến chống Pháp từ những năm 1949. Như tôi đă có lần tường thuật với bạn đọc về cái chết oan uổng của ông anh cả tôi. Anh đang là chính trị viên, nhưng anh bị sốt rét nên sau khi đi bệnh xá, được nghỉ phép về làng dưỡng bệnh. Gặp ngay đợt cải cách ruộng đất, phong trào đấu tố được “phát huy” lên đỉnh điểm. “Chỉ tiêu” của làng tôi là phải đấu tố 3 anh địa chủ. Thế là ông anh tôi, vốn là con ông chánh tổng, bị lôi ra đấu tố rồi xử bắn. Để lại vợ và 3 đứa con nhỏ, có cháu mới 2 tuổi, cháu lớn nhất mới 6 tuổi. Bà vợ anh không chịu nổi cảnh nhục nhă này nên đă đâm đầu xuống ao nhà tự tử. Mấy đứa con nhỏ bị đuổi ra ở một túp lều lá trong khu vườn chè nhà tôi. Cả làng, kể cả người thân trong họ, cũng không dám giúp đỡ bất cứ thứ ǵ cho các cháu. Một lần các cháu ṃ cua bắt ốc, bắt được mấy con cá nhỏ ngoài đồng, mang về đến gần nhà, vô phúc gặp một anh dân quân du kích bắt đứng lại khám xét. Thấy mấy con cá, anh dân quân này quả quyết rằng hai đứa ăn cắp cá, anh ta mang đổ ngay mấy con cá xuống ao làng. Mấy đứa cháu tôi sống nheo nhóc trong hoàn cảnh đó. Tôi không muốn dài ḍng về nỗi khổ này của các cháu. Chỉ biết rằng nỗi nghèo khổ đó đă theo đuổi các cháu từ năm 1954 đến nay. Một cháu đă mất tại Nam Định, một cháu bỏ làng ra Hà Nội sống cuộc sống lầm than cho đến bây giờ.

Tôi kể lại chuyện này để các anh hiểu thêm ở miền Bắc c̣n nhiều gia đ́nh nghèo khổ, cái nghèo “tích lũy” lại từ bao năm nay, đôi khi hơn cả miền Nam. Ở những làng quê Thái B́nh không thiếu những gia đ́nh như thế. Các anh đại diện cho bà con người Việt ở nước ngoài phát quà cho bất cứ tỉnh nào ở miền Bắc cũng sẽ gây xúc động cho bà con nghèo trong nước và gây được một tiếng vang đáng kể đấy. Một việc nên làm và không phải ai cũng làm được.

Ông Nhất Giang kết luận một câu hỏi gọn lỏn:

- Vậy anh có đi không? Chúng tôi lấy vé máy bay nhé.

Tôi “nóng máy” gật ngay:

- “Đi th́ đi”.

Kinh Kha qua sông Dịch

 

Thế là chuyến đi bất ngờ của tôi về quê hương được ấn định từ ngày 25 đến 27-12 vừa qua. Thật ra từ mấy năm trước, mỗi lần báo Văn Nghệ về VN tặng quà, tặng nhà t́nh thương cho đồng bào nghèo, tôi vẫn c̣n đủ sức “chiến đấu” với anh em, từ Lộc Ninh đến Biển Hồ Campuchia, đến Tiền Giang, Đà Lạt tôi đều có mặt. Nhưng mỗi năm tuổi một cao, sức yếu không c̣n đủ sức “trường chinh” nữa.

Năm nay đă 80, tưởng rằng anh em cho yên thân “dưỡng già” trong cái chung cư mục nát này. Nhưng tiếng gọi của quê hương, của những người nghèo khó lại bất ngờ bật dậy, nói theo kiểu chữ nghĩa linh tinh ở đây là nó bật dậy “đột xuất”!

Tôi theo dơi tin thời tiết trên truyền h́nh, miền Bắc đang vào đợt rất lạnh, có hôm dưới 13 độ C, tôi hơi lo cho “cái thân già” này. Nhưng nhớ lại những ngày nằm trong trại tù cải tạo ở Sơn La, trời lạnh 3 độ C mà chiều vẫn phải tắm nước suối lạnh buốt c̣n chịu được th́ có xá ǵ cái lạnh Hà Nội. Thế là thêm “dũng khí” ra đi, cứ như Kinh Kha qua sông Dịch vậy. Đi chuyến này rồi về có “bỏ mạng nơi xa trường” cũng đáng lắm.

Xin bạn đừng cho rằng tôi “quan trọng hóa” chuyến đi này. Ở vào tuổi tôi, nhiều bạn bè đă ra đi, nhiều bạn mới năm trước c̣n dong chơi đây đó, nay đă nằm bẹp, muốn đi đâu cũng không đi nổi. Bây giờ, tôi đi bộ hàng ngày chỉ 15 phút đă thở “bở hơi tai”. Biết ḿnh sức yếu rồi, chỉ c̣n điều an ủi cuối cùng là “làm được cái ǵ th́ cứ làm, đi được đến đâu th́ cứ đi”. Chẳng có điều ǵ báo trước cho cỗ máy xài đă 80 năm, không hư chỗ nọ cũng hỏng chỗ kia, lắp vá lung tung, đến lúc nó “bung” là hết lết nổi. Do vậy mà chuyến đi của tôi hoàn toàn nằm ngoài dự tính và ngoài cả ư muốn, nhưng cũng phải “liều”.

Bạn đă đọc câu chuyện vui tôi gửi đến quư bạn tuần trước: Ở VN “không liều th́ không sống được”. Cho nên tôi đi chuyến này cũng là liều. Bởi tôi biết rất rơ, đi với “cánh Văn Nghệ Úc” là đi liên miên, ngồi xe vào đường làng xóc như nhảy mambo, cuốc bộ đường ruộng hàng vài cây số, đi liên miên để đến được nhiều nơi.

Đầu năm, cho tôi được tậm sự đường dài với bạn đọc thân mến của tôi thế thôi. Năm sau chẳng biết c̣n đủ sức, đủ minh mẫn để hầu chuyện bạn đọc nữa không.

Người Sài G̣n tiết kiệm cả đêm Giáng Sinh

 

Đêm 24-12, tôi đón Giáng Sinh ở Sài G̣n, vốn lười đi và tiết kiệm nên nằm nhà coi Ti Vi. Từ ngày phố xá Lê Lợi, Nguyễn Huệ trang hoàng đón Giáng Sinh và Năm Mới, tôi chưa hề bước chân ra đến mấy con phố chính rộn ràng đó. Dường như với người già ở thành phố này, nói chung, họ vẫn nghĩ năm nào cũng như nhau thôi, có đi xem cũng chẳng thấy ǵ khác. Vả lại năm nay đời sống quá khó khăn, những thứ đèn đóm xa hoa, năm nào cũng phải có cho đủ “lệ bộ” thôi, chứ khó mà vui nổi khi c̣n trăm thứ lo bù đầu. Vô t́nh, những thứ đó dành cho những người giàu hay ít ra cũng đủ ăn đủ mặc. Dân nhà nghèo năm nay lo chạy gạo, lo thất nghiệp, tiết kiệm cả đến một cuốc xe đi hưởng thú vui không mất tiền, tức là không mất “phí”. Cái ǵ chứ nghe đến “phí” là dân nghèo hết hồn rồi. Mất tiền đổ xăng, chẳng lẽ không uống ly nước mía, thôi, thà ở nhà, tiết kiệm được cho gia đ́nh bữa ăn sáng, để dành tiền nộp phí sử dụng đường bộ. Đấy là một sự thật, ít ai nghĩ đến.

Tôi chỉ dám thức đến 11g đêm bởi sáng sớm hôm sau, 05giờ đă phải thức dậy ra máy bay. Coi như phải “bỏ quên đêm Giáng Sinh”. Chuyến Jestar cất cánh từ Tân Sơn Nhất lúc 07g30 phút, sau 1g45 phút sẽ đến sân bay Nội Bài. Jestar là hăng hàng không giá rẻ nhất tại VN bây giờ. Nếu lấy vé trước 1 tháng hoặc 1 tuần, giá sẽ rẻ hơn nhiều. Chỉ bằng nửa giá Air VN và ngang với giá xe lửa có giường nằm. Khoảng hơn 1 triệu đồng 1 lượt Saigon – Hanoi. Tất nhiên bạn lấy vé khứ hồi sẽ c̣n được bớt thêm nữa. Máy bay lớn, khoang hành khách chật chội, tất nhiên không “sang” bằng những hăng khác, nhưng cũng không tệ. Khi máy bay sắp hạ cánh, phi hành đoàn thông báo nhiệt độ tại Nội Bài là 14 độ C. Cô gái ngồi cạnh tôi lè lưỡi rùng ḿnh. Cô vận chiếc quần soọc để khoe cặp đùi dài trắng nhễ nhại. Có lẽ cô ra Hà Nội lần đầu.

Tôi “trang bị” khá kỹ, áo khoác dầy cộm, khăn len quàng cổ, những thứ hàng “son” mua ở chợ Đà Lạt từ mấy năm trước, nằm kỹ trong đáy tủ, bây giờ mới “phát huy tác dụng”.

Về quê hương mà chưa biết đó là quê ḿnh

 

Từ sân bay Nội Bài, chiếc xe 16 chỗ chạy thẳng một lèo về Thái B́nh. Con đường khá dài, ngồi ê ẩm mới tới nơi tôi đă sinh ra và lớn lên rồi bỏ xứ ra đi. Gần 3 tiếng sau chúng tôi tới giáo sứ Phục Lễ. Ngôi nhà thờ rất lớn, với những hàng cây được nắn tỉa công phu quanh những khu vườn sạch sẽ làm tôn thêm vẻ trang nghiêm của nơi này. Người đón tiếp chúng tôi là cha Thao, rất lịch lăm, trẻ và đẹp trai không kém ǵ tài tử màn bạc. Cha đăi đoàn một bữa cơm khá thịnh soạn. Mọi chương tŕnh đă được hoạch định từ trước cả chỗ ăn chỗ ngủ. Nhưng để khỏi làm phiền nơi tôn nghiêm và có tự do hơn, chúng tôi xin phép cha cho ra nghỉ ở khách sạn bên ngoài.

 

Nhà thờ giáo sứ Phục Lễ

Đó là một kiểu “nhà nghỉ” ở giữa những con đường lớn. Có nơi treo bảng là “nhà ngủ” cho tiện việc sổ sách. Pḥng chật hẹp, cũng có máy lạnh, toilet nhưng có vẻ hơi bầy hầy, bạn kiếm miếng xà bông cũng không ra. Đêm giữa đồng quê nghe ếch nhái kêu cũng vui tai. Tôi chợt nhớ ra là tôi rời quê ra đi vào năm 1950, đến nay đă hơn 60 năm tôi mới được ngủ lại ở chính quê hương ḿnh. Nh́n khung cảnh đồng quê trước mặt mơ hồ trong ánh đèn đêm, dường như nó vẫn vậy, không có ǵ thay đổi. Thay đổi chăng là ở con người. Tôi thật sự xúc động khi nhớ lại những con đường, những mái nhà, những ngôi trường tôi đă từng ê a học và những khuôn mặt từ xa xưa. Tất cả như c̣n đang lẩn khuất đâu đây và đang chờ đợi ngày chúng tôi trở về. Nhưng đồng thời với cảm tưởng ấy là ư nghĩ thực tế hơn, có lẽ đây là lần cuối tôi nghỉ lại nơi này. Niềm vui và nỗi buồn đan xen trong cái đêm “hội ngộ” hi hữu này. Đêm đó dù rất mệt nhưng tôi vẫn không tài nào nhắm mắt ngủ yên được.

Sáng hôm sau trở lại nhà thờ Phục Lễ, nghe các giáo dân nói chuyện tôi mới biết giáo sứ này thuộc xă Quỳnh Châu, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái B́nh. Vậy mà từ hôm qua tôi cứ tưởng giáo sứ thuộc huyện khác, măi đến lúc đó tôi mới biết xă này thuộc huyện ḿnh. Cách huyện lỵ Quỳnh Côi có 4 km, tức là cách làng An Hiệp của tôi 9 km. Bỗng dưng tất vả trở nên thân thuộc quá.

Buổi phát quà tại giáo sứ Phục Lễ

 

Đúng 9 giờ sáng buổi phát quà bắt đầu ngay tại sân sau nhà thờ Phục Lễ. Chúng tôi thấy việc tổ chức phát quà cho đồng bào nghèo ở một nơi như thế này là rất phù hợp. Nếu tổ chức ở một trụ sở hay ủy ban nào cũng bất tiện v́ khẩu hiệu cờ quạt lung tung… Buổi phát quà cho cả đồng bào theo đạo Thiên Chúa và đạo Phật, không hề có sự phân biệt nào. Hơn 100 người đă tề tựu đông đủ, vài người “giàu lắm” cũng chỉ có chiếc xe đạp cũ. Phần quà gồm 2 gói thực phẩm và 100 ngàn tiền mặt. Đến nhận quà, hầu hết là các cụ già, các cô gái và em nhỏ vừa đủ tuổi xách được gói quà khoảng 4 kg. Quan sát những người dân ở đây, tôi không thấy điều ǵ khác biệt với những người dân ở các địa phương miền Nam mà tôi đă từng đi qua. Có lẽ người nghèo ở đâu cũng giống nhau cả thôi, quần áo “thời đại si đa” đủ mốt, đủ màu, đủ quốc tịch, chữ ăng lê trên ngực áo đủ kiểu kể cả kiểu “I ♥ you” trên áo các em nhỏ chưa đủ lớn khôn. Khác một chút là mùa lạnh nên ai cũng mặc vài ba chiếc áo chằng đụp nên có vẻ có da có thịt hơn.

Các cụ già chờ phát quà tại sân sau nhà thờ Phục Lễ

Tôi cũng được anh em cử ra đứng phát tiền sau khi các cụ đă lănh quà. Có cụ bê không nổi, rớt lung tung, người khác phải tới “khuân” giúp. Có cụ quên cả lănh tiền, dù đă được nhắc nhở, tôi phải kéo áo cụ lại mời cụ lănh giùm cho. Có cụ nói “các ông cho nhiều quá, chưa có “ông” nào cho nhiều như thế”.

Tiếng gọi nhau í ới, vài người xúm lại “thồ” mấy phần quà trên chiếc xe đạp cũ. Họ vẫn c̣n quen với kiểu phương tiện vận chuyển thời chiến tranh đi tản cư, di cư.

Các cô gái cùng nhau đưa quà lên xe đạp “thồ” về nhà

Ngay hôm đó đoàn lại tiếp tục đi đến 4-5 nhà thờ khác nằm trong địa phận cai quản của cha Thao ở giáo xứ này. Đường làng nhỏ hẹp như bờ ruộng, có nơi xe gắn máy đi c̣n chật. Chúng tôi cuốc bộ từng chặng chừng 1-2 cây số. Thú thật, nếu không có mấy ông bạn mang giúp hành lư, tôi không đi nổi. Ở nơi nào bà con cũng có vẻ lạ lẫm với đoàn làm từ thiện từ nước ngoài về. Thậm chí có nhiều người chẳng biết nước Úc ở đâu, nếu không giải thích, họ vẫn cứ nghĩ rằng đó là nước Mỹ. Bà con ở miền này biết đến nước Mỹ và đồng đô la chứ quả t́nh không biết đồng đô la Úc hoặc đô la Canada.

 

Cha Thao cai quản 11 nhà thờ tại Quỳnh Châu và tác giả

Xin bạn hiểu là rất nhiều người biết có đồng đô la chứ chưa nh́n thấy hoặc chưa được cầm đến bao giờ. Đó là điều ngược hẳn với dân Hà Nội. Ai cũng biết giá trị của từng đồng đô la và nhiều người định giá trị nhiều món hàng bằng đô la và tiêu bằng đô la mạnh tay hơn các cụ từ nước ngoài về VN đấy. Suy ra từ đấy, ở miền Bắc sự cách biệt về giàu nghèo giữa thành thị và thôn quê quá xa. Xa hơn cả miền Nam.

Trở lại chính nơi chôn rau cắt rốn

 

Buổi chiều chúng tôi lại lên đường trở về Hà Nội. Trên đoạn đường đó, chúng tôi đi qua huyện Quỳnh Phụ và qua cầu Hiệp. Đúng ra tên huyện cũ của tôi là Quỳnh Côi, nhưng sau này, các ông “nhà nước mới” sát nhập hai huyện Phụ Dực và Quỳnh Côi là một, đổi thành huyện Quỳnh Phụ. Rồi nhiều huyện, nhiều tỉnh thấy sự cai trị bất tiện nên lại tách lại các tỉnh huyện như cũ. Như Hà - Nam- Ninh, Vĩnh - Phúc - Yên….Nguyên cái việc sửa tới sửa lui này cũng tốn hết biết bao tiền của công sức của nhân dân. Giấy tờ đều phải làm mới để rồi làm lại như cũ. Sự thiếu nghiên cứu, thiếu kinh nghiệm, với những bộ óc thích “đổi mới vô tội vạ” đă làm điêu đứng người dân không ít.

Ngày nay, cái phố huyện nhỏ xíu bây giờ được nâng lên thành thị trấn và đặt lại cái tên Quỳng Côi quen thuộc, nhưng huyện th́ vẫn là huyện Quỳnh Phụ.

Đi qua con đường đúng 5 cây số từ thị trấn về phố Bến Hiệp, tôi bồi hồi nhớ đến những năm tháng từ phố tôi đi học trường huyện. Con đường trải đá, hai bên đă ṃn nhẵn, mỗi ngày có hai chuyến xe đ̣ chạy từ Bến Hiệp đến tỉnh lị Thái B́nh. Con đường đă in đậm thuở ấu thơ của tôi, thuở mới tập và thích làm người lớn, thuở bắt đầu biết yêu vụng nhớ thầm cô hàng xén hoa khôi của phố Hiệp. Bốn năm dài như thế, mỗi ngày đạp xe đi trên con đường cái quan này. In đậm trong khối óc trẻ thơ của tôi là vào năm 1943, hai bên bờ cỏ, dọc theo con đường này có rất nhiều người chết đói, nằm la liệt bên đường. Có những xác chết, v́ không chôn kịp, đă cháy đen v́ nắng như bị hỏa thiêu. Hầu hết họ là những người từ phương xa đến xin ăn ở huyện tôi. Nhà tôi đă bắt tôi phải nghỉ học cả tháng để tránh bệnh tật lây lan từ quăng đường kinh hoàng này. Bây giờ trở lại, đó là những h́nh ảnh bi đát nhất vẫn c̣n như trước mắt tôi.

Chùa làng Sơn Đồng và ông sư tự thiêu

 

Đi gần hết quăng đường này, chúng tôi v́ ṭ ṃ ghé vào làng Sơn Đồng thăm ngôi chùa có vị sư mới tự thiêu cách đây hai tháng. Làng này cách làng tôi vài cái bờ ruộng và một lũy tre thưa. Bà chị ruột tôi lấy chồng ở làng Sơn Đồng. Anh chị tôi có chừng 7- 8 đứa con hiện ở cả bên Mỹ. Các cháu đề nghị tôi ghé qua chùa thăm lại cảnh xưa có đúng như bức ảnh đă được đưa lên internet không và lư do nào nhà sư đă tự thiêu.

Chúng tôi đến ngôi chùa Sơn Đồng vào buổi quá trưa “trời không nắng cũng không mưa, chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung”. Không khí chùa ngoài vắng lặng, không một bóng người. Tôi lần ra phía sau chùa văn cảnh, bất ngờ gặp được sư thầy, có lẽ là vị sư tạm

 

Sư thầy Phạm Tiến Hường và Văn Quang trước sân chùa Sơn Đồng

thời trụ tŕ ở chùa này sau khi vị sư chính tự thiêu. Tôi gợi lại vài kỷ niệm cũ chứng tỏ ḿnh là người cũ của địa phương này. Hồi đó bố tôi thường sai tôi sang chùa này mời cụ sư Hinh sang nhà tôi đàm đạo. Cụ sư Hinh rất phong khoáng trẻ trung nên tôi nhớ măi tính cách đặc biệt của cụ. Vị sư thầy trụ tŕ mới này nhận ra ngay tôi là “người nhà”. Vị này tự giới thiệu tên thật là Phạm Tiến Hường.

Sư thầy ra gặp anh em trong đoàn và thuật lại chuyện vị sư đă tự thiêu. Thầy nói khá chi tiết. Tôi chỉ có thể tóm tắt vài điểm then chốt. Vị sư tự thiêu là thầy Thích Thanh Hoằng; tên tục là Nguyễn văn Mười. Thầy viết thư tuyệt mệnh nói rằng “Thầy không oán trách phật tử, tự thầy oán trách thầy”.

 

Vi Túy phỏng vấn sư thầy Phạm Tiến Hường

Nhưng theo thầy Phạm Tiến Hường th́ một buổi sáng thức dậy, thầy Thích Thanh Hoằng bị “người ta” lấy hết toàn bộ đồ dùng của thầy, trong đó có cả máy vi tính và nhiều sách vở. Thầy buồn lắm nên tự thiêu. Tôi không thể suy luận hai chữ “người ta” đây là sư thầy Hường đă ám chỉ nhân vật nào hay cơ quan nào. V́ một lư do nào đó, thầy Hường cũng chỉ nói hai tiếng “người ta”, nhưng bạn đọc thừa thông minh có thể hiểu đó là ai và tại sao thầy Hường không thể nói rơ hơn được. Thầy Hường chính là người đă ở bên và giúp đỡ săn sóc cuộc sống cho thầy Thích Thanh Hoằng từ 10 năm nay nên biết rất rơ. Thầy Hoằng đă đổ 10 lít xăng lên người để tự thiêu vào buổi sáng. Sau đó vài ngày, chùa định làm một đám tang lớn nhưng lại được phường xă đề nghị cho đám táng đi ṿng quanh con đường phía ngoài chùa rồi an táng thầy phía sau miếng đất của chùa Sơn Đồng.

Cây cầu Hiệp mới, nối liền Hải Dương- Thái B́nh

 

Chúng tôi dừng lại chùa Sơn Đồng khoảng hơn 1 tiếng, buổi chiều anh tài xế trẻ đưa đoàn ra Bến Hiệp. Đây chính là nơi tôi đă sống suốt thời thơ ấu. Dăy phố có chừng vài chục căn nhà lầu, nơi có một số gia đ́nh người Hoa làm ăn buôn bán cùng người Việt. Ngày nay chỉ c̣n lại là những dẫy nhà tranh hai bên đường. Chỉ có cái cầu Hiệp mới làm xong, đó cũng là đặc điểm nổi bật nhất của tỉnh Thái B́nh.

 

Lối lên cầu Hiệp hiện nay

Cầu Hiệp bắc qua sông Luộc, nối liền đường bộ giữa 2 tỉnh Hải Dương - Thái B́nh, cầu này thuộc 2 xă Hưng Long (huyện Ninh Giang) Hải Dương và Quỳnh Giao (huyện Quỳnh Phụ) Thái B́nh, được khởi công xây dựng từ năm 2008. Cầu Hiệp có chiều dài 542,5m, rộng 12m. Buổi chiều trời mưa dăng nhẹ như mưa phùn mùa đông, cây cầu uốn cong nổi lên trên nền trời khá hùng vĩ giữa vùng quê nghèo. Tôi nhớ đến những lần bọn nhóc chúng tôi trần như nhộng, bơi qua sông Luộc giữa mùa nước lớn, ḍng phù sa đỏ quạch chảy cuồn cuộn, sang bên kia sông ăn trộm vài trái bắp với cái lư do ngây ngô rằng bắp Hải Dương mới ngon. Và chỉ bơi qua sông chạy trốn về bờ nhà khi có người đuổi theo hô hoán, đứng trên bờ chửi theo. Tuổi trẻ ngỗ nghịch có vài phút sống lại.

 

Cầu Bo Thái B́nh cũ và những cô gái thuở xa xưa

Cây cầu này khiến tôi nhớ tới cây cầu Bo, lối bắt đầu vào tỉnh lỵ Thài B́nh, nơi bà ngoại tôi sinh sống. Mỗi lần tôi được “lên tỉnh”, nh́n thấy cây cầu Bo như nh́n thấy môt thiên đường mới. Đó mới là ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi về quê ngoại. Tôi nhớ đến mấy câu vè của bọn học tṛ vẫn hát om x̣m: “Thái B́nh có cái Cầu Bo. Đêm đêm trai gái lại ḅ lên chơi. Cứ 5 mét lại một đôi ...”.
Bây giờ Thái Bính có tới 2 cây cầu Bo, một mới và một cũ, nằm song song, nhưng chuyến đi này tôi không đi qua cầu Bo. Chiếc cầu Hiệp đă thay thế, nhiều xe chạy đường Hà Nội đă thay đổi lộ tŕnh chạy qua đường cầu Hiệp sang Hải Dương ngắn hơn và đường xá tốt hơn.

Buổi tối về đến Hà Nội, chúng tôi quá mệt mỏi chỉ c̣n nước lăn ra ngủ. Trong chuyến đi của đoàn có một ông bạn từ Cali cũng tháp tùng. Ông Tiến, tục gọi là Tiến râu, người nằm chung pḥng với tôi và mang vác hành lư, giúp đỡ tôi rất nhiếu trong suốt cuộc hành tŕnh này. Thế là có cả độc giả từ Mỹ về cùng làm từ thiện cho vui vẻ. Hà Nội đối với tôi chỉ là một trạm dừng chân đợi tàu xe. Nhưng cũng có nhận xét rất “vô tư” rằng người Hà Nội giàu hơn người miền Nam. Có rất nhiều nguyên nhân lư giải điều này sau khi tôi t́m gặp một vài người bà con, kẻ giàu nứt đố đổ vách, người nghèo kiết xác như đứa cháu tôi ở giữa ḷng Hà Nội.

Buổi tối chúng tôi trở về Sài G̣n trên chuyến bay cất cánh vào 19g30 hoàn tất chuyến đi làm từ thiện lần đầu tiên ở miền Bắc.

Thưa thật với bạn đọc, ba hôm sau hai bắp đùi tôi vẫn c̣n đau, leo lên cầu thang lầu 1 chung cư không muốn nổi. Thế mới thấy rơ ḿnh đă “quá đát” và ngồi tiếc nuối thời trai trẻ. Nhưng dù thế nào tôi cũng bằng ḷng với ḿnh v́ đă “làm được ǵ cứ làm, đi được đến đâu cứ đi”. Đó chính là cuộc sống “có lư” của tuổi già, phải không bạn?

 

Văn Quang