Hữu Loan
những bài thơ chính khí

Nguyễn Mạnh Trinh

 

Hữu Loan, một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, người đă phê b́nh sự dốt nát của các quan “văn nghệ Cộng Sản” bằng h́nh ảnh ví von thật ác : “Những mắt lợn thưởng tranh. Những tai trâu huấn nhạc.” Và cũng chính Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim”, người đă không thèm cầm bút theo sự chỉ huy của chính quyền chuyên chế, về cày ruộng thồ đá, lao động như một nông dân chính hiệu.

 

(Thi sĩ Hà Thượng Nhân và thi sĩ Hữu Loan)

Nhà thơ Hà Thượng Nhân, một người đă có thời gần gũi với Hữu Loan đă có những câu thơ  phác họa chân dung thiệt sống động như :

“... Nguyễn Hữu Loan

hồn nhiên như con trẻ

đơn sơ như miệng cười

dám chân thành làm một con người

giữa băo tố quyết không là cây sậy

chỉ biết cúi đầu vâng lời lẽ phải.

Với bạn bè ǵn giữ thủy chung

Đỗ Phủ xưa dù lớn vô cùng

Nguyễn Hữu Loan không chịu là Đỗ Phủ

Ba mươi mấy năm chân trần lam .

- Đói khôngLoan?

Khổ không Loan?

Tao chẳng khổ bao giờ

Tao đi cày như tao làm thơ

- Mày đi cày v́ mày dám làm thơ.

Thơ đại v́ thơ không đánh đĩ

Bọn dối trá chẳng thể là thi sĩ

Kiệt Trụ đừng nói chuyện thi ca.

Nhớ nguyễn Du xưa rau cháo xanh da

Nửa tháng ốm không có tiền mua thuốc.

Không cần thép thơ vẫn thành bó đuốc.

Thơ nâng người cao sát với thần linh…”

Thơ, đối với Hữu Loan cũng như một số người, là cứu cánh để tồn tại và sống c̣n trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Tương tự như, những người bị giam hăm trong pḥng biệt giam, chung quanh là không khí u trệ hắc ám, nh́n đời sống toàn màu đen, nếu không có óc tưởng tượng để vượt trên những chấn song của những tâm hồn thi nhân th́ có lẽ khó sống c̣n nổi trong những điều kiện sinh hoạt vô cùng ngặt nghèo. Hay, những người bị cả một chế độ khủng bố, bao vây kinh tế, theo dơi tư tưởng, cả đời lao đao. Không những chỉ một cá nhân cam chịu riêng ḿnh mà c̣n cả gia đ́nh thân quyến cũng chịu ảnh hưởng lây. Có những người vẫn an nhiên sống bất chấp đấy ải. Nhưng cũng có những người không gượng dậy nổi trước những đè nén đôi khi vượt khỏi sức chịu đựng của con người. Thơ, như ví von của Phùng Quán,  gậy chống để gượng đứng dậy và tiếp tục đi….

Nh́n lại những biến cố văn học Việt Nam, từ xưa đến nay, có những người   án văn tự mà bị chu di tam tộc. Đó là thời quân chủ phong kiến. Chế độ Cộng Sản có những cái án mà không thành án, suốt đời đeo đẳng, Thí dụ, vụ án “Xét lại”, vụ án “ Nhân Văn Giai Phẩm“… Sự tàn bạo, khốc liệt không thua ǵ đời phong kiến, nếu không nói là thâm độc hơn.

Thời kháng chiến hay khi vào tiếp thu miền Bắc, Đảng Cộng sản vẫn một chủ trương văn nghệ chỉ huy, văn chương phục vụ chính trị. Từ đề cương văn hóa “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt nam” của Trường Chinh Đặng Xuân Khu đọc trước Hội Nghị Văn hóa ở chiến khu Việt Bắc năm 1948  trở về sau, một đường lối cực đoan bảo thủ được thi hành với tất cả những biện pháp khắc nghiệt dành cho những ai muốn đi ra ngoài cương lĩnh ấy.

Năm 1955, nội t́nh miền Bắc nhiều rối ren. Phong trào cải cách ruộng đất rập khuôn Trung Quốc đă gây ra biết bao nhiêu oan khuất và sự phẫn nộ của dân chúng lên cao đến nỗi phải phát động chương tŕnh sửa sai để làm giảm bớt căng thẳng. Văn nghệ cũng nhân theo đó mà nêu ra những khiếm khuyết của lănh đạo, xoáy vào những bi thảm mà chính sách cải cách ruộng đất gây ra. Để đ̣i hỏi những mục tiêu tự do cầm bút.

Những nhà văn như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Hữu Loan … cùng chia sẻ một chủ trương chống lại chính sách chỉ huy văn nghệ của Đảng.  Những Nhân Văn Giai Phẩm  Mùa Xuân, Giai Phẩm Mùa Thu với những bài thơ và truyện ngắn đă gây ra những dư luận sôi nổi với sự đồng t́nh của mọi giới từ trí thức đến b́nh dân.

Mục tiêu đầu tiên là phê phán Tố Hữu một cai thầu văn nghệ với tập thơ “Việt Bắc” được coi như là đỉnh cao thi ca của nền văn học hiện thực xă hội chủ nghĩa. Cũng như, văn nghệ sĩ đ̣i quyền được tự do sáng tác, không muốn bị giam hăm trong vai tṛ minh họa cho chế độ. Tham ô, lăng phí, cửa quyền, bất công, … tất cả những tiêu cực của chế độ được đề cập đến cũng như vai tṛ của những ông b́nh vôi, những cây đa cây đề của văn nghệ bị lột trần trong vai tṛ văn nô hèn hạ.

Theo nhà thơ Lê Đạt một người cột trụ của Nhân Văn Giai Phẩm trả lời bà Thụy Khuê của đài RFI mới đây th́ thực hiện giai phẩm là một việc làm tự phát chứ không ảnh hưởng từ những biến cố ở Liên Xô và Trung Hoa. Nhân Văn Giai Phẩm Mùa Xuân xuất bản tháng giêng năm 1956 trong khi cuối tháng 2 cùng năm th́ Đại Hội lần thứ 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị giết hại hoặc đầy ải dưới thời Stalin. Đến tháng 5, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Năm 1956 quả là một năm đầy biến cố cho các chế độ Cộng Sản trên toàn thế giới.

Dĩ nhiên, ở Việt Nam, cả bộ máy chuyên chế không nương tay trong việc trừng phạt và dẹp tan những tư tưởng phản động chống đối. Tự phê, tự kiểm, một không khí khủng bố lan rộng trong giới văn nghệ sĩ. Trần Dần là một người  hứng chịu những trừng phạt khủng khiếp nhất, không có án văn tự nhưng ghê khiếp với những hậu quả cho cả vợ con và gia đ́nh. Ông bị Đảng không cho phép kết hôn với bà Bùi thị Ngọc Khuê là người có gia đ́nh di cư vào Nam và thuộc giới tư sản địa chủ. Ông bất chấp   xin ra khỏi quân đội cũng như bỏ sinh hoạt Đảng đoàn. V́ những bài thơ chống chế độ. Ông bị bắt giam, có lúc uất ức cứa cổ tự sát. Họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ chân dung một người có vết sẹo trên cổ ám chỉ Trần Dần và bị kết tội “Bọn Nhân Văn”. Lúc đó, bị gán cho nhăn hiệu ấy là một tội danh chết người.

Trần Dần bị kết tội là đồ đệ của Hồ Phong, một nhà văn đă viết bức thư ngỏ gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Hoa phê phán “năm lưỡi dao” đâm vào tim óc các nhà văn,  bị  bắt giam và đầy đọa tới chết trong những trại lao cải tàn khốc. Thế là, cả đời của nhà thơ Trần Dần và gia đ́nh rơi vào t́nh trạng vô cùng khốn khổ. Gia cảnh nheo nhóc, con cái học hành dang dở tuy thông minh hiếu học nhưng v́ cái án treo Nhân Văn lơ lửng. Bị bao vây kinh tế, ông suốt đời như cái bóng âm thầm, nhiều người thương t́nh muốn giúp đỡ mà không dám sợ bị tội liên quan. Như thế ai mà cả gan dám quan hệ với Trần Dần sẽ bị hậu quả ngay. Vậy, vẫn có một người đă dám công nhiên chia sẻ bằng thi ca. Đó là tác giả “Màu tím  Hoa Sim”. Hữu Loan. 

Hữu Loan, một kiện tướng văn nghệ với bài thơ “Màu tím  hoa sim” mà người yêu thơ cả hai miền Nam Bắc truyền tụng hay truyện ngắn “Lộn Ṣng” đăng trên Giai Phẩm Mùa Đông năm 1956 đă gây ra những chấn động cho chế độ miền Bắc. Hơn thế nữa, ông là một người kiên cường, từ bỏ tất cả để về quê ông ở Thanh Hóa làm ruộng, đi cày, thồ đá, sống thanh bạch. Bị đày về quê nhà, đóng vai tṛ nông dân, ông phải cày bừa, kéo những xe chở đá nặng nề khổ sở như những người bị lao động khổ sai. Đảng cố t́nh đầy đọa ông và gia đ́nh suốt ba chục năm trường mà ông vẫn kiên cường chịu đựng. Về sau này, khi chế độ bị  bắt buộc phải thay đổi đường lối cực đoan, th́ nhiều nhân vật trong giới lănh đạo văn nghệ đến ve vuốt theo lệnh Đảng để lợi dụng danh tiếng và tài năng của ông. Ông vẫn giữ mực thường tiếp đăi, tự nhiên không cay đắng không xun xoe. Trong mọi thái độ vẫn giữ tính chất của kẻ sĩ.

Thấy tính cảnh của gia đ́nh Trần Dần, Hữu Loan viết tặng bạn bài thơ “Dao khúc : cừu và c̣ “với những ví von ẩn dụ. Hữu Loan đă mang câu ca dao “con c̣ mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…” vào thơ ḿnh với h́nh ảnh nhiều nỗi niềm.

Vẽ h́nh ảnh của Trần Dần bằng những câu thơ :

 “... Bố C̣ chỉ ngồi

nằm hay đứng

không đi

Phong Ác bắt

Cứ đi

Là phải

Đi c̣m…“

Vẽ h́nh ảnh của bà vợ Trần Dần, một nhân dáng tội nghiệp v́ chồng v́ con mà hy sinh với chịu đựng biết bao nhiêu khổ nạn :

“C̣ Mẹ kiếm ăn

trên cạn

giữa những nơi hôm qua c̣n là băi chiến trường

dẫy đầy ḿn bom

nổ rồi

chưa nổ

giữa đế dép nát, giày hư, vỏ rum, Bồ đào, Vốt ka hảo hạng

hộp sữa, hộp bơ

cặn bă phù hoa

từ yến tiệc lầu cao quẳng xuống

(nước miếng dào lên

chát đắng

trong mồm)

Vẽ h́nh ảnh của những đứa con :

“… C̣ không thương th́ ai thương mẹ?

c̣n thương cha

Và suốt đêm thức vẽ

Bé vẽ cha

Một mắt

Mầu đỏ mưa sa

Trên h́nh chữ nhật

Đồng tử vàng tang

Đưa ma

Phố sập

Vẽ cổ cha

Gân to

Kim ấn

Vắt ngang!

- Lập thể Picasso?

- Cubitsm C̣ con

Chưa có C̣ đâu

Khi có

vấn đề  bố C̣”

đăng trang đầu

“Đây “Nhân Dân” Số 1…”

phác họa một thời đại của những con cừu non với những bánh vẽ của một chế độ độc đoán :

“.. bọn nghệ nô

đem hết tài

khuyển

tạo mầu

tạo thanh

gây ảo

tối

đa

hay hiện thực quái thai

thảo nguyên âm thanh

thảo nguyên áp phích

xanh mướt

mênh mông

ngon mắt

ngon tai

đến tận thiên hà!

(chỉ không ngon miệng)

thèm quanh năm

(như tội tổ tông)

được gậm

được nhai

được tiêu hóa

dần

một bữa

no

thật…”

Bài thơ khá dài, Hữu Loan đă so sánh hai phận người, một con c̣ lặn lội bờ sông và một những con cừu cam chịu phận hèn, ở trong “khuôn“ th́ phải “khổ“.

Thơ Hữu Loan như những âm thanh gợn lên từ những xúc cảm từ nỗi uất hận từ những trái tai gai mắt của một thế kỷ nhiễu nhương. Câu kết như một lời “ai điếu cho một nền văn chương minh họa”.

 “.. Tiếng người hát

trong không thời  gian

vang vọng

(xùi xụt  mưa thu điệp khúc

Chiêu Hồn)

Những thân C̣

Từ nguyên thủy

Việt Nam

Hỡi người C̣

Thời văn minh Cộng Sản

Vị  dương gian tối cao

Đội trưởng

Đội

Thập loại chúng sinh C̣.

Hữu Loan đă làm một công việc của một người thấy sự bất bằng mà lên tiếng. Đă có kinh nghiệm sống với cộng sản, ông cũng thừa hiểu những tṛ trả thù của chế độ. Nhưng, có hề ǵ, đă hơn ba mươi năm trong ḷ luyện ngục th́ xá ǵ thêm một chút đ̣n hằn !!!

 

Nguyễn Mạnh Trinh