Thơ Xuân ca Nguyn Du

Nguyn Vy Khanh

 

 

 

       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhà thơ đất Tiên Điền nổi tiếng đă trên hai trăm năm và chắc là c̣n nhiều trăm năm sau nữa với Truyện Kiều. Nhưng Truyện nàng Kiều lưu lạc 15 năm không phải là tác phẩm duy nhất, Nguyễn Du c̣n lưu lại nhiều bài Văn Tế nổi tiếng và hơn 240 bài thơ chữ Hán đến nay vẫn được nghiên cứu và đă có thêm khám phá mới kể cả về chính trị và hiện sinh hóa. Thật vậy, thơ chữ Hán Nguyễn Du cung cấp nhiều hiểu biết về thân thế, con người và nhất là tâm hồn đa cảm của nhà thơ đồng thời giải đáp một số ẩn t́nh, khúc  mắc trong truyện Kiều. Trong số hơn 240 bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du chỉ có vài bài về Xuân nhưng thơ Xuân của ông là thơ buồn và Xuân của ông ảm đạm và tê tái hơn so với nhiều thi sĩ khác. Xin ghi lại 5 bài.

 

1.     Xuân Nhật Ngẫu Hứng

 

Hoạn khí kinh thời hộ bất khai,

Thoan tuần hàn thử cố tương thôi.

Tha hương nhân dữ khứ niên biệt,

Quỳnh-hải xuân ṭng hà xứ lai ?

Nam phố thương tâm khan lục thảo,

Đông hoàng sinh ư lậu hàn mai.

Lân ông bôn tẩu thôn tiền miếu,

Đẩu tửu song cam túy bất hồi.

 

Ngẫu Hứng Ngày Xuân

 

Cửa cài hàn khí quẩn quanh,

Đông đi Xuân thắm mùa nhanh theo về.

Đầy năm mới đó xa quê,

Xa xôi Quỳnh-Hải Xuân về thật chăng ?

Bến Nam cỏ biếc ḷng tang,

Xuân hàn hé nụ mai vàng ngỡ trông.

Miếu thôn hàng xóm lăo ông,

Say sưa cam rượu chẳng mong đường về.

(bản dịch NVK 1997)

 

2.     Xuân Dạ

 

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm ?

Tiểu song khai xứ liễu âm âm.

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu,

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm.

Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,

Gia hương thiên lư nguyệt trung tâm.

Nam đài thôn ngoại Long giang thủy,

Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.

 

Đêm Xuân

 

Bóng đêm khỏa lấp ánh Xuân,

Song thưa liễu rủ âm thầm làm sao.

Giang hồ ngă bệnh đă lâu,

Xuân về mà gió mưa thâu đêm ṛng.

Chong đèn rơi lệ lưng tṛng

Quê hương vời vợi nỗi ḷng trăng thâu.

Ôi Long-giang, hỡi Nam-đài,

Một ḍng sông lạnh xưa nay trôi hoài.

(bản dịch NVK 1997)

 

3.     Xuân Tiêu Lữ Thứ

 

Tiêu tiêu bồng mấn lảo phong trần,

Âm lư thiên kinh vật hậu tân.

Tŕ thảo vị lan thiên lư mộng,

Đ́nh mai dĩ hoán nhất niên Xuân.

Anh hùng tâm sự hoang tŕ sính,

Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần.

Nhân sự tiêu điều Xuân tự hảo,

Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.

 

Đêm Xuân Quán Khách

 

Phơ phơ mái tóc rối phong trần,

Lặng lẽ thầm kinh vật biến tân.

Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm mộng,

Thềm mai đă đổi một năm Xuân.

Anh hùng dạ lấp đường dong ruổi,

Danh lợi chân ê bước nhọc nhằn.

Người dẫu đ́u hiu Xuân vẫn đẹp,

Thành Đoàn thơ thẩn lệ dầm khăn.

(bản dịch Quách Tấn 1969) (1)

 

4.     Thanh Minh Ngẫu Hứng

 

Đông phong trú dạ động giang thành,

Nhân tự b́ thê thảo tự thanh.

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,

Thiên nhai vô tửu đối thanh minh.

Thôn ca sơ học tang ma ngữ,

Dă thốc thời văn chiến phạt thanh.

Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn,

Mạc giao mao thảo cận giai sinh.

 

Tiết Thanh Minh Ngẫu Hứng

 

Gió đông lay động giang thành,

Người buồn buồn rủ, cỏ xanh xanh ŕ.

Ngày Xuân ḿnh đă qua th́,

Thanh minh không rượu lấy ǵ làm vui.

Ca vè vườn ruộng học đ̣i,

Ngoài đồng nghe khóc tưởng hồi chiến tranh.

Nỗi buồn lữ khách mông mênh,

Đừng cho săng cỏ mọc quanh thềm nhà.

(bản dịch khuyết danh) (2)

 

5.     Mộ Xuân Mạn Hứng

 

Nhất niên Xuân sắc cửu thập nhật,

Phao trịch Xuân quang thù khả liên.

Phù thế công danh khan điều quá,

Nhàn đ́nh tiết tự đăi oanh thiên.

Trắc thân bất xuất hữu h́nh ngoại,

Thiên tuế trưởng ưu vị tử tiền.

Phù lợi vinh danh chung nhất tán,

Hà như cập tảo học thần tiên.

 

Cảm Hứng Cuối Xuân

 

Một năm Xuân chỉ chín mươi ngày,

Cảnh Xuân phung phí đáng tiếc thay !

Công danh như én bay qua cửa,

Sân vắng chim oanh dời đổi đây.

Hữu t́nh là giống không thoát khỏi,

Ngh́n năm lo măi lúc buông tay.

Danh lợi rồng mây tiêu tán hết,

Chi bằng theo kíp đạo thiên thai.

(bản dịch NVK 1997)

 

Qua năm bài thơ viết về mùa Xuân của đất trời, Nguyễn Du đă chứng tỏ có một tâm hồn bao la rộng lớn, một ṇi t́nh mênh mang t́nh cảm thâm sâu, hiểu biết, thương người và thương thân. Hai bài đầu Xuân Nhật Ngẫu Hứng và Xuân Dạ ông viết giữa những năm 1786-1795 - nhà thơ Quách Tấn gọi là Mười Năm Đất Khách và cụ Lê Thước coi là Mười Năm Gió Bụi, là thời gian thi hào phải về ẩn tránh ở quê vợ huyện Quỳnh-Côi (Quỳnh Hải) tỉnh Thái B́nh sau khi cuộc Cần vương pḥ Lê thất bại. Vừa nghèo vừa cô thế, ông đă phải nếm nỗi phong trần, tóc chưa bao tuổi đă bạc trắng! Hai bài cuối được viết vào những năm làm quan ở Bắc hà (1802-1804). Bài Xuân Tiêu Lữ Thứ được làm vào Xuân Giáp tí (1805) ở Lạng Sơn (Đoàn thành) khi nhà thơ đi đón sứ thần nhà Thanh. Về quê vợ hay đă ra làm quan đối với Nguyễn Du là những t́nh cảnh bó buộc; ông tự coi như bị đày, do đó thường đau khổ, nhớ nhung quê nhà là đất Hà Tĩnh nơi làng Tiên Điền cạnh sông Lam (Long giang) núi Hồng. Cũng như về sau làm cai bạ ở Quảng B́nh hoặc làm quan ngay tại triều đ́nh Huế, ngoài quê nhà Tiên Điền ra, với Nguyễn Du, nơi nào cũng là xứ người và ông bị lưu đày! Dù chỉ xa vài trăm cây số, ngay trên quê hương, Nguyễn Du đă có những bài thơ Xuân thật buồn thấm thía. Người Việt chúng ta nay hơn ba triệu người ở khắp năm châu, cái buồn lưu đày, xa xứ chắc phải thâm sâu hơn; nếu không sao có những kêu thương buồn nhớ của Thanh Nam, Cao Tần, Du Tử Lê, Hoài Việt, Trần Hồng Châu, Luân Hoán, v.v.! Trong chúng ta chắc có người cũng muốn sống cái thân phận lưu đày kiểu Nguyễn Du v́ có thấm thía ǵ so với cái «xa quê» ở đầu thế kỷ XXI này! Và cái buồn lữ thứ cô đơn rất cá nhân của Nguyễn Du chắc cũng không thể sánh bằng cái buồn tập thể và cá nhân của người Việt phải xa xứ và vẫn chưa thấy được ngày về!

 

Nguyễn Vy Khanh

 

 

Chú-thích:

 

(1)   Quách Tấn. Tố-Như Thi (Sài G̣n : An Tiêm, 1973). Tr. 98.

(2)   Trích Lê Thước & Trương Chính. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du (Hà-nội : Văn Học, 1978). Tr. 158.