Châu Yến Loan

Tm ḷng ca Nguyn Hàm Ninh

vi Đà Nng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Hàm Ninh được biết đến nhiều qua giai thoại “Răng cắn lưỡi” ám chỉ việc vua Tự Đức giết anh là Hồng Bảo.

Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà, ngôi báu lẽ ra phải thuộc về Hồng Bảo, anh của Tự Đức, nhưng Tự Đức (Hồng Nhậm) lại đăng quang. Sau đó Hồng Bảo bị giam vào ngục đến chết với tội danh “Âm mưu liên lạc với Pháp, lật đổ ngai vàng của em”.

Một hôm vua Tự Đức đăi yến, trong khi đang ăn bỗng vô ư cắn phải lưỡi liền bảo các đ́nh thần làm thơ vịnh về sự cố này nhưng không được nhắc đến hai chữ “lưỡi” và “răng”. Nguyễn Hàm Ninh làm bài thơ:

 

                       Sinh ngă chi sơ, nhĩ vị sinh,

                       Nhĩ sinh vi hậu, ngă vi huynh,

                       Đồng thời cộng hưởng trân cam vị,

                       Hà nhẫn tương vong cốt nhục t́nh.

 

(bản dịch)

                              Ta ra đời trước, chú chưa sinh;

                             Chú phận làm em, ta làm anh.

                             Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng chung hưởng;

                             Cốt nhục mà sao nỡ dứt t́nh. (4)

 

Nghe đọc thơ xong, vua Tự Đức biết Nguyễn Hàm Ninh ngầm lên án ḿnh nhưng không có lư ǵ để hạch tội nên phán:

“Thơ rất hay, trẫm thưởng cho nhà ngươi mỗi câu một lạng vàng. Nhưng ư thơ thâm hậu nên nhà ngươi phải chịu phạt, mỗi câu một roi!”.

 

Nguyễn Hàm Ninh (阮咸寧) là danh sĩ triều Nguyễn, tự là Thuận Chi, hiệu Tĩnh Trai, Anh Toàn Tử, sinh năm Mậu Th́n (1808), làng Phù Ninh, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng B́nh (nay là làng Trung Thuần, xă Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng B́nh).

 

Năm Kỷ Sửu (1829), ông đỗ Tú tài, đến năm Tân Măo (1831), đỗ Giải nguyên tại trường Thừa Thiên và được bổ dạy học tại Quốc tử giám khi mới 23 tuổi. Năm Quư Tỵ (1833), làm tri huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, gặp lúc thân phụ qua đời, ông về cư tang.

Năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng thấy ông là người hiền tài nên triệu ông ra bổ chức Quốc học độc thư và dạy học cho Thái tử.

 

Năm Mậu Tuất (1838), ông được chuyển giữ chức Tôn nhân phủ Chủ sự.

 

Năm Canh Tỵ (1840). Ông xin cáo quan về trí sĩ tại quê nhà.

 

Đến năm Tân Sửu (1841), Hoàng thái tử Miên Tông là học tṛ của ông lên ngôi, ông lại được vời ra giữ chức Hành tẩu ở Nội các.

 

Năm Ất Tỵ (1845), ông nhận chức H́nh bộ Thị lang rồi Lang trung bộ Lại, sau chuyển qua bộ Lễ, cuối cùng thăng Án sát tỉnh Khánh Hoà. Ở đây ông phạm tội bị đày đi Đà Nẵng:

 

“Thự Án sát tỉnh Khánh Ḥa là Nguyễn Hàm Ninh có tội bị mất chức. Ninh lúc mới đến nhận chức, có đi lễ các nơi chùa cổ, đền thiêng, nghe nói có một chiếc thuyền của người Tây dương đến đỗ ở ngoài bể, trong thuyền chỉ có độ 16 người. Ninh bảo thuộc hạ rằng: “ Ta nghe nói người Tây dương rất có ḷng tốt, không ngại ǵ, nhân tiện đến để an ủi.” Ninh mới ủy người t́m chúng lên bờ, tặng cho một thanh đoản kiếm, rồi cho thuyền về trước. Kế đó Ninh cùng thự Phó vệ úy Vũ Thành, tri huyện Vĩnh Xương Hoàng Minh và hơn 20 người viên biển, cùng xuống thuyền. Vừa ngồi yên, người Tây dương thốt nhiên cầm dao súng sấn đến trói cả lại, tra khảo đ̣i tiền bạc, làm đủ mọi thứ khổ nhục. Ninh thế không làm sao được, đâm đầu xuống biển tự tận. Người Tây dương lại cứu sống lại, giữ hơn 10 ngày, yêu sách không được, mới tha cho về. (Thuyền Tây dương) lại giương buồm mà đi. Việc đến tai vua. Vua than rằng: “Người Tây dương đến đó, chỉ là kiếm củi lấy nước mà thôi. Nguyễn Hàm Ninh là một viên quan to ở tỉnh, không có duyên cớ ǵ mà khinh thường đến, để mắc mưu chúng! Thân danh của Ninh vẫn không đáng kể, nhưng c̣n quốc thể th́ sao?”. Lập tức sai bắt Ninh khóa tay, giải về, giao cho bộ H́nh trị tội. Đến khi án dâng lên, Ninh và Vũ Thành, Hoàng Minh đều bị cách chức, phát văng đến 2 thành Điện Hải, An Hải sung làm quân. Bố chính Ngô văn Địch, Lănh binh Đỗ Tiệm không ngăn ngừa trước khi xảy việc, đều phải giáng một cấp. Bổ Lang trung bộ Binh Đặng Bá Vân làm Án sát tỉnh Khánh Ḥa. (3)

Sau đó, ông được phục chức cũ, được cử làm trước tác ở Viện Hàn Lâm, nhưng một lần nữa lại bị cách chức, chỉ trong vài ngày được đổi về Huế làm Trai đàn hiệu lực tại chùa Thiên Mụ.

 

Làm quan được ít lâu, ông lại xin cáo quan về quê hưởng thú thanh nhàn, bạn cùng bầu rượu túi thơ để vui với tuổi già.

Ngày 15-12 năm Đinh Măo (1867), ông qua đời, thọ 59 tuổi.

Các tác phẩm chính của ông:

Tĩnh Trai thi tập - Tĩnh Trai văn tập, Dược sư ngẫu đề, Phản thúc ước

 

Ngoài ra, ông c̣n có nhiều thơ xướng họa với các công chúa Mai Am, Huệ Phố, Qui Đức ở Huế.

 

 

 

          Lăng mộ Nguyễn Hàm Ninh - Ảnh: Phạm Văn Thức

 

Những năm cuối đời, Nguyễn Hàm Ninh dựng một ngôi nhà cỏ dưới chân núi gọi là Cừ khê thảo đường ( Ngôi nhà cỏ ở khe Cừ) để:

 

“ Khai song thanh hiểu khan vân khí,

                         Xuất quách tà dương tiện điểu hoàn)”

 

                                (Sáng sớm mở cửa đă thấy mây khói

  Bóng chiều vừa tắt ngoài thành chim chóc bay về”

 

Giấu ḿnh nơi thâm sơn cùng cốc, mong t́m sự an nhàn:

 

                       “ Ẩn cốc thê khâu tự tại nhàn”

 

Nhưng t́nh h́nh đất nước ngày càng đen tối khiến cho tâm trí ông đâu có nhàn được. Ông luôn canh cánh bên ḷng nỗi lo nước, thương dân. Ông rất quan tâm đến thời cuộc của nước nhà. “Có lần, vào tiết Thanh minh, nhà thơ Miên Thẩm ra Quảng B́nh t́m thăm Nguyễn Hàm Ninh. Hai ông cùng đàm đạo văn chương thế sự. Trong câu chuyện, Miên Thẩm báo tin cho ông biết: “Tàu Tây dương đang ngấp nghé ngoài biển Đông, rắp tâm xâm lược nước ta, triều đ́nh đă cử tướng tài chuẩn bị đối phó”. Nguyễn Hàm Ninh bèn rủ bạn cùng trèo lên một ngọn núi khá cao ở Lệ Sơn (thuộc xă Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng B́nh) để nh́n ra biển Đông. Đứng trên đỉnh núi, ông làm ngay bài thơ rồi dơng dạc đọc cho bạn nghe:

 

                             “Lệ sơn xuân vọng”

 

                             “Cổ thú yên thâm túc vũ dư,

                             Nham hoa vô tế nhiễu khâm cư.

                             Thiên phong văn chiếu liên b́nh lục,

                             Vạn lư phù vân quyển thái hư.

                             Nam quốc sơn hà chung bất động,

                             Tây nhung kỹ lăng dục hà như?

                              Tự văn cửu bệ cần thôi cốc,

                              Nhật vọng Cam Tuyền tấu tiệp thư”. (4)

 

Bài dịch

 

Đồn cũ sương mù, rả rích mưa,

Cỏ hoa quanh quẩn chỗ nhà xưa.

Ngh́n cơn gió thổi  qua đồng nội,

Vạn dặm mây vần cơi thái sơ.

Non nước yên b́nh luôn vững chăi

Tây nhung xâm lược dạ chưa bưa?

Đă nghe chín bệ xua thần tướng,

Ngày vọng phong đài tin thắng đưa. 

                                             ( Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Bốn câu cuối:

                       Nam quốc sơn hà chung bất động,

                             Tây nhung kỹ lăng dục hà như?

        Tự văn cửu bệ cần thôi cốc,

                            Nhật vọng Cam Tuyền tấu tiệp thư”

 

lời thơ hùng hồn khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập ḥa b́nh của dân tộc và niềm tin chiến thắng kẻ thù xâm lược, phảng phất âm vang bài thơ Thần Lư Thường Kiệt đă đọc trên sông Như Nguyệt năm nào:

 

                       Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,

                       Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư,

                       Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

                       Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

 

Đến khi Thực dân Pháp bắn phá Đà Nẵng rồi tiến vào Nam chiếm Cần Giờ, Nguyễn Hàm Ninh rất đau buồn, tâm sự đó đă được thể hiện qua bài thơ Cảm sự:

 

Cảm sự

 

Thùy kiến Tây minh chiến hạm lai?  

Hải cương kỉ xứ động xuân lôi.

Cần Giờ dĩ thất kim thang hiểm,

Đà Nẵng không lưu phong hỏa đài.

Tam kỉ long xà (1) hoàn chướng tế,

Tứ lân phong hạc (2) mạn kinh sai.

Giao liên Lộc Dă cao sưu địa,

Nhị thập dư niên hựu kiếp hồi.

 

Ai khiến tàu Tây đến chốn này?

Mấy vùng ven biển sấm lung lay!

Cần Giờ đă mất hào sâu hiểm,

Đà Nẵng c̣n trơ phong hỏa đài.

Ba bộ rụng rời cơn chướng họa,

Bốn phương tin dữ hoảng hồn ai.

Đồng Nai đường đến khôn t́m dấu,

Hai chục năm dư dễ văn hồi?

                             Nguyễn Thiếu Dũng dịch

 

Tuy đă từng bị đày ải ở Đà Nẵng, sống những ngày làm lính hiệu lực cơ cực, nhưng khi giặc Pháp xâm chiếm nước ta, tấn công Đà Nẵng, với tấm ḷng yêu nước thiết tha, ông không thể vui với cảnh gió mát trăng thanh ở quê nhà, mà vẫn nặng ḷng với mảnh đất ḿnh từng bị lưu đày gian khổ. Ông theo dơi từng diễn biến của cuộc chiến, mong ngóng tin tức đưa về:

 

                              

                       Cần Giờ dĩ thất kim thang hiểm,

Đà Nẵng không lưu phong hỏa đài.

              

để rồi buồn bă thất vọng trước cảnh một phần đất nước đă nằm trong tay giặc. Bốn câu thơ cuối không c̣n hùng hồn mạnh mẽ, tràn trề niềm tin chiến thắng như bài Lệ Sơn xuân vọng mà hàm chứa một nỗi buồn man mác, là tiếng thở dài của một kẻ sĩ trước cảnh nước nhà bị xâm lăng mà ḿnh đành bất lực:

 

                       Tam kỉ long xà (1) hoàn chướng tế,

Tứ lân phong hạc (2) mạn kinh sai.

Giao liên Lộc Dă cao sưu địa,

Nhị thập dư niên hựu kiếp hồi.

 

                              

 

 CYL

 

Ghi chú;

(1) Long Xà, năm th́n là long, năm Tỵ là rắn, chỉ nỗi lo sợ

(2) Phong hạc; chỉ tin tức chiến tranh

(3) Đại Nam thực lục chính biên, đệ tam kỷ, quyển LXIV, tr. 963, nxb Giáo Dục)

(4) Mai văn Hoan “Giật ḿnh đọc lại Nguyễn Hàm Ninh”   (http://www.vanvn.net)

 

 

 

Châu Thị Yến Loan

86/6/8A Âu Cơ, phường 9, quận Tân B́nh

TP Hồ chí Minh

ĐT:  0949.758.709

Email :  dungloan45@yahoo.com 

Số tài khoản: 0102528525  Ngân hàng Đông Á Đà Nẵng