thời ấu thơ đội mũ ǵ không
biết
nhưng lên mười khăng khít với béret
thuở lếch thếch ở lớp nh́ Hoàng Diệu
cái nồi-nỉ-đen
chiều sáng đi về
buổi trưa nọ tan trường, về lật đật
quên lửng béret nằm lại hộc bàn
nhằm thứ tư, buổi chiều trường đóng cửa
sợ mất leo qua cửa sổ vội vàng
thật xui xẻo khi leo
ra hấp tấp
bắp vế non xóc phải một cái đinh
nghiến răng nhịn đau tuột vào trở lại
rồi bụm máu đi cà
nhắc một ḿnh
béret ấy đă đến từ Pháp quốc
nên Pháp đi, nó cũng
đă chuồn theo
hôm thủ tướng Ngô Đ́nh... thăm Đà Nẵng
cố chen xem, nó bị
lấn bay vèo
giọt nước
mắt động ḷng người anh rể
mua cho ngay một cái mũ mossant
loại nilon bỏ túi quần
gọn nhẹ
đội trên đầu tưởng mây đậu bâng khuâng
thật hợp mốt và vô
cùng ăn khớp
típ người
hùng thám tử đang say mê
đội mũ lệch tạo dáng nghiêm chụp
ảnh
lộ vẻ ngây ngô cậu
ấm nhà quê
sau mossant được diện ngay mũ cối
của “chàng trai nước Việt” rất tinh khôi
mà Nguyễn Vỹ bắt đứng trong văn học
gắng rập khuôn coi bộ
cũng không tồi
cái nón cối lâu lâu
cần đánh phấn
màu trắng vôi như một
cụm bông g̣n
dẫu thanh khiết cũng đă không đứng
vững
khi tóc bồng bềnh đến thuở thong
dong
bỗng chốc phải đội mũ thầy Tam Tạng
(tên gọi thôi, chẳng lai giống chút nào
ngoài ba miếng ḷng tḥng trông rất
ngộ
đội trong giờ tạp dịch thật ngây ngô)
rồi béret đă vui chân
trở lại
nhưng hào hoa kiểu cọ bảnh hẳn ra
với cốt cách coi ṃi
ngang dọc lắm
tạo thêm duyên trên khuôn
mặt mặn mà
theo với béret nghiêm trang
casquette
đội trên đầu nghe trách nhiệm trên vai
huy hiệu thơm hương trái tim tổ
quốc
qú xuống đứng lên chợt thấy lưng dài
rồi sau đó képi cùng
nón sắt
đă theo chân một tên lính bộ
binh
vườn ruộng đồi rừng... “thắm da
đỏ thịt”
những chiếc mũ che ngọn
tóc xanh t́nh
chẳng được
là phân nuôi
hồn đất mẹ
đành phải rời xa sông
núi ngàn trùng
mưa nắng qua đầu thay bao lớp nón
theo mốt theo thời vẫn mẫu số chung
mũ phớt mũ nồi... đến từng tờ báo
mai một về đâu vẫn sống cùng tôi
ngọn tóc trăm năm níu hoài thương
nhớ
hương t́nh man man qua từng chặng đời
Luân Hoán