Đynh Hoàng Sa bỏ
“Vùng Trú Ẩn Hoang Đường”
Giữa thập niên 50, trong khuôn viên trường trung học công lập Phan Châu Trinh, Đà Nẵng có khá nhiều cuộc t́nh mực tím, mực xanh. Nổi tiếng nhất là t́nh yêu giữa cậu học tṛ Trương Duy Hy và cô nữ sinh tóc thề Thanh Thảo. Lúc bấy giờ anh Hy chưa trở thành một sĩ quan pháo binh, chưa trở thành một nhà văn, một nhà viết nghiên cứu như hiện nay. Nhưng chị Thanh Thảo đă là một giọng ngâm thơ ngân vang cả xứ sông Hàn. Mối t́nh đẹp của anh chị Hy Thảo kết thúc rất có hậu bằng cuộc hôn nhân giàu hạnh phúc.
Trong đám bạn cùng lớp với anh Hy, khóa đầu tiên của trung học Phan Châu Trinh, c̣n có một anh chàng khác, cũng biết yêu rất sớm và tỏ ra trội hơn, khi dám công nhiên bày tỏ t́nh yêu thương qua thi ca. Để thể hiện sự gắn bó tha thiết, anh áp dụng tṛ chơi đă xưa, nhưng vẫn mới, ghép tên ḿnh và tên người yêu làm bút danh.
Tên anh là Quư, Đinh Văn Quư. Tên người đẹp là Hướng, họ Dương. Anh nhà thơ đa t́nh đă viết đầy mấy trang giấy bốn chữ Quư Hướng, Hướng Quư, khi nắn nót cẩn trọng, lúc phóng bút bay bướm. Rồi anh gọi thầm, gọi thành tiếng. Quư Hướng nghe làm sao ấy, không ổn. Hướng Qúy nghe cũng chẳng thuận tai. Hơn nữa Hướng Quư hay Quư Hướng có vẻ thật thà chân chất, chúng bạn sẽ biết dễ dàng quá, mất vui. Phải có chút úp úp, mở mở, xa xa, gần gần cho mọi người đoán già, đoán non, tăng thêm chút lăng mạn mới thú vị. Thế là anh nảy ra ư cắt bớt một chút sáng kiến của ngài Giám mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), bỏ cả hai cái dấu sắc cho đề huề. Rồi hơn thế nữa, để tỏ ḷng cung kính phái đẹp, anh chàng sớm dại gái hoan hỉ cho tên người yêu đứng trước. Hương Quy, được chính thức có da có thịt trên các bích báo, đặc san của nhà trường và từ từ đi dần vào các nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san ở tuốt Sài G̣n.
Đinh Văn Quư. Sinh năm 1939 tại Quảng Nam. Cha đă qua đời, mẹ bước thêm bước nữa, nhưng anh và người em trai Đinh Văn Th́n (1941, cùng tuổi với tôi) vẫn cùng ở bên mẹ, bên một cô em gái rất xinh và ngoan. Chị Hướng h́nh như ra đời muộn hơn Quư một vài năm.
vợ
chồng Đynh Hoàng Sa, chợ hoa Sài G̣n 1975
Không hiểu
anh chị Quư, Hướng có áp dụng câu thơ “Đời chỉ đẹp
những khi c̣n dang dở” của thi sĩ Hồ Dzếnh
vào cuộc t́nh cuộc họ không, mà sau đó, mỗi người
đều thầm ngâm thơ Thế Lữ. “anh đi đường anh, tôi
đường tôi, t́nh nghĩa đôi ta chỉ thế
thôi...”.
Một cuộc t́nh đẹp đi qua, ai mà không buồn, nhất là t́nh đầu. Quư buồn quá, đánh rơi luôn cái bút danh đầu tiên, Hương Quy. Năm tôi trở thành bạn của anh, Quư đă có nhiều bài đăng trên các tạp chí Bách Khoa, Phổ Thông...với cái tên mới Đynh Hoàng Sa. Bút hiệu của người viết, đa số thường được thành h́nh bởi nguyên nhân nào đó... và ít nhiều đều có mang ư nghĩa, kỷ niệm riêng. Không rơ nguyên nhân nào Quư sử dụng tên Đynh Hoàng Sa. Xét về liên quan địa lư, anh không dính ǵ đến quần đảo Hoàng Sa, cách Đà Nẵng 200 hải lư. Có thể v́ yêu thích những băi cát vàng, mà Quư dùng bút hiệu này chăng ? Nguồn gốc nào quả thật tôi không rơ, chỉ biết anh rất thú vị khi dùng chữ Y thay vào vị trí chĩ i trong cái họ của anh. Quư xem sáng kiến này là một đặc biệt riêng. Chính v́ thế nên anh rất bất b́nh, khi từ miền đất Vĩnh Điện, không xa Đà Nẵng bao nhiêu, mọc thêm một người làm thơ, chơi chữ tương tự, bạn Đynh Trầm Ca. Dĩ nhiên Đynh Hoàng Sa rất bực ḿnh. Nhưng rồi theo thời gian, với cái t́nh văn nghệ, cả hai h́nh như cũng đă quen biết nhau.
Đynh Hoàng Sa có Đynh Trầm Ca na ná, Hà Nguyên Thạch sau này có Hà Nguyên Dũng, Hà Nguyên Du...như là anh em. Chỉ có tôi, chưa thấy anh chị nào chịu Luân Hồi, Luân Lạc, Luân Phiên...ǵ cả. May mắn những năm sau này, mới có cậu con ông họa sĩ Trịnh Cung, dùng tên Luân Vũ. Nhưng anh ta không thèm chơi thơ văn, mà chơi nhạc, nổi tiếng là một danh thủ vĩ cầm tại California Hoa Kỳ, lẫy lừng hơn nhiều.
Thời ở Đà Nẵng, Đynh Hoàng Sa cùng tôi và Hà Nguyên Thạch thường lang thang qua những hàng sách. Ngoài việc ngắm mặt mũi những tác phẩm mới, những tạp chí, nguyệt san...từ Sài G̣n gởi ra, chúng tôi c̣n có nhiều cơ hội đứng không quá xa những dáng hoa trung học. Một mùi hương kỳ ảo bất ngờ có thể cho chúng tôi nguồn cảm hứng, để làm thơ. Luận về chuyện thi ca, nhiều người có quan niệm, làm thơ là một công việc nghiêm túc, hướng đến những mục đích cao quí, thanh khiết. Dĩ nhiên, đúng trăm phần trăm. Nhưng tôi c̣n thấy, làm thơ nhiều khi chỉ v́ những điều rất vu vơ, dung tục như để ... tán gái chẳng hạn. Cá nhân tôi tuy chưa chạm được cuộc t́nh nào, nhưng cũng từng có một vài đêm nằm mơ mộng đâu đâu, đến từ hai quán sách Sông Đà, Lam Sơn. Rất may chủ nhân của hai cơ sở buôn bán chữ nghĩa này là hai ông trung niên rất hà tiện nụ cười, nên một phần nào đă hạn chế sự lạm dụng chỗ đứng tự nhiên để “nghễ” người đẹp của chúng tôi.
Thật ra cái mốt ngồi quán nhấm nháp hương vị cà phê, mới là mục đích chính của những lần xuống phố. Đynh Hoàng Sa rất ghiền cà phê đen, than táo bón, mất ngủ, nhưng ngày nào anh cũng lai rai ít nhất ba, bốn cữ. Rượu xuất xứ nội ngoại, chúng tôi đều tiếp thu tuốt. Chỉ tiếc yếu địa, không anh nào trở thành bà con các vị lưu linh. Cũng như Hà Nguyên Thạch, Đynh Hoàng Sa khác tôi ở mục hảo ngọt. Các quán chè nổi tiếng của Đà Nẵng thời bấy giờ, không có bóng hai bạn thơ của chúng ta lai văng. Nhưng hai quán kem Diệp Hải Dung đă được hân hạnh đón tiếp chúng tôi nhiều lần. H́nh thức trang trí, âm nhạc và chỗ ngồi mát mắt đă giúp Quư bớt đi phần nào khó tính. Anh phê phán lung tung, cả những thực khách chung quanh. “Nh́n cách ăn mặc biết tŕnh độ văn hóa” là câu anh thường vui vẻ nói với chúng tôi, khi chợt bắt gặp một thanh niên hơi đi trước thời trang. Đi chơi với Quư, một vài lần c̣n suưt bị mấy anh cowboy hỏi thăm sức khoẻ bởi cái nh́n rất ư là diễu cợt, thách thức của anh. Rất may trong đám anh chị của Đà Nẵng thời ấy, tôi quen nhiều khuôn mặt lớn như Lê Cai, Hùng Đầu Ḅ, Hiển Râu... nên đều được nể nang, thoát nạn.
Đọc sách, nghe nhạc là hai thú vui thường trực của Đynh Hoàng Sa. Trong những môn nghệ thuật, anh dị ứng với cải lương. Có lẽ v́ chỗ cư trú chật hẹp, chung đụng cùng ông dượng ghẻ quanh năm suốt tháng ôm cái radio ấm áp Đời Cô Lựu, Lá Rụng Sân Chùa...đâm ra vậy. Lúc bấy giờ, đài phát thanh Sài G̣n cuối tuần nào cũng phát một tuồng cải lương dài đến mấy tiếng, đây là cơ hội để ba chúng tôi cùng ra khỏi nhà, lang thang.
Chuyện làm thơ giản dị hơn viết văn rất nhiều. Không cần trầm hương như một số vị ngày xưa. Đôi khi cũng không câu nệ ở vị trí xuất phát câu thơ. Không bàn ghế, không giấy thẳng, mực đậm thơ vẫn cứ ra đời, sống chết tùy giá trị nghệ thuật của nó. Tôi không rơ Đynh Hoàng Sa thường sáng tác lúc nào. Và cũng theo thói quen chung, chúng tôi chỉ đọc thơ nhau sau khi các tạp chí đăng tải. Thơ của Đynh Hoàng Sa không nhẹ nhàng, văn vẻ như thơ Hà Nguyên Thạch, không giản dị, nông dân như thơ tôi. Thơ anh giàu những tư tưởng, nhân sinh quan. Trong Văn Học Miền Nam, phần Thơ, nhà văn Vơ Phiến, khi viết về thi sĩ Bùi Giáng, có đưa ra nhận xét:
“... Khi khác, Đi Vào Cơi Thơ
(1969), của các thi sĩ cùng thời ḿnh. Bùi Giáng tỏ ra
tinh quái lắm. Chẳng hạn về trường hợp
một thi sĩ nọ - đồng hương với ông
– ông nói qua lại một hồi, rồi ông bảo trót
đánh mất tập thơ của bạn nên không trích
được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập
thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh t́m măi không thấy có bài
nào trích được ! Vậy Bùi Giáng có mất sách
thực chăng ?..”
Những phát hiện về Bùi Giáng trên của nhà văn Vơ Phiến đă không cho phép tôi cả gan bàn suông về thơ Đynh Hoàng Sa trong giai đoạn này, bởi tôi không có trong tay một câu nào của anh. Tán phét mà không trích dẫn, đâm ra học đ̣i xảo thuật của Trung Niên Thi Sĩ, đâu dám. Cũng xin thưa, Đynh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch là đồng hương chính danh của nhà thơ Bùi Giáng. Riêng tôi h́nh như chưa chắc là Quảng Nam, dù sinh ra và lớn khôn trên mảnh đất của anh “Năm Eo” (tiếng lóng gọi miền Trung). Bởi trong nhiều cuộc Quảng Nam chọn mặt gọi tên, tôi đều bị gạt ra. Cụ thể gần đây nhất trong tuyển tập 100 Năm Thơ Quảng Nam, với 1050 trang do nữ thi sĩ Ư Nhi thực hiện, tôi nhận được một điện thư như sau:
From: huycao tapchivanhoc@yahoo.com
february 3, 2005 1:16: 46 AM
subject: Fw: Quảng Ngải
From: tien.dang@wanadoo.fr
Đặng Tiến nhờ
chuyển thư này đến Luân Hoán, Thành Tôn, Hoàng Lộc
nội dung:
Gởi Luân Hoán. Lâu lắm không có thư, không
biết địa chỉ c̣n đúng không. Quảng Nam có in
một tuyển tập thơ, 1050 trang dzo cô Ư Nhi biên
tập. Huỳnh Như Phương viết tựa
nhắc tới các ông, nhưng bị đục bỏ.
Vậy báo tin ông và bạn bè biết chơi. Chúc ông vui, sáng
tác hay, ăn tết Ất Dzậu to. Một năm mới
tốt đẹp.
Thân, ĐT
phía dưới là Original Message
From: Huynh Nhu Phuong
to: ĐT
sent: Wednesday, Jannuy 19 2005 4:42 PM
subject: Re Quang Ngai
Anh Tiến biết không, trong bài
Phương viết cho tập Trăm Năm Thơ
Đất Quảng, những chỗ có nhắc tên hoặc
trích thơ Luân Hoán , Hoàng Lộc, Thành Tôn...đều bị
cắt bỏ. LH có bài Đêm Mưa Về Hội An, c̣n HL
“Được Tin Người Yêu Cũ Tản Cư
Khỏi Hội An” Phương rất thích !
HNP
Ghi chú dông dài, lạc đề như vậy, để chứng tỏ tôi cũng biết buồn hơn năm phút v́ không được làm người Quảng Nam. Thật ra cả ba chúng tôi đều là đồng hương của tác giả Mưa Nguồn. Nhưng chưa được hân hạnh quen biết, gặp gỡ nhà thơ chuồn chuồn châu chấu lần nào.Cả ba chúng tôi không có cái may mắn “Đi Vào Cơi Thơ” dù chỉ được “liệt kê một loạt tên bài tùm lùm” (câu của Vơ Phiến) trong sách của ông Bùi Giáng.
Năm 1968, Tôi hội ngộ cùng Đynh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch tại thành phố Quảng Ngăi. Người bạn làm nghề dạy học của tôi dưới mắt nh́n của nhà văn Nguyễn Văn Quảng Ngăi: “Đynh Hoàng Sa (Đinh Văn Quư) lúc nào cũng áo quần bảnh bao, cũng đường bệ đúng như phong thái của một nhà giáo Trung học...” Theo tôi, Quư không màu mè về trang phục. Anh lịch sự trong giản dị. Với vóc dáng không được cao lớn, áo quần nghiêm túc, chỉnh tề giúp anh có những nét đạo mạo cần thiết.Trường trung học công lập Trần Quốc Tuấn là nhiệm sở của anh. Ngoài giờ dạy, anh sinh hoạt vui chơi cùng chúng tôi. Xuề x̣a, cởi mở, ḥa đồng...Quư gần như không làm buồn ḷng ai. Khi tôi trở thành người lính Quốc gia, trực tiếp tham chiến trên địa bàn Quảng Ngăi, Đynh Hoàng Sa nghe lời cô học tṛ Lê Thị Mỹ về ở rể nhà cha mẹ cô. Sau này, khi Lư, vợ tôi, có ư định cư ngụ tại Quảng Ngăi một thời gian, chúng tôi đă thuê chung với vợ chồng Quư Mỹ một căn pḥng trong dăy nhà, nằm ngay sau lưng trường trung học Kim Thông, không xa Ty Bưu điện mấy bước. Chúng tôi đều chưa có những tiếng khóc trẻ thơ. Quư Mỹ nằm sát vách trong. Vợ chồng tôi kê giường ngay cửa ra vào. Hai gia đ́nh chưa cùng nhau ở tṛn một tháng th́ chia tay v́ cuộc tổng tấn công tết con khỉ của phương bắc.
Tác phẩm thứ hai của nhà xuất bản tài tử Ngưỡng Cửa phát hành là tập thơ Vùng Trú Ẩn Hoang Đường của Đynh Hoàng Sa. Tập thơ của anh tôi không giữ được bản nào. Gọi hỏi Thành Tôn cũng không có. Điện thư cho em tôi, Lê Hoàng, chạy t́m ở mấy tủ sách gia đ́nh bè bạn cũ c̣n ở Đà Nẵng. Rất may Châu Văn Tùng c̣n giữ. Hoàng đánh máy toàn tập chuyển bằng điện thư qua cho tôi, nhưng khi đánh máy, Hoàng không bỏ dấu. Toàn thể tập thơ có 30 bài, đa số ngũ ngôn và thơ tự do. Tựa bài theo thứ tự: Vùng trú ẩn hoang đường, Trong quán khuya, Người đi trong mùa xuân, Nắng mùa xuân đời người, Trên băi cát thời gian, Khi chiếc bánh xe quay nhanh, Mê lộ, Trong cuộc hành tŕnh, Khi ánh đèn vụt tắt, Đôi mắt từ đất liền, Vén lời sa mù, Niềm tuyệt vọng nhân hai, Bùi ngùi, Với vội, Hương cỏ, Gịng sông nước lũ, Phiêu du, Hăy thắp dùm tôi, Một bóng t́nh trên cát, Ṿng Hoa Tưởng niệm (tưởng nhớ nhà văn Nhất Linh), Nét buồn, Mâu thuẫn, Cũng may, Nỗi im lên mê hoặc, Bài đính hôn, Trước khúc quanh của bánh cuối cùng, Nhịp tim gơ cửa, Lời ru từ hư vô, Đường bay của loài đóm đêm, Ṿng tay cát bụi. Thơ của Đynh Hoàng Sa, ngoài vài bài lục bát, bảy chữ, đa số viết bằng thể tự do hoặc ngũ ngôn, xoáy sâu trong những suy tư về cuộc sống. Bên dười đây là b́a tập Vùng Trú Ẩn Hoang Đường, do họa sĩ Đinh Cường thực hiện, cùng một số thơ trong tập, mời các bạn thưởng lăm.
Bài thứ 1 : Vùng Trú Ẩn Hoang
Đường.
Bây giờ mùa xuân
hay mùa hạ, trên con đường mơ hồ khởi
điểm và vùng yên nghỉ, tôi chất vấn tôi cùng
những thần linh câm nín như lũ ốc thời gian
không cần biết trả lời kinh ngạc chạy
khắp miền tâm linh.
Tất cả
những cánh cửa tôi gơ vào đều bưng bít niềm
bí ẩn như thần chết với cái nh́n tinh quái
từ vùng bóng tối không rời con mồi, thôi mày cứ lạnh
lùng theo bước thời gian, mày cũng hư vô từ
khởi điểm, hăy dập tắt những ánh sáng hăo huyền
đột hiện trên đường về vô tận.
Chỗ ngồi
đó từ bao giờ ngự trị hai v́ sao huyền
hoặc, tinh hoa nhiệm mầu trong suốt gịng lịch
sử cỏ cây sinh vật loài người, ngụy trang
ảo ảnh bóng mát ốc đảo vùng trú ẩn hoang
đường trên lộ tŕnh cát lửa bao la.
Khoảng trống
vắng hiện h́nh một dấu hỏi lớn dần
theo tháng năm và trở thành ấn tượng khắc sâu
vào vách đá của hư vô trường cửu, ánh sáng
kỳ-diệu của hai v́ sao thần thoại từ
khoảng trống long lanh màu dạ quang trong bầu
trời dằng - dặc sương mù diễm tuyệt.
Ánh sáng lạ lùng
vừa ngọt ngào diệu vợi vừa ngơ ngác màu
trinh nguyên vừa phảng phất kỳ hương dị
thảo có mănh lực làm hồi sinh những linh hồn
hấp hối để dấn thân vào cuộc lưu
đày êm ả rút đắng-cay làm thực phẩm sinh
tồn.
Bây giờ mùa thu
hay mùa đông, tiếng gọi âm vang tha thiết dội vào
vách núi xa xăm im ĺm lẩn trốn tan ch́m trong gịng
nước lũ lao ḿnh ra đại dương mịt-mùng
trước niềm bỡ ngỡ của loài cây loài chim
nhân chứng vô t́nh.
Bài thứ 2: Trong Quán Khuya
Một ḿnh trong
quán khuya / nâng ly rượu thứ nhất uống mừng
em không về / đó là một hạnh phúc/ cho em và cho tôi.
tôi nâng ly thứ
hai / uống mừng ḿnh cô
độc/ đó là một hạnh phúc / cho loài rêu u hoài.
tôi nâng ly thứ
ba/ uống mừng ḿnh tự do/ đó là một hạnh
phúc/ cho loài mây giang hồ.
tôi nâng ly thứ
tư/ uống mừng ḿnh sẽ chết/ rất một
ḿnh một ḿnh/ đó là một hạnh phúc/ rồi tôi
gục xuống bàn/ không mừng ǵ nữa hết/ không
buồn ǵ nữa hết.
Bài thứ 4 : Nắng Xuân Đời
Người
nắng mùa xuân
đời người/ vén màn che cửa sổ/ căn pḥng
hồn âm thầm/ thay lại một h́nh cây/ sương
không thời gian phủ /
đây ánh sáng
dư hương/ trên nền xanh dĩ văng/ xác chết
lịm từ lâu / dù phút giây tái hiện / nét sinh thời ban
đầu/ hồ thu c̣n xao xuyến/ ánh đèn chợt
thắp lên/ soi tỏ nhà hoang phế/ từng đồ
vật bỏ quên/ trong cơi ḷng bóng tối / bưng mắt
ngủ hồi sinh/ bốn mùa ao nước đục/ một
khoảnh khắc trong xanh/ từng viên sỏi kỷ
niệm/ ch́m nghỉm xuống ḷng ao/ từ bàn tay huệ
trắng/ một đêm nào ló dạng/ bay ra trong đáy bùn/
thân cây và xác chết/ sói trắng với đền ma /rúc
lên rồi vụt biến/ trong màn sương bao la.(1961)
Bài thứ 6 : Khi Bánh Xe Quay Nhanh
Một cây
sậy đứng yên trên mặt đất/ quả
địa cầu tự nó quay quanh và quay quanh mặt
trời/ cây sậy tưởng ḿnh muôn đời bất
động/ con ruồi bu trên một chiếc tăm/ chiếc tăm nằm giữa
bánh xe/ và bánh xe quay tṛn quay tṛn/ khi nhịp quay chậm
chậm/ con ruồi vô ư thức ung dung / nhịp quay càng
nhanh hơn / con ruồi sẽ chóng mặt/ nếu buông tay/
cánh sẽ găy chân sẽ què
thân sẽ nát/ chúng ta ngồi trên những chiếc tăm/
trong bánh xe gánh xiếc vô h́nh/ chúng ta nói cười tranh dành
yêu ghét/ trong đường ṿng của bánh xe quay tít/
dưới ảnh hưởng cùng một sức ly tâm/ ai
vẫy vùng trốn thoát/ như con ruồi vẫy vùng trong
lưới nhện/ sẽ bị coi là những kẻ
điên khùng/ hồn sẽ đầy vết thương/
và trọn đời mục ră ăn năn.
Bài thứ 8: Trong Cuộc Hành Tŕnh
Trong cuộc hành
tŕnh của kiếp người/ Tôi làm rơi tuổi
trẻ/ Xuống gịng sông đỏ phù sa của thời
gian/ Cuồn cuộn chảy vào đại dương
hư vô/ Làm sao t́m lại được/ Viên ngọc thanh
xuân bằng giọt lệ/ Trong gịng sông đục ngầu
tuôn chảy măi/ Trong cuộc hành tŕnh gian khổ ấy/ Tôi
làm rớt t́nh yêu/ Xuống gịng nước đỏ phù sa
của thời gian/ Cuồn cuộn chảy vào đại
dương hư vô/ Làm sao t́m lại được/ Viên
ngọc t́nh yêu bằng giọt lệ/ Trong gịng sông
đục ngầu tuôn chảy măi/ Trong cuộc hành tŕnh cô
độc ấy/ Tôi làm rớt nguồn vui/ Xuống gịng
sông đỏ phù sa của thời gian/ Cuồn cuộn
chảy vào đại dương hư vô/ Làm sao t́m lại
được/ Viên ngọc nguồn vui bằng giọt
lệ/ Trong gịng sông đực ngầu tuôn chảy măi/ Trong
cuộc hành tŕnh vô hạn ấy/ Tôi làm rớt niềm tin/ Xuống
gịng nước đỏ phù sa của thời gian/ Cuồn
cuộn chảy vào đại dương hư vô/ Làm sao
t́m lại được/ Viên ngọc niềm tin bằng
giọt lệ/ Trong gịng sông đục ngầu tuôn chảy
măi/ Trong cuộc hành tŕnh vô hạn ấy/ Cuối cùng tôi làm
rớt cả đời tôi/ Xuống
gịng nước đỏ phù sa của thời gian/ Cuồn
cuộn chảy vào đại dương hư vô/ Làm sao
t́m lại được/ Viên sỏi long lanh nhỏ bé/ Trong
gịng sông đục ngầu tuôn chảy măi.
Bài thứ 15: Hương Cỏ
Trong tâm tôi
nẻo đường hầm khúc khuỷu
Dần loanh quanh
vào vực thẳm hư vô
Đă linh cảm
mơ hồ sương lạnh lẽo
Cơn ưu
tư hoa phù thế bâng quơ
Mắt giun
dế mượn âm thầm nhắm lại
Đưa bàn tay
cúi múc xám xanh này
Mặc chúa
tể loài côn trùng hư hoại
Dần vào phiên
đoán xử một tṛ chơi
Nỗi ghê
tởm như một loài họa phẩm
Làn hương
thơm hoen ố vị tanh hôi
Tóc xanh thẫm
bỗng thấy mùi mốc ẩm
Nụ hoa
đầu úng héo giữa cành tươi
C̣n một chút
ngọt ngào trong đáy cốc
Đem nhúng vào ao
nước đục bùn nâu
Cho trọn
vẹn một cánh bèo cô độc
Ném vào thêm bi
đát cả mai sau
Nhưng khốn nỗi
chút ǵ vô nghĩa đó
Chẳng hiền
ngoan thân phận của loài rêu
Cũng xao
xuyến v́ một mùi hương cỏ
Ḷng biển sâu
cuồn cuộn sóng dâng triều
Dù cơn lốc
của ma quyền sắp dậy
Xin hăy cho
nguồn rung cảm lưu đày
Được
thổn thức no nê và run rẩy
Thú đau
thương vắng mặt đă lâu ngày
C̣n một chút máu
hồng trong huyết quản
Cũng nguyền
xin tô điểm ánh sao này
Bài thứ 21 : Nét Buồn
Trên mặt
hồ hiện tại/ Làn nước im ĺm xanh bóng mây
/Giấc ngủ khá b́nh yên/ Tàn cây khẽ thở dài /
Từng đợt sóng con lùa gọn nhẹ/ Và nhạc
buồn dĩ văng dắt tay qua/ Một buổi mai không tên/
Vài gịng chữ bỏ quên t́m thấy/ Tiếng gió buồn
lao xao/ Qua băi lau hoang vắng
tâm hồn/ Và nét buồn thoang thoảng/ Như một làn
hương xa
Bài thứ 23 : Cũng May
Cũng may gịng
nước trôi đi
Ngàn sau c̣n
luyến lưu ǵ bờ đâu
Cũng may
thời khắc thay màu
Ngẩn ngơ
tiếc nuối loài sâu cuộc đời
Cũng may xuân
mộng qua rồi
Nhung mùa trăng
lạnh bùi ngùi ngóng trông
Cũng may tàn úa
ngàn bông
Trần gian
ngậm thoáng trong ḷng sắc hương
Cũng may chim
đă lên đường
Rừng thu h́nh ảnh
c̣n vương bóng chiều
Cũng may c̣n
cũng mấy nhiêu
Vỡ tan
khắc khoải niềm yêu hận sầu
Đắng cay
đớn hận về sau
Ráng mà thực té
xô nhào lầu thơ
Bài thứ 25: Bài Đính Hôn
Giă từ con
nước b́nh yên
Vui thân kiêu hănh
thanh niên miệt mài
Xo ro thân ngựa
lạc loài
Lui miền
thạch động u hoài lăng du
Hoang mang từng
bước trong mù
Bến lau hiu
quạnh vi vu điệu buồn
Với sầu
mây khói chập chùng
C̣n mong viễn
tưởng xanh nguồn yên vui
Vượt biên
cương cũng bùi ngùi
T́m khe suối
ngọt hăy vùi thương đau
Nhàn du thôi vẫy
tay chào
Ṿng giây trói
buộc trước sau một lần
Tẻ vui
thực phẩm đường trần
Đến phiên
đành nhận khẩu phần nguôi ngoai
(Đynh hoàng Sa)
Ghi chú:
Trong bản chính không có các dấu: (/). dấu này thay cho
những lần xuống ḍng.
Sau khi nhận món quà Tết từ miền bắc gởi vào mừng năm Mậu Thân, đời sống “nhân dân ruột thịt miền nam” có phần khốn đốn. Một số dân chúng phải lo ma chay cho những người bị chôn sống tập thể, hoặc bỏ mạng v́ tiếng “pháo”, một số khác phải tham gia tích cực hơn trong công việc bảo vệ hai chữ tự do. Thành phần giáo chức, những người lâu nay v́ t́nh trạng sức khoẻ yếu được miễn dịch, bây giờ đă đến lúc phải thi hành nghĩa vụ. Đynh Hoàng Sa, với thân thể 37 kg theo học khóa 1/68 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ở giai đoạn đầu, cơ bản quân sự, anh được thụ huấn tại quân trường Quang Trung rồi chuyển đến Thủ Đức tiếp tục học chỉ huy cho đến tháng 9 năm 1968 ra trường. Nhắc đến việc ṭng quân, Đynh Hoàng Sa viết:
... “một điều thật khó
tin
là cuối cùng mày cũng vào
quân ngũ
một điều càng khó
tin
là cuối cùng tao cũng vào
quân ngũ
cho đến bây giờ mày
cũng như tao
thật t́nh không hiểu
ḿnh đă lầm hay
cuộc chiến đă lầm
khi dùng những thằng làm thơ gầy
yếu
một thằng như mày
nhảy-mũi kinh niên
sợ mặt trời
ngại cả phố đông
một thằng như tao
hen suyễn kinh niên
sợ mùa đông ngại
cả hơi sương
mỗi thằng chưa quá
bốn mươi kư...”
(NHCBCT_trang 124)
Tôi không c̣n nhớ Đynh Hoàng Sa được phục vụ trong KBC (khu bưu chính) nào. H́nh như tôi chưa tận mắt trông thấy anh mặc quân phục. Anh làm “người hùng” không bao lâu th́ tôi được trả về nguyên quán nằm viện. Không rơ Đynh Hoàng Sa ăn cơm nhà binh Việt Nam Cộng Ḥa được mấy tháng trước khi anh chuyển gia đinh vào Sài g̣n, sống với nghiệp báo. Trong suốt giai đoạn này chúng tôi không liên lạc với nhau. Nhưng qua tin bạn bè tôi biết anh có đời sống kinh tế khả quan hơn. Những người đi chân chữ bát, thường thường trong đời sẽ có một đoạn sung túc, giàu có. Mừng cho anh và cũng hơi buồn v́ mất liên lạc, tôi nhắn anh mấy câu trên tạp chí Văn Học của anh Phan Kim Thịnh qua một bài viết cho nhiều người: “Bỗng nhớ Đynh Hoàng Sa thường nói / ho hen nhiều lúc thế mà vui / ba mươi bảy kư c̣n đi lính / vẫn sống nhăn răng thế mới cừ ! / giờ th́ bạn đă đi làm báo / ở thủ đô rồi, thế mới tươi / giờ th́ bạn đă quên bè bạn / (bạn bè như thể đám đười ươi)” / .
Qua báo chí, tôi biết Đynh Hoàng Sa đang chú tâm về chuyển ngữ truyện ngoại quốc. Thơ anh ít thấy xuất hiện trên các tạp chí vào giai đoạn này.
Năm 1984, tôi gặp lại Đynh Hoàng Sa tại Sài G̣n. Anh có dẫn tôi về tư gia của anh, số 116 nằm ngay mặt tiền đường Phú Thọ, thuộc quận 11. Đây là ngôi nhà đúc, ba tầng, kiên cố và bề thế. Chị Mỹ vẫn cởi mở, b́nh dị như xưa. Tôi không dám khen vợ của bạn đẹp, nhưng quả thật, chị Mỹ rất xứng đáng nhận lời khen này của nhiều người. Anh chị có được ba cháu. Hai cháu trai, anh đă lo cho chúng đến được Hoa Kỳ. Đây là niềm sung sướng nhất của Quư. Trong thời kỳ một số lớn dân chúng phải ăn bo bo thay cơm, Quư tạo được nhà, đóng vàng cho con vượt biên không phải là chuyện đơn giản. Nguyên nhân đưa đến sự sung túc, được anh khoe với một người bạn của thời quân trường. Người bạn đó, anh Ng, Phương Tuấn đă có dịp cho chúng ta biết những ǵ Đynh Hoàng Sa đă làm:
... “Quư vừa khề khà hớp rượu vừa kể chuyện của anh từ sau tháng 4-75. Chuyện chính do đâu anh có tiền mua nhà cửa ngon lành như thế. Thoạt Cộng Sản mới chiếm Sài g̣n, thành phố nhanh chóng xuống dốc, dân chúng không đủ gạo ăn, phải ăn hạt bo bo, hoặc ḿ sợi được bóp vụn nấu chung với gạo thành cơm trộn ḿ. Thời gian này, Việt Nam được một số nước Âu châu gởi bột ḿ qua cứu đói. Gửi nhiều. Và nảy sinh ra nghề mới toanh: buôn bột ḿ. Không biết Quư mần ṃ thế nào biết được nghề này, biết chỗ bán bột ḿ do các viên chức Cộng sản có quyền hành chận hớt bán ra ngoài phần lớn số bột viện trợ. Quư mua bột ḿ từ gốc đó, chở vào Chợ Lớn, bán lại cho thương gia người Hoa kiếm được một số vàng quan trọng. Thực không ngờ, nhưng quả đúng như vậy, v́ tôi biết một số anh em trẻ khác cũng lanh lẹ kiếm được nhiều vàng trong hơn cả năm rộ lên vụ bột ḿ này”
Anh Ng. Phương Tuấn ghi lại tỉ mỉ hơn:
“Quư đạp xe đạp
chở bột, về sau mua chiếc Honda dame, dùng Honda
chở bột. Quư kể:
- "Moa ham quá, moa khiêng từng bao
bột nặng, h́ hà h́ hục chạy xe phải né tránh
bọn công an trên đường phố khỏi bị
chận xét, tịch thu, có khi vào tù. Moa khiêng bột mệt
lử người, bây giờ bệnh đau lưng đây.
Moa lấy bột, giao bột, hết chuyến này tới
chuyến kia, có khi đến 12 giờ khuya, v́ càng khuya càng
đỡ bị công an chận xét. Moa phờ râu ra, nhưng
kiếm được bộn tiền, ngày nào cũng mua vô
năm phân hoặc cả chỉ "
“Lao động là vinh quang” quả đúng thật. Sau những ngày vật lộn với bột ḿ, Quư trở lại nghề dạy học. Anh Ng. Phương Tuấn cho biết tin này và không quên kể rành mạch:
... “Quư xin đi dạy Anh văn cho trường nhà nước, cốt lấy cái tiếng cho công an địa phương khỏi làm khó dễ, chứ lương dạy học lănh ra chỉ đủ ăn tiêu vài ngày. Lợi tức thêm vào giúp gia đ́nh Quư sống thong thả là nhờ vào số vàng c̣n cất dành được, dùng làm vốn mua qua bán lại một số mặt hàng đa dụng như vải vóc, quần áo, thuốc men...Chính vợ tôi mỗi khi lănh từng thùng đồ từ Mỹ gởi về vẫn đưa phần lớn cho vợ Quư tiêu thụ. Xem ra cả hai đều có lợi. Một bên không bị mua hàng với giá rẻ, một bên thu được hàng, bán lấy lời”
Cuộc sống vật chất của Đynh Hoàng Sa sau 1975 đại khái như trên, c̣n tinh thần của anh ra sao. Ng, Phương Tuấn viết tiếp:
... “Những năm 1982, 1983, Quư và tôi
đều quá rảnh. Cứ chiều chiều, vài anh em
tụ tập tại nhà Quư, trên tầng lầu ba. Thằng
đem tới vài khúc cá khô, thằng thủ theo một gói
phá lấu, thằng đùm một bọc ḷng heo luộc.
Rượu đế tốt th́ bao giờ đàn anh Quư cũng
sẵn có. Vậy là rỉ rả nhậu. Nói đủ
thứ chuyện trên trời dưới đất.
Nhắc lại chuyện văn thơ ngày trước.
Điểm những cuốn sách đọc được
đang bán. Phân tách nhận định về chính sách
Cộng Sản, sự thật về Cộng Sản,
những vụ bắt bớ giam cầm, cảnh khốn
khổ trong các trại giam. Ngồi nhậu ở nhà, trên
lầu ba, xa khuất kín đáo, nói chuyện dễ dàng, an
toàn hơn ngồi quán.
Trên lầu ba ngôi nhà Đynh
Hoàng Sa, từng khoảnh khắc, chúng tôi cũng tạm
quên đi nhiều phiền muộn trong cảnh sống tù
túng eo hẹp. Ngoài ra, tới nhà Quư th́ sách vở nhiều vô
kể. Quư chịu khó lùng mua được nhiều sách
hay, sưu tầm được nhiều bài thơ nổi
tiếng trước năm 1975 ở miền Nam. Bạn bè
mượn đọc thong thả. Về sau khi hăng bia Sài
G̣n sản xuất ra bia hơi, với số lượng
lớn, chúng tôi không tới nhà Quư uống đế, mà
đi t́m uống bia hơi loanh quanh vùng Sài G̣n. Chỗ nào có
bia hơi là chúng tôi ṃ tới, kêu vài lít ra uống. Có khi Quư nói
: Chuyện tụi ḿnh đi uống bia hơi có thể
viết thành một thiên kư sự dài ḍng, nhiều chi
tiết rất hay.
Gần như không chiều
nào là Quư và tôi không đi uống bia. Lại có anh Thành Tôn
nhập bọn nữa mới càng thêm hứng khởi. Thành
Tôn là một anh bạn rất tốt. Làm việc ở
Chợ Lớn, anh khám phá ra một nơi bán phá lấu
tuyệt cú mèo. Phá lấu anh Thành Tôn mua thuộc loại ngon
không nơi nào bằng. Bây giờ ăn phá lấu dọc
khu Bolsa thấy thua xa phá lấu Sài g̣n, ăn tạm vậy
thôi.
Đynh Hoàng Sa, Thành Tôn và tôi
trải qua nhiều buổi chiều họp mặt cùng nhau
mà nay ôn lại tôi cứ thấy xúc động đầy
hoài nhớ vương vất. Những chiều Sài G̣n có
băo rớt, dẫm nước, gió lạnh, những
chiều cuối năm cận Tết, trong quán nhậu b́nh
dân, chúng tôi mỗi người một cốc bia lặng
lẽ ngó loanh quanh lơ đăng. Nh́n gần trên trên hè
phố quang cảnh buôn bán , người qua kẻ lại
xuôi ngược, tiếng kêu gọi bàn căi vang vang góc này, góc
kia vội vă cuối năm buổi chợ chiều...Nhưng
chỉ ngẩng lên, phóng tia mắt qua hàng cây, trong không trung
vụt thấy ra một cảnh khác, có nỗi ǵ im
vắng tịch mịch tỏa rộng, lênh láng mới u
uất trong ḷng, không cản được, hoàn toàn buông
thả cùng với những ngụm bia trôi qua cổ
họng, hết ly này tới ly kia. Cả một lúc lâu
như thế, không có lời nào giữa chúng tôi. Một hôm Quư xoay xoay cái ly,
chợt đọc lên:
Bó gối ta ngồi soi
ngấn rượu
Giật ḿnh xao động
bóng thiên thu (thơ Đynh Hoàng Sa)
(trích Để Nhớ Đynh Hoàng
Sa của Nguyễn Phương Tuấn
đặc san Quảng Đà
Xuân Canh Th́n 2000, Hoa Kỳ)
Bài của anh Tuấn không dài lắm, vừa đủ vẽ ra một hoạt cảnh có thật. Nói lên những tâm sự chân thành. Tôi đă cố t́nh trích dẫn gần nửa bài viết của anh. Một sự ăn gian số trang cho bài viết của ḿnh, không chối căi được. Dĩ nhiên tôi có thể dựa vào nguồn tin của anh Tuấn, để viết lại. Nhưng tôi đă không làm v́ muốn có thêm một tiếng nói trung trực về người bạn của ḿnh trong một đoạn đời buồn nhiều hơn vui.
Khi gặp lại Đynh Hoàng Sa tại Sài G̣n, tôi thấy anh có phần trẻ ra. Nhưng cái bệnh chửi đời, mạt sát chế độ của anh không thuyên giảm phần nào. Anh bàn nhiều đến chuyện ra đi. Và tin tưởng anh cũng sẽ có ngày ung dung ngồi trên phi cơ bay ra ngoại quốc. Anh hoàn toàn có lư do để hy vọng. Hai con trai anh đang ở Mỹ. Anh nhờ tôi cố gắng liên lạc với các cháu sau khi qua đến Canada. Tôi đă thực hiện đầy đủ những ǵ anh yêu cầu. Địa chỉ của hai con anh ngày nay tôi vẫn c̣n giữ, Đinh Hoàng Huy 14428 SE Tipaz Milwakia OR 97222 USA. Rất tiếc sau vài ba lần liên lạc, các cháu đổi chỗ ở và không cho tôi địa chỉ mới.
Những ngày ít ỏi ở Sài G̣n, tôi có cho Quư đọc một số bài trong tập Hơi Thở Việt Nam của tôi, anh rất thích. Nhưng không cho tôi đọc bài nào của anh. Khi tôi lên đường anh cũng không gởi ǵ theo v́ sợ làm trục trặc chuyến đi của tôi. Thứ ba, ngày 19 tháng 3 năm 1985, tôi viết cho Quư, cùng lúc gởi thư cho Châu Văn Tùng, Hoàng Trọng Bân, Thành Tôn. Tôi ghi rơ điều này trong cuốn agenda nhỏ. Tôi không nhận được thư của Quư. Cho đến khi được tin anh bất ngờ qua đời năm 1990, không đợi kịp ngày “ung dung ngồi phi cơ”. Vợ anh, chị Lê Thị Mỹ đă đoàn tụ được với các cháu. Năm 2004 chị bất ngờ gọi thăm Lư, vợ tôi. Sau đó chị đổi địa chỉ. Gần đây anh Thành Tôn cho biết chị đang định cư tại quận Cam nhưng chưa có số điện thoại ổn định. Qua Thành Tôn, tôi rất vui khi biết hai con trai lớn của Quư đă thành đạt. Người con út c̣n biết nũng nịu bên mẹ.
Tôi vô cùng xót xa khi đọc được bài thơ Đynh Hoàng Sa viết tống tiễn tôi lên đường, qua công bố của Ng. Phương Tuấn. Bài thơ tha thiết ân t́nh đó, xin được trang trọng chia sẻ cùng bạn đọc:
Tống Tiễn
gửi
Luân Hoán
dù sẽ vượt đèo hay qua
sông
trước sau cũng
một chuyến đau ḷng
mười năm há
chửa sâu tṛng mắt
chờ đến bao
giờ lắng đục trong ?
dù sẽ đi tàu hay đi
xe
băn khoăn ǵ nữa
chuyện bên lề
bao đêm gác tối
ngồi thao thức
những dấu than như
ác mộng đè
dù sẽ đi thuyền hay
phi cơ
luyến lưu ǵ một
góc vườn xơ
đăy cằn, gió chướng,
cành khô nhựa
tàn lụi hồn, thân,
mộng với thơ
dù đi bằng ngựa hay
xe ḅ
quẳng phứt lồng
tre sáo líu lo
sá chi nỗi nhớ treo
đầu gió
bương bả rừng
hoa nở tự do
dù đi đường
bộ hay đựng ṃn
hăy sớm ĺa xa cảnh héo
hon
dẫu biết thiên
đường đâu dễ có
c̣n hơn đắng
cổ ngậm bồ ḥn
dù đi ban ngày hay giữa
đêm
kẻ sống cần hy
vọng trước tiên
đừng ray rứt
mồ cha mả mẹ
chắc chi người
chết được nằm yên
dù đủ hai chân hay
một chân
khua tràn nhịp gỗ hóa
phân vân
ngán ǵ chuyện thiếu bàn
chân trái
c̣n óc, c̣n tay, c̣n tâm can
như ta nguyên vẹn
cả chân tay
ngoi ngóp không ra khỏi
vũng lầy
giá được như
ngươi vù khuất nẻo
cũng cam thân phận
kẻ lưu đày
tống tiễn mà sao cùng lặng câm
mỗi người riêng
nỗi xuyến xao thầm ?
ngươi nh́n vớ
vẩn lồng nan hẹp
ta ngắm chim bay tủi cát
lầm
lẽ ra cùng cạn chén ly
bôi
theo cách người xưa
cũng vẽ vời
nhưng tiếc rằng
ngươi không mạnh rượu
th́ thôi ḷng cũng ngất
ngư rồi
(Đynh Hoàng Sa).
Một phần tâm sự bạn tôi được bày tỏ. Tôi không lư giải chỉ xin lặp lại một số câu cho nỗi ngậm ngùi thấm thía hơn. : dù đủ hai chân hay một chân / khua tràn nhịp gỗ hóa phân vân/ ngán ǵ chuyện thiếu bàn chân trái / c̣n óc, c̣n tay, c̣n tâm can / như ta nguyên vẹn cả chân tay / ngoi ngóp không ra khỏi vũng lầy / giá được như ngươi vù khuất nẻo/ cũng cam thân phận kẻ lưu đày / tống tiễn mà sao cùng lặng câm / mỗi người riêng nỗi xuyến xao thầm ?/ ngươi nh́n vớ vẩn lồng nan hẹp/ ta ngắm chim bay tủi cát lầm...
Thật sự trong cái nh́n vớ vẩn của tôi đă tràn đầy ẩm ướt.. Quư hẳn biết chắc điều đó. Tôi cũng đọc được ánh mắt của anh, của nhiều người khác nữa trong buổi tống tiễn chúng tôi lên đường. Chung chung là một nỗi buồn bao la cho mỗi chúng ta, những người không phải “sinh lầm thế kỷ” mà bất lực không làm cho thời đại ḿnh trong sáng, xinh đẹp hơn. Anh Ng. Phương Tuấn c̣n công bố thêm vài bài thơ khác của Đynh Hoàng Sa, như bài Phương Thảo, bài Mai Mốt Đừng Quên, chứng minh giai đoạn sau 1985 tại quê nhà, Đynh Hoàng Sa viết được khá nhiều. Tài sản quí giá ấy, không biết chị Mỹ có ǵn giữ không ? Chẳng phải tham lam nhưng tôi vẫn trích thêm bài Mai Mốt Đừng Quên:
“ mừng em vừa tấp
đảo hoang sơ / cọng cỏ trùng khơi sóng
đẩy đưa / mai mốt chim bay về đất
hứa / đừng quên thuyền rệu băi lau thưa
mừng em vừa cập
bến b́nh an / thoát tay hải tặc với sài lang / mai
mốt khi em vào đất mới / nhớ chiêu hồn bao
kẻ chết oan
mai mốt em về Washington/ Paris, Melbourne hay London/
những thủ đô tưng bừng ánh sáng/ cũng đừng
quên phố cũ Sài G̣n
mai mốt bơi thuyền trên sông Seine/ vượt
Hudson hay xuôi ḍng Thames/ hăy nhớ về sông ng̣i đất
tổ/ nào Cửu Long, sông Nhị, sông Tiền
mai mốt em trèo Everest/ Phú
sĩ sơn hay đỉnh Mont Blanc/
cũng
đừng quên núi rừng quê mẹ/ dăy Trường
Sơn cùng ngọn Thất Sơn
mai mốt chơi trên
hồ Leman/ hồ Torrents hay Michigan / em hăy nhớ tên hồ
Than Thở/ và đừng quên lịch sử Hồ
Gươm
mai mốt em từ cảng
Marseilles/ San Francisco hay Sydney/ những bến cảng tân
kỳ rộn rịp/ xin đừng quên bến Nghé
đọa đày
mai mốt cùng ai đi
tắm biển/ Darwin, Long Beach, Saint Tropez / đừng quên
dọc bến tàu Long Hải/ xác người vượt
biển đă trôi về
mai mốt từ phi
trường Bangkok/ Berlin, Seattle, Orly/ em hăy nhớ về Tân
Sơn Nhất/ một thời tấp nập cảnh chia
ly
mai mốt xem kỳ quan
choáng ngợp/ nhà chọc trời, lăng tháp lừng danh/ em
hăy nhớ lều tranh vách đất/ vẫn âm thầm bên
lũy tre xanh
mai mốt nhiều phen em
sẽ nếm/ món ngon vật lạ bốn phương
trời/ em hăy nhớ từng hương vị cũ/ cái
nem, tô phở, ngọn rau mùi
mai mốt xem kỳ hoa
dị thảo/ hẳn trong tiềm thức ngát hương
xưa/ hoa ngâu hoa bưởi đầy tinh khiết/ cùng
vị sầu riêng vốn đậm đà
mai mốt làu thông bao
thứ tiếng/ Pháp, Anh, Ư, Đức...của quê
người/ em nhớ trau dồi thêm tiếng mẹ/ từng
ru em ngủ thuở nằm nôi
mai mốt tha hồ em thán
phục/ rừng văn tuyệt tác của năm châu/ em
chớ quên nguồn văn hóa Việt/ ngọt ngào cổ
tích, đẹp ca dao
mai mốt quen tai ḥa tấu
khúc/ nhạc Jazz, nhạc Rock, nhạc Disco/ đừng quên
từng điệu ḥ dân tộc/ đàn nguyệt, đàn
tranh với nhị hồ
mai mốt kinh qua nhiều
lễ hội/ vui tai lạ mắt của phương xa/ em
quên sao được ba ngày Tết/ mặn ṃi truyền
thống của ông cha
mai mốt em lưu lạc
xứ người/ bao màu da sắc tộc nơi nơi/
xin em hăy nhớ về quê Việt/ nhiều thương
đau và lắm nổi trôi
mai mốt từ đâu trên trái đất/ tim em hăy hướng về quê hương/ mai mốt vui vầy nơi đất khách/ đừng quên một góc Thái B́nh Dương !”
Đynh Hoàng Sa
Quư ơi, bạn nhắn gởi cô học tṛ Phương Thảo thân thương của bạn, một loại “cỏ thơm thôi ngát phương này” (ĐHS), v́ “vụt hóa thân thành cánh vạc bay”...(ĐHS), nhưng tôi nghe ra bạn nhắn gởi đến tôi, đến chúng tôi. Những lưu dân xa xứ. Chân thành tạ ơn bạn. Chúng tôi chưa quên và chẳng bao giờ dám quên những h́nh ảnh gợi nhớ trong bài thơ thiết tha chân t́nh của bạn. Đúng hai mươi mốt năm rồi chúng ta không nh́n thấy nhau. Nhớ ứa nước mắt. Tôi giở album nh́n sững tấm ảnh có tôi, có bạn, có Hà Nguyên Thạch, có Nguyễn Nho Sa Mạc. Tấm ảnh chụp ở hiệu Lê Hậu vào tháng 8 năm 1963. Đă 43 năm, tôi c̣n giữ nguyên vẹn, không ố nổ một vết nào. Nh́n mặt chúng ta non dại, thật dễ thương.(xem ảnh ở phần Nguyễn Nho Sa Mạc). Bạn và Sa Mạc đă ra đi, Tôi và Đồng mỗi đứa một nơi, 21 năm không liên lạc. Sự hờ hững này phần lỗi về tôi, thiếu nhiệt t́nh t́m kiếm. Nhưng nay mai tôi hy vọng sẽ t́m được số điện thoại của Đồng, gọi để nghe nó chửi vài câu cho đủ sống lại những ngày xưa. C̣n bạn, bạn bỏ đi đâu vậy ? Tôi c̣n nhớ bạn thường nói, đại khái: Thơ là một vùng trú ẩn. Một vùng trú ẩn hoang đường của thần tiên. Khi đuối ḷng sẽ vào đó nghỉ ngơi, thay nhiên liệu. Vậy mà bạn bất ngờ ra đi, bỏ cái vùng trú ẩn thần tiên lại cho ai ? Giờ tôi biết t́m bạn nơi đâu ? Câu hỏi rất cải lương mà thật t́nh. Kỹ thuật viễn thông ngày một tiến bộ, có giúp chúng ta thêm đôi lần đấu láo ? Âm Dương đâu có bao xa. Dù sao bạn cũng nên ghi sẵn số phone của tôi. Đây nhé, gọi đến nhà: 514-525-6409, gọi qua di động: 514-588-6409. Khuya nay, nếu thuận tiện, bạn gọi tôi. Bây giờ, tôi sẽ làm ngay mấy câu thơ, chờ gặp nhau tôi sẽ đọc cho bạn nghe, như ngày bạn ghé 22 Lê Lợi Sài G̣n năm nào. T́nh thân. 06 Avril 2006.
Ghi thêm: 1/ chân thành cảm ơn anh Ng. Phương Tuấn. Xin lỗi anh mang họ Nguyễn hay họ Ngô ? Họ Ngụy là họ chung của chúng ta, sau 1975 rồi. Chúc anh vui vẻ. LH.
2/ vào 23giờ ngày 8-4-2006 tôi gọi đến nhà Hà Nguyên Thạch, qua số phone 01184-64.834.125, do họa sĩ Nguyên Hạo cho. Ông nhà thơ chở vợ đi chợ. Bà chị vợ cho số điện thoại cầm tay 011849-19.505.140. Gặp. Đồng hiện biên tập cho vài tờ báo ở Sài G̣n và một nhà xuất bản, tương đối ổn định. Anh không giữ được ǵ của Đynh Hoàng Sa.