Phan Nhự Thức Đốt Tuổi T́m Vui

 

 

 

1.

 

          Từ Lăng Cha Cả, cơn mưa nhẹ hạt theo chân chúng tôi đến cổng số 1 quân trường Bộ Binh Thủ Đức th́ dứt hẳn. Tờ nhật báo Tự Do và bao thuốc lá ruby vẫn nằm ngoan trong bàn tay phải. Nhưng “gói hành trang bọc nylon” kẹp dưới nách trái suưt rơi khỏi người tôi khi chiếc GMC vừa quay đầu, vừa thắng gấp trước sân văn pḥng Liên Đoàn 1.

          Đêm. Bóng tối đậm đặc. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng á khẩu. Đám người lố nhố hai bên thành xe cũng câm lặng. Bất ngờ, đâm ngọt xớt vào cái đêm hè mênh mông, tiếng gọi hỏi mềm gọn:

          - Có Luân Hoán đây không ?

          Tôi thót giật ḿnh, chưa nhận biết ai gọi. Chân vừa chạm đất, những h́nh phạt dằn mặt đă chen nhau lấn tới, tôi không dám mất tập trung. Bài học đầu ở quân trường thơm mùi đất ẩm.

 

          Rất vừa ḷng với ḿnh, không rơi vào những lời xúi ra tranh chức sinh viên báo chí đại đội, tôi giấu luôn những viết lách lăng nhăng ở chặng đời dân sự vừa qua. Nhưng chẳng được mấy ngày, cái giọng hỏi: “có Luân Hoán đây không ?” t́m đến. Lần này tôi đă đánh hơi ra cái mùi núi Ấn sông Trà và nh́n thấy rơ cái vóc dáng thấp nhỏ của một người bạn thơ chưa quen: anh Mê Kung. Lần đầu gặp anh, tôi nghiêm chỉnh chào tay đàng hoàng v́ anh thuộc khóa 23, đàn anh.

          Mê Kung tên thật Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1943 tại Đà Nẵng. Học hết cấp tiểu học, anh về quê nội, Quảng Ngăi học tiếp bậc trung học. Bắt đầu làm thơ từ giữa thập niên 60.

          Ở quân trường, Mê Kung làm thơ nói về đời sống quân ngũ, và viết nhật kư quân trường đều đặn mỗi tháng cho tạp chí Bộ Binh. Ngoài việc sáng tác, anh c̣n lo t́m, mời những tay viết vừa nhập khóa 24. Với bản tính vui vẻ, cung cách mềm mỏng, Mê Kung dễ dàng trở thành bạn của nhiều người. Mê Kung cùng Cao Thoại Châu là hai ngươi bạn thơ thân nhất của tôi trong thời điểm này.

          Nhiều lần tôi và Mê Kung ngồi sáng đêm ở khu gia binh Thiết giáp. Cũng không ít lần chúng tôi lang thang ngoài chợ Tăng Nhơn Phú. Mê Kung không mấy khi đề cập đến chuyện trai gái. Với anh, lúc nào cũng đầy ắp chuyện làm thơ, làm báo. Cởi mở và chân t́nh là hai đức tính đă giúp Mê Kung cứu văn được tính ưa chuộng h́nh thức, có ít nhiều khoe khoang của anh.

 

          Rời KBC 4100, Mê Kung về phục vụ ở tiểu khu Quảng Ngăi. Làm việc ngay tại ṭa tỉnh. Bút hiệu Mê Kung thường bị bè bạn chọc ghẹo, nên anh đă dùng họ của mẫu thân, khai sinh một bút danh mới: Phan Nhự Thức. Khi tôi chọn về Sư Đoàn 2 Bộ binh và có mặt tại Quảng Ngăi, bút hiệu mới của anh đă được tŕnh làng, qua những bài thơ anh đăng trên một số tạp chí ở Sài G̣n.

          Phan Nhự Thức đă đưa tôi về ra mắt mẫu thân và mấy người em gái của anh. Gia đ́nh anh sống trong một căn nhà cao ráo, có gác, trên đường phố dẫn vào thị xă. Con đường này cũng là một khúc thân thể của quốc lộ số 1. Thân mẫu anh phúc hậu rất quí mến bạn của con. Mấy người em gái anh rất xinh, nhất là Hồng. Tôi được gia đ́nh anh mời tạm trú, không phải đóng tiền nhà. Nhưng tôi không cho phép ḿnh hưởng ưu đăi này.

          Tại Quảng Ngăi, ngoài Phan Nhự Thức, tôi c̣n có một số bạn cũ như Trung úy  Huỳnh Bá Dũng (ban 3 sư đoàn 2), Trung úy Trần Hữu Lân (ban 4 sư đoàn 2), nhà thơ Đynh Hoàng Sa (dạy tại Trung học Trần Quốc Tuấn), nhà thơ Hà Nguyên Thạch (dạy trường Nữ Trung Học), nhà văn  Vương Thanh (Trung úy, tiểu khu Quảng Ngăi), Trung úy Lê Văn Nghĩa (Chi đoàn phó Thiết Giáp), họa sĩ Nghiêu Đề. Những người bạn mới tôi được quen biết: nhà biên khảo Phạm Trung Việt, nhà thơ Minh Đường, nhà thơ Trần Thuật Ngữ, Trung úy Trần Anh Lan, nhà thơ Khắc Minh, họa sĩ Phạm Cung, anh Đào Đức Nhuận...Tất cả những người bạn cũ, mới đó đều nồng nàn với sinh hoạt văn học nghệ thuật giữa một thành phố đồng phục màu ô liu, nhung nhúc quân xa, súng đạn đủ loại. Thành phố Quảng Ngăi trong thời điểm này trông giống như một thị trấn trong phim cao bối. Vẻ thanh b́nh cùng đến với mặt trời. Mặt trận sẵn sàng mở ra cùng lúc với bóng đêm. Tiếng nổ và máu gần như là những chất liệu căn bản của thơ văn. Hơi thở t́nh lứa đôi chỉ là một thứ nước hoa

làm nhẹ đi phần nào mùi tanh của cuộc chiến. Trong cái không khí ấy, nếu không tham dự hành quân, tôi thường cụng ly với đám bạn hữu tại khu Trùng Khánh, nơi tôi cùng Châu Văn Tùng, Nguyễn Văn Pháp, Trần Mỹ Lộc có thuê một pḥng trọ. Phan Nhự Thức không chiều nào vắng mặt. Anh đến, anh đi trong bộ quân phục ủi hồ, tay xách cặp da, lúc nào cũng nghiêm chỉnh, bận rộn. Anh vẫn cồng kềnh quan trọng như những ngày c̣n trong quân trường, mặc dù trong cặp anh, có lần anh mở để khoe với tôi, chỉ vỏn vẹn vài ba bài thơ viết chưa xong, một tập giấy mỏng, đôi ba cây bút màu. Không có hồ sơ hành chánh, không có văn bản quân sự nào liên quan đến nghề tay phải của anh. Các bản thảo của Phan Nhự Thức thật tốt số, luôn luôn nằm thẳng thớm trong cặp da.

 

          Phan Nhự Thức là người thích sinh hoạt. Nhờ có anh đứng ra vận động xin tài chánh, chúng tôi cùng nhau thực hiện được tạp chí Trước Mặt, một tạp chí văn học nghệ thuật đúng nghĩa đầu tiên tại Quảng Ngăi. Tờ báo ra hàng tháng, kéo được chín, mười số th́ đ́nh bản. Tiếp nối Trước Mặt, Phan Nhự Thức điều hành tạp chí Tập Họp. Tiếc rằng cũng chỉ tập họp được năm , sáu lần chi đó rồi im lặng tan hàng.

          Trong thời gian làm báo, Phan Nhự Thức đă chọn lựa trong số bản thảo của anh đủ một số bài ưng ư để hoàn thành một tác phẩm đầu tay. Cũng như nhiều bạn văn khác, Phan Nhự Thức có những băn khoăn , lưỡng lự. Thói xấu ưa xúi giục, đốc sử của tôi có dịp ba hoa: “Làm thơ  chủ yếu là t́m vui, dẫu thú vui này tiêu pha của ḿnh một số tuổi đời, nhưng đă chơi, c̣n ngại ǵ” Như thêm một giọt nước cho tràn ly, Phan Nhự Thức mạnh dạn cho in tập Đốt Tuổi. Tên tập thơ do chính tôi chọn cho anh. Nhiều bạn chê thiếu thi vị, nhưng Phan Nhự Thức rất vừa ḷng. Càng làm thơ càng mau già, tuổi cũng là một đơn vị của thời gian, đem tuổi ḿnh ra đổi lấy thơ, không là đốt th́ là ǵ? Thi phẩm Đốt Tuổi tuy không vang được tiếng vang khắp nước, nhưng trong lănh địa Quảng Ngăi, nhờ nó, Phan Nhự Thức sáng lên rất nhiều.

 

          Sau ba lần có chiến thương cùng anh dũng bội tinh, tôi bị chơi đẹp một lần nữa. Tội nghiệp, lần này tôi cúng luôn một bàn chân. Khi chống nạng đứng giữa sân nhà Khắc Minh vào một ngày đầu xuân, tôi đă khóc ngon lành. Những giọt lệ tôi chảy ra không hẳn v́ xót phận, tủi thân mà v́ những giọt lệ của Vương Thanh, Phan Nhự Thức, Khắc Minh có mặt hôm ấy, rủ rê, không cầm được. Bạn của tôi, những người đang mặc quân phục, nhưng vẫn giữ được những trái tim mềm ướt, trẻ thơ thế ấy. Cảm tạ đất trời. Riêng Phan Nhự Thức, trong một hơi thơ dài, truy niệm cho nén chân trái tôi, có những câu:

          Rượu đâu xin hăy tiếp/  hỡi bằng hữu đêm nay / trời bồng bềnh nghiêng ngả /bàn ghế say ngất ngây / ai cười nghe vỡ đấ /t hay ta khóc chẳng hay ?/ ôi trong men chếnh choáng / ta bỗng nhớ thương mày / giờ tàn đêm sắp sáng /ta say ngươi có hay / hỡi Luân Hoán, Luân Hoán /  nên buồn hay vui đây ?

     

          Ôi đêm nay một ḿnh /  trên gác cao / Nghiêu Đề bỏ lại /  tao nh́n rơ bàn tay mày /một lần đấm vai tao /không thù oán / ôi cái đấm của t́nh thương yêu /  tao nhớ ra cùng nước mắt..”.

                              (Chia Buồn, chia vui -Phan Nhự Thức- NHCBCT)

 

          Th́ ra, tôi đă có lần, v́ lư do ǵ đó, tức giận, không kềm nổi bản tính vơ biền, vũ phu của ḿnh. Nhớ măi không ra. Lỗi phải thế nào cũng là điều đáng ân hận. “cái đấm của t́nh thương yêu” sao mà đáng ngờ quá. Nhưng bạn tôi, Phan Nhự Thức, đă độ lượng, thi vị như thế, tôi c̣n làm được ǵ hơn là xin lỗi và cảm ơn anh.

          Sau ngày tôi từ giă bờ xe gió, cửa đông Sư đoàn 2, các bạn tôi ở Quảng ngăi nghiêng nhiều về hoạt động chính trị. Nhà thơ Hà Nguyên Thạch gia nhập đảng Dân Chủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để giữ chức Phó Chánh sở Học Chánh. Nhà văn Vương Thanh (tên thật Trần Hữu Huy) cùng Phan Nhự Thức trở thành nghị viên thành phố. Hoạt động đẹp nhất của đám bạn tôi là thành lập được trường trung học Quảng Ngăi Nghĩa Thục, dĩ nhiên có sự giúp đỡ nhiều mặt của nhiều tấm ḷng khác, đặc biệt là anh Nguyễn Liệu. (Anh Liệu tôi được nghe Phan Nhự Thức nhắc và nói đến nhiều, nhưng tôi chưa được gặp lần nào). Trường được xây dựng khang trang, rộng răi. Ngày khai giảng đầu tiên, tôi được các bạn mời vào chia vui, mặc dù vết thương của tôi mới vừa kín miệng, c̣n trong giai đoạn băng bó.

 

 

          Phan Nhự Thức và Khắc Minh lo cho tôi đủ điều trong lần tôi vào thăm Quảng Ngăi này. Một cuộc t́nh tôi có được với một bóng hồng ở cửa đông, hoa khôi trường nữ, đă chính thức đi qua. Đôi mắt Ba La ấy cùng nụ cười ở lại, núp trong vài luống thơ được bao lâu ? Đêm về mau, nằm giữa tôi và Phan Nhự Thức trong căn pḥng ở 43 Phan Bội Châu thân quen là một cơi thơ xa lạ. Phái đẹp ai không là thơ ? Trong tiếng ngáy nhẹ của Thức, tôi trăn trở thấy lại mọi nơi, mọi vật, để rồi tự thấy ḿnh đă rất khác, rất lạ với mọi thứ chung quanh. Phan Nhự Thức không có nhiều háo hức về sinh lư, tôi độ chừng như thế. Sáng ra mới biết ḿnh lầm. Anh chỉ nhường ưu tiên cho bạn anh. Một người bạn đă có ít nhiều khác với sự lành lặn b́nh thường của anh.

 

          Cuộc sống không chậm bước. Tôi về Đà Nẵng  tiếp tục làm thơ lăng nhăng phản chiến, lẩm cẩm t́nh yêu trong các bàn tay đỡ dậy của Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế Mỹ, Vĩnh Điện trong lúc Phan Nhự Thức, Đynh Hoàng Sa trở thành kư giả cho vài nhật báo ở thủ đô Sài G̣n. Tôi được tin Phan Nhự Thức lập gia đ́nh với một cô gái có quan hệ phụ tử với nhà văn Chu Tử. Cuộc t́nh duyên của anh chấm dứt cùng lúc với chế độ anh phục vụ. May mắn cho anh chỉ đi tù ngắn hạn, một điều rất lạ. Có lẽ “ơn huệ” này đă làm anh không hội đủ điều kiện để trở thành một ông H.O sau này.

 

          Những ngày chờ đợi qua nước người, tôi được gặp Phan Nhự Thức thầm lặng, phất phơ tại Sài G̣n. Buổi tiệc tiễn chân tôi, anh vẫn chứng tỏ sự nhẹ nhàng, thanh thản của một tâm hồn đang bị ruồng bỏ. Đi cùng nụ cười rất trẻ thơ là hàm răng chắc mà anh vẫn phàn nàn: “đánh ră tay, không thấy trắng” là những ǵ vẫn đọng sáng trong gia tài kỷ niệm về Phan Nhự Thức.

          Trong mười mấy năm xa đất nước, tôi biết tin về Phan Nhự Thức rất ít. Một đôi lần hoạ sĩ Hoàng Trọng Bân, c̣n kẹt ở Sài G̣n cho biết Phan Nhự Thức đă lập lại gia đ́nh và có được một đứa con. Tôi rất mừng cho anh nhưng vẫn không liên lạc được. Bân cho biết gia đ́nh Thức sinh sống bằng nghề bán bún ḅ bên lề đường quanh cư xá Tô Hiến Thành. Nhưng địa chỉ th́ không rơ. Tôi không biết thời gian này Thức đă mua được hộ khẩu làm thường dân tại thành phố chưa ? Không nắm được hộ khẩu (một loại giấy tương tự như tờ khai gia đ́nh) trong tay chắc chắn sẽ bị “hậu khổ” dài dài, dễ ǵ có một địa chỉ chắc chắn để liên lạc thư từ. Hơn nữa chạy ăn từng bữa đă là một vấn đề, hơi đâu lăng mạn phí tiền tem thư, giữa thời buổi quốc nội, hải ngoại c̣n dày đặc những thám thính, ŕnh ṃ, đánh hơi. Phan Nhự Thức lại là người rất tự trọng, không hề nói đến cái tôi của ḿnh, không mấy lo lắng cho chính bản thân anh. Sau sự ra đi vĩnh viễn của Vương Thanh và Đynh Hoàng Sa, tôi bất ngờ nhận tin Phan Nhự Thức ĺa đời qua điện thoại từ Thái Tú Hạp ở Hoa Kỳ. Tin buồn này làm tôi lững lờ suốt cả ngày. Nguyễn Khắc Ngữ, sử gia. Hoàng Xuân Giang, Hoàng Phúc, nhạc sĩ cũng đă v́ ung thư bỏ cuộc, nay thêm Phan Nhự Thức. Cơn bàng hoàng chưa qua khỏi, sáng hôm sau Trần Hoài Thư gọi tiếp, khuôn mặt Phan Nhự Thức lại hiện lên vẫn với nụ cười nhưng sao cứ méo dần về một bên rồi nhạt nḥa chia xa. Trời đang có tuyết bụi, cái lạnh chợt đậm hơn. Tôi ra xe chạy miết mấy giờ liền, không mục đích, không điểm đến, nhưng không qua khỏi “cái làm sao ấy” ở trong ḷng.

          “Khuôn mặt héo, lưỡng quyền nhô cao, đôi mắt đục, mái tóc bù rối, hai hàm răng chỉ c̣n lợi, chiếc lưng c̣ng, dáng người thấp nhỏ, khô đét...” là Phan Nhự Thức dưới nét họa bằng ngôn từ của họa sĩ Khánh Trường, khi anh có dịp ngồi cụng ly với Phan Nhự Thức, chỉ cách mấy tháng trước tác giả Đốt Tuổi qua đời. Phan Nhự Thức chết không chỉ v́ bệnh ung thư ở cổ, mà cả cuộc đời anh bị ung thư, như một bạn văn của anh đă nói. Dù cố gắng thả ngọn bút “bằng tất cả nghị lực và niềm tin:” Phan Nhự Thức hẳn không thể giấu được chính ḿnh đang đứng trước lối cụt tuyệt vọng. Giữ được đến cuối đời ḷng thanh thản, tính tự trọng không phải là việc dễ làm. Mừng cho bạn đă ra đi. Tiếng nói của bằng hữu dẫu vượt được ngàn dặm lănh thổ cũng chắc ǵ vượt qua được ngh́n trùng âm dương để cho ḷng bạn có vài giây ấm lại. C̣n làm được ǵ hơn ngoài thắp một nén hương không khói, không lửa này. Vĩnh biệt.

 

 

2.

 

          Người chết sẽ về đâu ? Đến đâu ?  Có thật có âm phủ với những chín tầng địa ngục ? Cầu Nại Hà có thật chăng ? Ngục A Tỳ có thật chăng ? Những Dạ Xoa, quỉ sứ sẽ làm những ǵ ? Có bắt tập họp điểm danh ? Có bắt khai lư lịch ba đời đầy đủ như những ngày sau tháng 4 năm 1975 tại Việt Nam? Người chết, dù thế nào, có lẽ cũng không có th́ giờ để nghĩ, để nhớ về những người bạn xưa. Nhưng với người sống, chuyện này vẫn thường được lặp lại, nhất là khi tuổi đời vượt qua ngưỡng cửa 60. Cá nhân tôi từng ngồi lẩn thẩn điểm danh bè bạn. Bằng hữu tôi có được trong thời kỳ tôi làm dân Quảng Ngăi, những ai c̣n ai mất ? Hà Nguyên Thạch, vinh hiển rồi bầm dập, bây giờ đang neo chân tại Vũng Tàu. Đynh Hoàng Sa đă ra đi v́ tim mạch trở chứng. Vương Thanh đă bỏ quên Khu Rừng Mùa Xuân vĩnh viễn. Huỳnh Bá Dũng, Phan Nhự Thức, Nghiêu Đề, Trần Mỹ Lộc, Lê Văn Nghĩa, Minh Đường...nối thêm dài danh sách tử vong.  Với không quá 13 người bạn thân quen, tôi đă đánh mất 7 người. Rồi c̣n tiếp tục mất những ai ? Không có sự ra đi nào thiếu nỗi ngậm ngùi. Nhưng cái chết của Phan Nhự Thức có phần chua xót hơn. Sự đau đớn không nằm ở chuyện tử vong, mà nằm ở những ngày cuối chặng đời anh. Trong năm 2000, nhà văn Vũ Uyên Giang, sinh sống tại North Carolina USA có gởi tặng tôi mấy số tạp chí Đất Sống. Tôi băt gặp trong số 1 phát hành vào tháng 4 năm 2000 bài viết Nén Nhang Thắp Muộn của nhà văn Uyên Thao (Vũ Quốc Châu), một cây bút đă nổi danh trong làng báo, làng văn miền nam với các tác phẩm Nhũng Con Cọp Giấy Cháy Nóng, Trống Trận, Trong Ánh Lửa Thù, Thơ Việt Nam Hiện Đại vv.... Trong bài viết, nhà văn Uyên Thao nhắc qua một vài người vừa ra đi như nhạc sĩ Văn Phụng, nghệ sĩ Hoàng Thư... để rồi viết rất kỹ, rất cảm động về Phan Nhự Thức.

      

          Uyên Thao nhắc lại lần đầu tiên Phan Nhự Thức đến thăm anh tại cư xá Thanh Đa, sau ngày anh được ra tù, năm 1987. Lúc đó theo anh kể, Phan Nhự Thức đă  “xọm hẳn đi” tạo cho anh cái cảm tưởng Phan Nhự Thức “đi đứng không vững”nhưng vẫn hết ḷng giúp đỡ bạn bè. Thức đă hứa sẽ liên lạc với anh Nguyễn Liệu, để vận động giúp đỡ Uyên Thao.

          Những tiết lộ của nhiều bạn văn đă cho chúng ta thấy một phần đời của Phan Nhự Thức sau tháng 4-1975, được ghi lại trong bài viết của Uyên Thao:

          Họa sĩ Đằng Giao xác định việc bán bún ḅ ven đường để sinh sống của Thức là có thực, khi anh chỉ rơ cho Uyên Thao địa điểm Thức hành nghề:

 

-“Ô, bây giờ nó bán bún ḅ bên bờ đường ở khu cư xá

Tô Hiến Thành. Ông cứ chạy xuống con đường đâm sang khu Lữ Gia nh́n kỹ là thấy”

 

           Nhà văn Nguyễn Thụy Long th́ mách với Uyên Thao:

 

          - “Nó bị ung thư. Không biết đứa nào nói với tao là nó nằm bệnh viện Nguyễn Văn Học. Tao chạy đến t́m nó ngay. Ít ngày sau th́ nó chết”

         

          Nhưng tiết lộ của nhà văn Thế Phong cùng Uyên Thao mới là những điều vô cùng chua xót. Tôi xin được phép trích một đoạn dài của nhà văn Uyên Thao:

 

          ... “Nhưng tôi không thể xua đuổi khỏi đầu một chi tiết trong những ngày cuối đời của Phan Nhự Thức. Điều này tôi đă biết một phần qua Thế Phong và bây giờ Nguyễn Thụy Long kể. Tôi nhớ lại lần gặp Phan Nhự Thức và một nhận xét của tôi khi đó. Tôi thấy anh không ưu tư chút nào về bản thân. Th́ ra đó là thời gian anh tin chắc ḿnh sẽ xuất ngoại.

          Anh ra tù mấy năm nay và như nhiều người khác, anh đă nộp hồ sơ theo diện HO. Với tư cách người của chế độ cũ - vừa là sĩ quan vừa là nghị viên Hội đồng tỉnh- lại dư điều kiện bị tù 3 năm, nên anh chỉ c̣n chờ ngày phỏng vấn để chấm dứt mọi thủ tục. Niềm tin của anh trở thành trái bóng xẹp hơi đột ngột.

          Trong ngày phỏng vấn mà anh chờ đợi với tất cả tin tưởng, anh đă đối diện với nụ cười khinh miệt của người phỏng vấn anh. Người đó quăng trả anh tờ giấy ra trại kèm theo lời phát biểu:

         - Gần hai ngàn năm nay, tôi chưa thấy tháng Hai nào có ngày 30 cả. Ông mua tờ giấy này ở đâu ?

          Lúc đó Phan Nhự Thức mới phát giác ngày tháng ghi trên giấy ra trại của anh là 30 tháng 2. Anh xác nhận đây là giấy thực và việc ghi ngày lầm lẫn chỉ do tŕnh độ hoặc sự ơ thờ của người làm giấy. Hơn nữa, chi tiết này chẳng đáng ǵ so với thực tế cuộc sống của anh. Nhưng anh không lay chuyển nổi ư nghĩ của người phỏng vấn khăng khăng nói anh xài giấy giả. Tất nhiên anh bị từ chối. Không ra đi là điều thất vọng, nhưng nỗi đau của anh là nụ cười miệt thị của người kia. Tôi nghĩ về phút cuối của anh và cảm thấy khó chịu.

         Nguyễn Thụy Long chỉ diễn tả phút cuối đó bằng mấy lời đơn sơ: “Ít ngày sau nó chết”. Tiếng chết đă được ném ra, không c̣n ǵ để nói thêm nữa. Nhưng trước đó một giây, trước đó một ngày, trước đó nhiều ngày, Phan Nhự Thức đă sống với tâm trạng nào, với ư nghĩ nào ? Tôi thấy Thức khó dứt nổi nỗi đau từ lúc rời địa điểm phỏng vấn tại văn pḥng ODP. Khi kể với tôi chuyện này, Thế Phong nói:

         - Nó không khiếu nại, cũng không thèm đi xin xác nhận không phải giấy ra trại giả . Cái thằng thật lạ!

          Lúc đó, tôi không kịp nghĩ về cách giải quyết của Thức, nên chỉ nói với Thế Phong:

         - Khiếu nại cũng chẳng dễ ǵ !

          .....

          (Uyên Thao- Nén Nhang Thắp Muộn- Đất Sống tháng 4-2000)

         

         Thức ơi, Thức ơi, sao lại có thể như thế được ? Lúc được thả tự do chắc hẳn mày quá xúc động, quá mừng rỡ, quên cả việc đọc bản văn giấy phóng thích, giấy trả lại quyền làm người, dù sau đó những quyền căn bản mày không chắc có. Tao tin mày đă đọc tờ giấy “cực kỳ” quan trọng kia rất kỹ với ít nhất vài ba lần, với niềm vui vô hạn. Làm sao có thể phát hiện một lầm lẫn t́nh cờ hay cố ư như thế. Dù cố ư hay t́nh cờ cũng là điều đáng trách. Tao nghĩ tao cũng không chắc phát hiện ra, nhưng vẫn thấy giận mày. Và khi đă bị ném trả, sao mày dễ dàng buông xuôi, không xin kiểm chứng, minh xác lại. Có phải mày thiếu “thủ tục đầu tiên” rất thịnh hành ở Việt Nam, nên đă bỏ qua...một chuyến rong chơi, đổi đời, mà mày xứng đáng được có. Ngay sau cái vấp đau đó sao mày im lặng, câm nín chịu đựng, không “than thở” cùng bè bạn. Những Hoàng Trọng Bân, Hà Nguyên Thạch, Cung Tích Biền, Lê Vĩnh Thọ, Huy Tưởng...ở đâu, mày không nhờ bè bạn góp ư, mách nước. Tao biết nếu chuyện này xảy ra cho bất kỳ  một bằng hữu khác, mày cũng sẵn sàng xăn tay áo vào cuộc để đ̣i lại công b́nh. Có thể mày bị sốc bởi những lời buộc tội thiếu suy ngẫm của viên chức có thẩm quyền cứu xét. Tao chợt h́nh dung được khuôn mặt tự măn, có văn hóa nhưng thiếu tinh tế và một chút t́nh người kia. Có thể chẳng nên trách giận ǵ ông ta, khi ông ấy cũng sống và hiểu rơ một xă hội mà mọi thứ đều có thể bỏ tiền ra mua, kể cả văn bằng đại học. Khi ông ta lên tiếng hỏi mày mua tờ giấy ra trại ở đâu là điều hợp lư. Ông ấy chỉ hơi ngu ngơ, hay cố t́nh thiếu thông minh, khi nhận định là giấy giả. Người cấp giấy giả, người xài giấy giả, tao nghĩ, bao giờ cũng cẩn thận, không thể để dính vào những lỗi lầm ngơ ngẩn như thế. Tao lại ngờ rằng, cơ quan cấp giấy cho mày, không phải thiếu tŕnh độ phổ thông, để viên chức phỏng vấn sau này, có cơ hội sung sướng phát hiện. Biết chừng đâu đấy là một cái bẫy, trước khi tha mày cho có vẻ nhân đạo. Cấp giấy cầm tay cho có khi tha, nhưng dùng nó vào một việc khác sau này là điều bất khả thi, có thể là cả một kế hoạch, có dự mưu. Có lẽ cần phải có tinh thần Tào Tháo trong cuộc sống tại Việt Nam.

          Nhưng bây giờ đă quá muộn. Tao xin dành vài phút ngồi lặng yên, để thấy lại mày ngày đầu đi t́m tao tại quân trường Thủ Đức. Ngày tao mới vào Quảng Ngăi, mày hớn hở bên cạnh. Dân Quảng Ngăi có lẽ đều là bà con họ tộc với mày, gặp ai mày cũng xuề x̣a:

          - Đây anh Luân Hoán...

Tao cũng không quên h́nh ảnh mày nhấp nhô trên cuộc t́nh một đêm hôm nào. Cả h́nh ảnh mày lăng xăng sắp xếp chỗ ngồi cho bạn bè trong quán đêm đưa tiễn tao...C̣n nhiều nữa, mày đă quên, nhưng tao vẫn c̣n nhớ rất rơ đây Phan Nhự Thức ơi. Nhân đây, tao cũng xin mày cho phép tao được chép ra đây đôi bài thơ mày viết sau này, mà tao mới được Thành Tôn cho đọc. Cảm ơn bạn hiền. Hăy tiếp tục làm thơ ở cơi âm nhé. Nhà xuất bản tài tử Ngưỡng Cửa của tao, không c̣n ở mức khởi hành với những Thắp T́nh của Thành Tôn, Đốt Tuổi của Phan Nhự Thức...đă nghỉ chơi rồi. Nhưng tao cả đời luôn thú vị với tṛ xuất bản, nên mày yên tâm sáng tác nhé. Nhớ viết thật kỹ những cuộc t́nh có với các ma nữ nhé. Dĩ nhiên không phải là loại ma nữ mày đă gặp thời c̣n huy hoàng làm báo và giữ chức nghị viên. Để lấy hứng mày nên đọc lại những bài thơ của chính mày sau đây. Thân mến.

          nhân danh thơ phục hồi ta và bạn /người bạn t́nh rong ruổi cơng trên lưng/ theo vạt nắng đầu ngày vừa nguyên đán / em cựa ḿnh da thịt bỗng vang lừng

           bởi khắc khổ ta một đời khép kín / em co ro gió tạt cuối hiên buồn / những nhát cuốc, ngờ đâu, tay bịn rịn / đất bật lên từng đóa lệ trào tuôn

           thôi hăy xếp khối t́nh sầu hữu hạn / hăy cùng ta túy lúy trận phong trần / đêm động pḥng rượu tràn qua xứ bạn/ một đường bay t́nh vút khỏi tay nâng /

          núm ngực hồng thở từng hơi thơm phức / buổi quay về hạnh ngộ cuối trời đêm/ta tóc bạc cũng nghe ḷng hừng hực / trời c̣n xuân ta c̣n lửa t́nh, em                (Cơi T́nh Xuân – PNT)

 

          Đă cạn ḍng thơ từ buổi đó/ buổi xa rừng chim cất giọng khan / chiếc lồng nhỏ đời giam bé nhỏ /cơi ngoài mơ là dấu chấm than

           đă hết thuở trăng sao xao xuyến / nắng bâng khuâng nhớ sáng thương chiều / mây thôi gọi, gió t́nh thôi hẹn / tháng năm qua đời xóa chữ yêu

          chỉ c̣n lại mẫu đời giản lược /ḥn sỏi kia giạt băi ngậm ngùi / phơi ḷng khô con kênh khô nướ / mặt mù sương vàng vọt tuổi người

           chỉ c̣n lại muỗi ruồi ve văn / nỗi buồn dài buồn tủi thịt da /mắt nâu thâm nửa đời chờ sáng / một người tù gối mộng xót xa

           tưởng như thế cho qua ngày tháng / bỗng một hôm trời trở nắng bâng khuâng / nỗi t́nh cờ vẫy tay lăng mạn / thơ từ đâu đậu xuống tim chàng

           tóc người bay lao xao dưới phố /tỏa hương thơm theo gió bay cao / gọi nỗi t́nh cơi ngoài sương gió /về nâng niu đời đă tiêu hao

          xưa làm thơ yêu em nắng dịu / mưa bay chưa ướt vở học tṛ / giờ làm thơ yêu em nắng gắt /mưa tạt ḷng lệ nhỏ chơ vơ

          dù có thế nào thơ vẫn thế / xin nâng ly mời rượu ân cần/ t́nh chếnh choáng bước lên cuộc sống /bồng em qua tay vẫy mùa xuân             (Thơ T́nh Trong Trại Cải Tạo – Phan Nhự Thức)

 

          Vẫn vạt nắng long lanh cùng gió mới / lá xanh tươi vươn đón buổi khai mùa / cây mai già trỗ hoa vàng phơi phới /giọng con cười thơm phức t́ếng chào thưa

          ta trằn trọc suốt đêm dài đợi sáng / dấu cơn đau vội vă mở tay choàng / Con lên 8 mắt cười tṛn khoan rạn / mừng tuổi con ta chúc chóng lớn ngoan

          đất dẫu cằn tre nguyện che măng mọc /bỗng vô t́nh định mệnh chém ngang vai /tre bật gốc rồi gió mưa tới tấp / mẹ d́u con lầm lủi trọn đêm dài

          trời đất măi xoay vần nên chẳng biết / xuân cứ về hoa nắng vẫn long lanh / mai nở vàng cây ?âm chồi lá biếc / có ngờ đâu mạch đất nứt tan tành

          tre chưa già đành chờ ngày bật gốc / cơi vô thường cơi độ lượng bao dung / biến đất ph́ nhiêu bón măng mới mọc / đóa tre xanh vươn trọn cuộc vô cùng

          thơ ta nguyện rạng từng lời khai bút / con xếp giùm tiền mừng tuổi đầu năm / quấn quít bên ta vẫn cười vẫn hát / dẫu nan y bệnh nghe nhẹ ta nằm

          mặt trời lên chiếu măng đời ngà ngọc / chim tập truyền vừa thả một tin vui / con hăy ra vườn, cao tay hái lộc / cắm vào thơ ta xuân đỡ ngậm ngùi “   

                                          ( Bài Thơ Cuối Cùng của Phan Nự Thức)