Bé Kư, Hồ Thành Đức,
một cặp “Song Kiếm Hợp Bích…”
Luân Hoán
Chừng một phút trước,
tôi vẫn có ư định chia gia tài kỷ niệm có
được với Hồ Thành Đức và Bé Kư thành hai
phần riêng rẽ. Nhưng khi bắt đầu gơ những
ḍng này, tôi chợt thấy không nên và cũng không thể tách
rời cặp song kiếm hợp
bích trong hội họa Việt
Xin lỗi, tôi đă vừa ví
von thiếu chính xác và vô duyên. Song kiếm hợp bích là một
bộ kiếm pháp tuyệt đỉnh, đ̣i hỏi một
đôi nam nữ, tâm đầu ư hiệp, cùng nhau hết
ḷng luyện tập mới đạt được kết
quả tốt. Trong bộ kỳ
thư vơ hiệp Thiên Long Bát Bộ, nhà tiểu thuyết lỗi
lạc của Trung Hoa, ông Kim Dung, đă cho hai nhân vật
Dương Quá và Tiểu Long Nữ luyện thành công bộ
kiếm pháp này trong một ngôi cổ mộ. Ngoài t́nh yêu, Tiểu
Long Nữ và Dương Quá chỉ cùng luyện chung một
bộ môn vơ thuật. Như vậy, Bé Kư và Hồ Thành Đức
chỉ có thể là song kiếm
hợp bích trong t́nh yêu, t́nh chăn gối. Ở lănh vực
hội họa, họ có trường phái riêng, sở
trường riêng. Tuy luôn luôn hỗ
trợ nhau trong nghệ thuật, nhưng họ hoàn toàn
độc lập khi thực hiện tác phẩm.
Bé Kư là một họa sĩ
thành danh với nghệ thuật carricature
gồm hoạt họa, kư họa, tốc họa… và tranh
lụa. Tài năng vô cùng đặc biệt này được
ra đời từ Hải Dương, miền bắc Việt
Con chim, con cá, con trâu, con gà…rồi
bụi cỏ, nhành cây, cục đất…rủ rê bàn tay của
một cô bé sớm biết nh́n ngắm, biết yêu thiên
nhiên. Trong một dịp được đi Hải Pḥng,
cô bé t́nh cờ đi ngang một pḥng tranh, và đă không
cưỡng được sự ṭ ṃ, cô ghé vào xem. Ḷng yêu
thích hội họa, đưa cô bé từ bạo dạn làm
người xem tranh đến việc xin phép vẽ thử.
Họa sĩ Trần Đắc, chủ nhân của pḥng
tranh đă thích thú chấp thuận, và sau vài lần thử tay nghề, ông nhận Bé Kư vào làm
học tṛ. Họa sĩ Trần Đắc đă mang kinh
nghiệm của ḿnh, dạy cho Bé Kư phương pháp vẽ
hoạt họa bằng ch́ than rồi đi dần qua màu sắc
trên lụa. Cô học tṛ càng ngày càng xuất sắc. Ngoài những
giờ ở xưởng vẽ, Bé Kư mang giấy bút dạo
khắp phố Hải Pḥng. Cô bé vẽ lại những h́nh
ảnh cô cho là ngộ nghĩnh, dễ thương, trong
đó cả những khuôn mặt của người ngoại
quốc. Chính những phác thảo chân dung linh động này,
đă thường xuyên mang lại cho cô bé những đồng
tiền đầu đời. Đương nhiên cô bé mang
cả về cho gia đ́nh người thầy. T́nh sư
phụ ngày một tốt đẹp và không lâu sau, Bé Kư
được chấp nhận làm con nuôi. Trong biến cố
lịch sử 1954, cô Nguyễn Thị Bé theo gia đ́nh cha mẹ
nuôi vào Sài G̣n.
Trong những năm đầu
của thập niên 60, không nhớ rơ năm nào, tôi đă
được gặp họa sĩ Bé Kư trên những trang
báo của tạp chí Thế Giới Tự Do. Tạp chí này
được xem là một tạp chí có h́nh thức đẹp
nhất thời bấy giờ, với giấy trắng tốt,
mực màu, do Pḥng Thông Tin Mỹ phổ biến. Những bản
vẽ của Bé Kư được in trang trọng bên cạnh
bài giới thiệu rất ưu ái về tranh và tác giả.
Tiếc rằng tôi không c̣n nhớ người viết. Cùng
thời gian này, những người Sài G̣n chắc không xa lạ
với h́nh ảnh một cô gái nhỏ nhắn, nhẹ
nhàng, thường lang thang qua nhiều ngă phố với những
tờ croquis đơn giản.
Trên tay cô, theo tháng ngày, nặng dần những h́nh ảnh
sinh hoạt đời thường của thị dân. Những
h́nh ảnh được lưu giữ, được
cho phép sống đời trên mặt giấy, qua một bút
pháp vô cùng riêng biệt và cũng vô cùng độc đáo. Tài
nghệ của cô gái thu hút mạnh mẽ sự thưởng
ngoạn của mọi người, đặc biệt là
những người ngoại quốc hiện diện trên
phố Sài G̣n. Bé Kư đă thổi vào từng đường
vẽ bay bướm nhưng đơn giản của ḿnh
cả tâm hồn thanh thản của chị. Sức sống
mộc mạc được chị phân phát, chia sẻ
trong từng hoạ phẩm. Đi từ đơn giản
chân phương này đến cái chân phương
đơn giản khác, chứ không vượt đến
cái trừu tượng, cao
siêu, nhưng tranh Bé Kư đứng vững được với
thời gian v́ nhờ cô đọng,
sống thực. Nét đặc thù này chính là cá tính của
tác phẩm Bé Kư.
Ngày 06 tháng 12 năm 1957, Bé Kư
được ông René de Berval, phê b́nh gia mỹ thuật cho
tạp chí France d’Asie (Sài G̣n) và Journal d’Extrême Orient, bảo trợ
cuộc triển lăm đầu tiên tại cơ sở Alliance
Francaise (Pháp Văn Đồng Minh Hội). Cuộc triển
lăm thành công về tài chánh, nhưng quan trọng hơn là có
giá trị như một sự khẳng định tài
năng của Bé Kư, người “Nữ Họa Sĩ Của
Vỉa Hè Đô Thành”, một biệt hiệu thân mật
được dân Sài G̣n dành
cho chị.
Từ năm 1957 đến
năm 1975, Bé Kư đă có đến 18 cơ hội khai mạc
pḥng tranh (16 lần tại Sài G̣n, 1 lần tại Pháp vào
năm 1959 và 1 lần tại Nhật Bản, vào năm 1969,
cùng với 9 họa sĩ khác quốc tịch). Sau 1975, chị
bày tranh chung tại Ba Lan vào năm 1984, và 8 lần tại
Hoa Kỳ, khi đă định cư tại Mỹ. Trong 8 lần
này, có hai lần được xem là rất quan trọng
trong việc đưa tên tuổi Bé Kư đi càng rộng
trong giới thưởng ngoạn của thế giới.
Cuộc Triển Lăm Quốc Tế
Women: Beyond Borders, tại Santa Barbara Contemporary Arts Forum
(California) với mục đích giới thiệu tiếng
nói hội họa của phái nữ toàn thế giới, được
tổ chức năm 1995, kéo dài đến năm 2000. Trong
năm năm, cuộc triển lăm này được di chuyển
qua một số quốc gia có họa sĩ được
mời tham dự: Mỹ, Do Thái, Nhật Bản, Á Căn
Đ́nh, Kenya, Úc, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, Thụy Điển,
Ư, Cu Ba, Pháp, Phần Lan. Bé Kư góp mặt trong cương vị
hội họa của Việt
Cuộc triển lăm không kém
phần quan trọng thứ hai có tên: “Cuộc Triển Lăm Quốc Tế
Về T́nh Yêu, Gia Đ́nh Và Niềm Tin” tại Johnson Art
Collection, vào ngày 23-9-2006 đến 21-10-2006. Chỉ có hai hoạ
sĩ Việt
Đề tài trong tranh Bé Kư
thường dung dị với các h́nh ảnh súc vật và
con người bao gồm những cảnh sinh hoạt, chân
dung. H́nh ảnh người mẹ được lưu giữ
rất nhiều trong tranh Bé Kư. Con gái út của chị, Hồ
Thị Hải Dương, một dược sĩ, viết
một đoạn tùy bút về người mẹ họa
sĩ của ḿnh, rất chân t́nh cảm động:
“Khi
nh́n thấy những tấm tranh mẹ con - chủ điểm
trong đề tài sáng tác của mẹ tôi, tôi biết rằng
mẹ tôi thương yêu các con vô cùng ! Mẹ tôi vạch một
đường cong là mắt mẹ nh́n lên, hai chấm
đen tṛn là mắt con ngước
nh́n mẹ. Đơn giản vậy thôi nhưng lại âu
yếm biết bao !
Mẹ tôi, người
đàn bà nhỏ nhắn, giản dị nhưng mang một
nét đẹp thuần túy của một phụ nữ Việt Nam, chân chất hiền từ
và đầy ḷng nhân hậu…
…Gia đ́nh tôi, từ
bố mẹ đến các anh chị ai cũng là họa
sĩ, nhưng riêng tôi lại theo một ngành khác hẳn –
Pharmacy, và gần như không có chút ǵ di truyền về
năng khiếu hội họa. Tôi có cảm giác ḿnh là “một
ngoại lệ bất đắc dĩ” ! Thế nhưng ,
cái tên Hải Dương của tôi lại gắn liền
với tiểu sử mẹ tôi v́ Hải Dương là quê
hương của bà. Hơn nữa, trời đă công bằng
để cho tôi được nối truyền một tài
nghệ khác ngoài vẽ ra, ở mẹ tôi- đó là tài nấu
ăn”
Ngoài bóng dáng sinh hoạt của
người mẹ, chúng ta c̣n bắt gặp ở tranh Bé Kư
những thiếu nữ qua nhiều dáng vóc, độ tuổi khác nhau, có cả những chân dung
khoả thân nhẹ nhàng, thanh khiết. Các tên tuổi lỗi
lạc trong giới sinh hoạt chữ nghĩa, âm nhạc,
hội họa… một số được sống đời
với nghệ thuật Bé Kư, có thể kể: Bùi Giáng, Vơ
Phiến, Văn Cao, Phạm Duy, Nguyên Sa, Du Tử Lê…Những
phác họa chân dung này đương nhiên khác hẳn với
lối vẽ truyền chân thường thấy ở những
người hành nghề vẽ chân dung chuyên nghiệp, đ̣i
hỏi sự giống nhau như nghệ thuật nhiếp
ảnh. Bé Kư chỉ ghi lại cái phong thái, cái thần và
đôi nét nổi bật của người được
vẽ. Trong số chân dung các danh tài vừa kể, tôi thích
nhất là bức phác họa thể hiện một người
đàn ông nổi tiếng yêu châu chấu, chuồn chuồn.
Ông tài hoa này cũng đă vẽ cả thiên hạ bằng
thơ:
“chân trời mộng mị vàng pha/ mùa Phương Lan
giậy bên tà dương buông/ vói tay sầu khổ hao ṃn/
đầu nghiêng rũ tóc miệng tṛn thơ ngây/ chiêm bao
dàn rộng phai ngày/ liễu in gịng rụng thu đầy hồ
phơi/ hào hoa tiếng lạnh trong lời/về trong vân thạch
em ngồi vén xiêm”
(Bùi Giáng, Sầu Lục Tỉnh, Mưa Nguồn)
Phải công nhận, sự
thành danh nhanh chóng của họa sĩ Bé Kư một phần
nhờ vào những người sưu tập hội họa
Âu châu, tiếp theo là những bài viết giới thiệu,
phê b́nh của nhiều tạp chí ngoại quốc như:
Le Journal d’Extrême Orient, The Yomiuri Shimbun, The Manila Times, Asiaweek,
The Orange County Register, Los Angeles Times. Về phía Việt
“…
Bút pháp của Bé Kư thuộc về đại chúng, đó là
một thứ nghệ thuật của quần chúng. Như
vậy, chẳng có ǵ đáng tiếc khi nghệ thuật của
Bé Kư chỉ ngừng ngang mức dân gian mà không đi xa
hơn nữa. Nếu chúng ta đă có những nguồn tranh
dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, tranh đỏ Kim Hoàng,
tranh làng Śnh ở Huế, th́ chúng ta c̣n có thêm một nguồn
tranh dân gian quư giá không kém chính là thế giới tranh Bé Kư.
Dĩ nhiên, tranh Bé Kư cao và thơ mộng hơn nhiều v́
nó là hơi thở thuần nhất của một nghệ
sĩ chân thành và tài hoa, độc đáo và sáng tạo. Một
gịng tranh dân gian của đại chúng như tranh Đông Hồ,
th́ hoàn toàn ngược lại, xoá hẳn cá tính v́ được
h́nh thành bằng nhiều thế hệ qua thời gian và lịch
sử.
Tôi chỉ muốn
nói tranh Bé Kư dừng ngang mức dân gian, bởi v́ bà không
được đào luyện về kỹ thuật và ư thức
hiện đại. Hơn nữa, bà cũng không có nhu cầu
ǵ về một ư thức nghệ thuật hiện đại.
Mà chính v́ thế, bà lại như có được một
lợi thế riêng biệt của ḿnh: tạo được
một thế giới rất đẹp, thấm đẫm
tâm hồn và hương hoa dân tộc…”
Ở đoạn cuối
bài viết, nhà phê b́nh Huỳnh Hữu Ủy bày tỏ:
“…Bé Kư là một
khuôn mặt nghệ thuật đầy bản sắc suốt
hơn bốn thập niên qua, với một cuộc hành
tŕnh đầy đam mê và rất thơ mộng. Trước
đây, Bé kư nổi bật với các hoạt động
vui tươi và đầy sinh khí của bà ở Sài G̣n, ở
miền
(Huỳnh Hữu Ủy, Mấy Nẻo Đường
Của Nghệ Thuật Và Chữ Nghĩa)
Tranh Bé Kư đương
nhiên được rất nhiều người trong giới
sinh hoạt văn học nghệ thuật bày tỏ những
nhận xét và hầu hết đều tán thưởng. Nhà
văn Vơ Phiến viết tám câu thơ tặng Bé Kư
“Bao
năm cách nước xa non/ mượn h́nh nương tiếng
lần con đường về/ lấy câu lục bát làm
quê/ trông tranh Bé Kư nghĩ tre đầu đ́nh/ nghe câu quan họ
Bắc Ninh/ sống bao xúc cảm ân t́nh chứa chan…
Đó đây thấp
thoáng quê hương/ những mảnh quê hương bên
ngoài bờ cơi/ những mảnh quê hương trong tầm
tay với/ những mảnh quê hương của giới
lưu vong/ ngh́n trùng vẫn núi vẫn sông”
(Những mảnh quê hương ngoài biên giới- Vơ
Phiến)
Nhà thơ Du Tử Lê, không tặng
thơ, ông viết mấy ḍng:
“
Tranh Bé Kư đơn giản, mộc mạc, như tâm hồn
chị. Một chấm đen thay cho con mắt. Một vạch
cong thay cho niềm vui hay nỗi buồn. Vậy mà, tài t́nh,
lạ lùng xiết bao, ở những nét bút đơn giản
kia, không ngừng dấy lên những rung động Việt
Nam, rất Việt
Tôi cho tranh Bé Kư là
dương bản hồn tính người mẹ Việt
(Du
Tử Lê tháng 12-1994)
Nhà phê b́nh văn học
Thụy Khuê cho rằng:
“
...Các họa sĩ thường bắt đầu từ
dessin rồi dựa vào dessin mới phóng ra các màu sắc khác
nhau. Bé Kư dừng lại ở dessin. Dường như bà
đă t́m thấy vùng đất Thánh và dứt khoát ở lại
thiên đường nguồn cội của ḿnh. Bà không lớn
nữa. Có thể nói Bé Kư- như cái tên lựa chọn có ư
tiền định của bà- đă lấy tuổi thơ
làm quê hương, dừng lại ở thời điểm
hàn vi, ngây thơ (naif) trong hội họa và trong đời.
Bé Kư là hiện tượng không già, rất độc
đáo trong hội họa Việt…
…Trong thế giới
hội họa Bé Kư , nhân vật, động vật và
tĩnh vật , rọi lọc qua ánh sáng giác ngộ, có những
nét hồn nhiên và ngây thơ. Từ con trâu, em bé, đến
chiếc xe thổ mộ, cái váy của người đàn
bà, chiếc khăn mỏ quạ, tóc vấn đuôi gà…tất
cả đều thoát ra một cái ǵ chân chất, rất
lành, rất mộc mạc như chưa từng có lớp
son màu ḷe loẹt nào bay đến làm ô uế, ô nhiễm
đi…”
(Bé
Kư, Nỗi Hoài Nhớ Niềm Vui Đă Khuất)
Trong bài bày tỏ cảm
nghĩ, nhân một cuộc triển lăm của Bé Kư
được Việt Art Gallery tổ chức năm 2004, của
ông Phan Gia Quang, có một đoạn, nhận xét rất tinh
tế:
“…Chúng
tôi rất lấy làm cảm phục khi thưởng ngắm
một bức tranh của Bé
Kư. Cảm phục bởi v́ qua một vài nét đan thanh thật
đơn giản, Bé Kư đă có thể truyền đạt
được cái chân thật của t́nh cảm một
cách sống động và thuần túy. Khi nh́n vào một tác
phẩm “Mẹ Con”, chúng tôi đă quên rằng ḿnh đang ngắm
một tác phẩm hội họa. Chúng tôi đă ch́m đắm
trong t́nh thương vô bờ bến, trong sự tŕu mến
xuất phát từ những nét mực đen, những màu sắc
giản dị và ấm cúng. H́nh ảnh những đứa
trẻ ngồi xem đá gà đă từ lâu được
chôn trong tiềm thức của một kẻ xa quê
hương. Bức tranh “Chọi Gà”, nay làm sống lại
những nét tinh nghịch, hồn nhiên của thời
thơ ấu…Đặc điểm của Bé Kư không nằm
ở chủ đề. Nó ẩn tàng trong cách vận dụng
những nét mực một cách tối thiểu để biểu
lộ t́nh người một cách tối đa. Nếu
tranh Nhật Bản có tính cách của thiền học, th́
tranh Bé Kư sẽ làm cho chúng ta liên tưởng đến tinh
thần biểu hiện bản chất và giữ sự chất
phác của Lăo giáo. Bé Kư, với những nét mộc mạc
nhưng không kém mỹ miều, đă tạo cho ḿnh một
vị trí biệt lập, độc đáo trong ngành hội
họa Việt
(Phan Gia Quang)
Tất cả những ư kiến
trên, cùng nhiều ư kiến tôi chưa sưu tập
được, cũng như những ǵ sẽ được
những người thưởng ngoạn sẽ phát biểu
về tranh Bé Kư sau này, tôi nghĩ
sẽ không khác biệt nhau bao nhiêu. Nó làm cho người
đọc, có cảm tưởng rằng mọi người
đă bắt chước nhau trong sự nhận định.
Người này lặp lại nhận xét của người
kia. Thật ra, có lẽ, chẳng ai bắt chước ai
mà chỉ v́ tranh của Bé Kư đều cho mọi người
một thẩm định gần như nhau, thế thôi.
Ai cũng đọc được tranh của chị. Ai
cũng thấy được ḷng ḿnh ra sao khi được
nh́n ngắm những kư hoạt có tính cách trường cửu
của chị. Tôi là người thiếu bén nhạy, thông
minh và rất ấm ớ trong nhiều lần bị bắt
buộc phải đưa ra một ư kiến về một
vấn đề ǵ đó, nên với chị Bé Kư và những
đứa con tinh thần của chị, tôi đă viết
lạng quạng mấy câu ngũ ngôn:
“Sinh
kư dong mực đọng
lung linh xanh
đường gân
bàn tay chuyền
hơi thở
dung ảnh ngời
nét thần
đâu chỉ ngắm
bằng mắt
diện nhận từ
chân tâm
người vật
chợt vô động
mà thở cùng tháng
năm”
(LH- Ổ T́nh Lận Lưng)
Hồ Thành Đức là khúc
đầu một con rồng, ra đời năm 1940. Trong
thuật định tuổi âm lịch, dùng để chấm
tử vi, người ta thường căn cứ vào Thập
Lục Hoa Giáp tức là sự kết hợp giữa sáu chu
kỳ hàng Can và năm chu kỳ hàng Chi. Đây là điều
tôi nghe lóm, không biết có đúng hay không ? Nhưng mỗi
tên gọi của hàng Chi là một con giáp, hay c̣n gọi là tuổi,
là điều nhiều người đă biết. Và trong
chúng ta ai cũng phải có một trong mười hai tuổi
sau đây: tư (con chuột), sửu (con trâu), dần (con cọp)
mẹo (con mèo), th́n (con rồng), tỵ (con rắn), ngọ
(con ngựa), mùi (con dê), thân (con khỉ), dậu (con gà), tuất
(con chó) hợi (con heo). Với h́nh ảnh một con vật
tượng trưng cho năm sinh của ḿnh, chưa nói lên
được sự thăng trầm của cuộc đời
ḿnh thừa hưởng. Ra đời năm sửu, cầm
tinh con trâu không hẳn cả đời phải kéo cày. Ra
đời năm dậu, cầm tinh con gà không nhất thiết
phải bương chải để kiếm miếng
ăn quanh năm. Ra đời năm th́n, cầm tinh con rồng,
đâu đă chắc hưởng một kiếp thanh thản
bay bổng trên mây xanh, Cầm tinh con ngựa, tuổi ngọ,
nhưng chắc ǵ có dịp đi chu du thiên hạ. Mang nghiệp
tuổi mùi, con dê, nhưng hiền lành như bụt cũng
là chuyện thường…Bản tính và sự thịnh, suy của
cuộc đời c̣n tùy thuộc vào ngày, giờ sinh và cái
Can, đă qui định. Hồ Thành Đức có h́nh tượng
con rồng nhưng lại rơi vào ngôi thứ bảy của
thập Can có tên gọi là “Canh”
nên chưa chắc đă thong dong hưởng cái phú quí trời
cho. Số mệnh có thể là chuyện có thật, nhưng
không hẳn hoàn toàn chính xác.
Hồ Thành Đức đến
với cuộc đời với đầy đủ hai
bậc sinh thành. Thân phụ anh người của nông thôn
huyện Đại Lộc tỉnh Quảng
Đă có được tấm
giấy khai sinh, hẳn nhiên phải từ từ có
được những thứ lỉnh kỉnh khác của
cuộc đời, dù hơi muộn. Hồ Thành Đức
làm quen với lớp học, với mẫu tự, vào
năm lên mười, năm đă biết tắm mưa liếc
trộm. Bậc tiểu học thủng thỉnh đi qua,
ông bố nuôi, tuy tu hành nhưng
có bén duyên với Việt Binh Đoàn theo thời thế,
nên phải thuyên chuyển ra Huế. Hồ Thành Đức
theo ra cố đô, và làm học tṛ của trường
trung học Nguyễn Tri Phương. Lên đệ nhị
cấp anh xin chuyển về trung học Phan Châu Trinh Đà
Nẵng, nhưng lúc bấy giờ những anh hào học
sinh như Phan Duy Nhân, Phan Nhật Nam, Huy Giang…chưa lộ,
nên không có ai cầm chân, rủ rê anh. Anh lại về Huế. Hết trung học, Hồ Thành
Đức trở thành sinh viên trường Cao Đẳng
Mỹ Thuật Huế trong hai năm. Con rồng đă thấp
thoáng thấy mây xanh khi cùng Đinh Cường, Rừng,
Nguyên Khai…ngồi trong Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia
Định, và tốt nghiệp vào hai năm sau. Đức
kể lại việc học vẽ của ḿnh:
“…Và tôi có năng lực
rất đặc biệt. Tôi ra Huế học và tôi
được ông thầy dạy vẽ tôi từ trung học,
ông ấy khen tôi, đó là ông Tôn Thất Quy, viết thơ bảo
tôi ra Huế học. Không được học trong lớp
ở đây được nữa. Anh đi học vẽ
mới đúng nghề của anh, tôi thấy anh từ nhỏ
đến lớn như vậy. Quả thật, khi ra học
vẽ, không bao giờ tôi đứng nh́ trong lớp. Các môn
khác trong lớp bao giờ tôi cũng đứng chót…”
(lời ứng khẩu của
Hồ Thành Đức trong ngày hội đồng
hương Quảng Đà, tháng 5-2003, được đặc
san QNĐN chép lại)
Năm 1960, hội Họa
Sĩ Trẻ Việt
Theo nhận định, phân
loại của những người có chuyên môn trong làng vẽ
Việt Nam, Hồ Thành Đức được xếp
vào trường phái ấn tượng (impressioniste) và trong
giai đoạn đầu, dùng kỹ thuật đắp
giấy (collage) để hoàn thành tác phẩm, sau này anh chuyển
qua sơn dầu và sơn mài và vẫn giữ sở trường
collage của ḿnh. Trong giới cầm cọ Việt
“…Tranh
của Đức là thành quả một quan niệm sáng tạo
độc đáo: ông làm chủ được cách phối
hợp kỹ thuật sơn mài cổ truyền Việt
Nam với lối tranh dán giấy “collage” của Tây
phương (sử dụng h́nh chụp màu trong tạp chí
Tây phương). Ông t́m thấy con đường sáng tạo
riêng ấy cho ḿnh như bù đắp vào đời sống
nghèo nàn của một chàng hoạ sĩ trẻ vào thời
chiến tranh Việt Nam, những năm của thập
niên 60 (sinh vào thế hệ của những năm 40)
đang vươn lên thành tên tuổi lớn trong làng hội
họa Sài G̣n thời bấy giờ. Màu vẽ nhập cảng
th́ mắc mỏ, mà sách báo Anh ngữ đổ ra hàng núi từ
các PX Mỹ. Đức vốn ham mộ họa sĩ
Georges Braque- người đă sử dụng giấy báo và
các phế liệu khác sáng tạo thành những tác phẩm bất
hủ. Nhưng lối tranh dán của Đức thật
khác hẳn với tranh của Braque hoặc các trường
phái họa sĩ Pop Art thời 1960.
Thay v́ giữ
nguyên h́nh chụp hoặc in, vay mượn trong báo, ông
đă sáng tạo lại, “vẽ lại” cắt xén, sắp
xếp, tái bố cục những mảng h́nh rời rạc
ấy, rồi sơn phết tô vẽ lên trên đến
độ h́nh dán đột biến thành h́nh tượng bất
ngờ. Chẳng hạn bức ảnh chụp tiểu tiết
những nét khắc cuộn tṛn trong nghệ thuật kiến
trúc thời Baroque th́ biến thể thành những lọn
tóc quăn Đức Phật, hoặc tấm h́nh vỏ
thân cây sần sùi th́ trở thành làn da trên chiếc cổ quằn
quại của Chú Giê Su.
Suốt thời
gian chiến tranh Việt Nam, rồi tiếp theo là những
đói khổ tù đày, tranh của Đức bủa đầy
sắc màu thê lương của bóng tối và mộng dữ.
Góc phố trong tranh ông mà nh́n ra như những nẻo
đường làng điêu linh chiến cuộc hoặc
vùng tử địa tỏa đầy âm khí, c̣n nhân vật
trong tranh ông-dù là thần thánh hoặc những mặt tù
đầy- cũng đều đè nặng những
đau đớn nội tâm. Từ khi định cư tại
nước ngoài, bước đầu đến trại
tạm trú Phi Luật Tân, rồi tiếp theo là Little Saigon ở
quận Cam, lần nữa chiếc giá màu của Đức
lại bùng vỡ lên biết bao nhiêu màu sắc theo ḍng sáng tạo.
Những tảng những cấu trúc, lần nữa đối
chọi nhau dũng mănh đến tàn bạo, rồi lùi măi,
lùi dần đến chỗ tan biến mờ mịt để
bất chợt t́m thấy sự lắng đọng hài ḥa
của một cơi an tịnh nào đó. Chúng liên tiếp cận
kề nhau như những âm vang chát chúa pha lẫn với những
khả dỉ tựu thành những mảnh đời con
người tị nạn. Cái đối nghịch mâu thuẫn
ấy cũng chính là bản chất của mảnh đất
tên gọi
(Eric Scigliano – Phan Lang chuyển
ngữ)
Không ít những người ngoại
quốc viết về Hồ Thành Đức, nhưng qua
đoạn trích dẫn trên, có lẽ đă quá đủ. Chỉ
tiếc, h́nh như rất hiếm những bài viết về
hội họa Hồ Thành Đức từ những người
cùng một nguồn gốc với anh.
Trong cuộc đời sinh
hoạt hội họa, Hồ Thành Đức đă khai mạc
pḥng tranh rất nhiều lần. Tại Sài G̣n vào các năm
1963, 1964, 1973. Tại các quốc
gia khác gồm: Đài Loan, 1965; Ấn Độ năm 1965;
Nhật Bản tại Tokyo và 9 thành phố khác năm 1969;
Ba Lan 1984; Phi Luật Tân 1989. Riêng tại Hoa Kỳ, Hồ
Thành Đức bày tranh và tham dự nhiều cuộc triển
lăm tại nhiều thành phố: Burbank, California, 1992;
Westminter, California, 1992; San Diego, California, 1992; Arlington VA, 1995;
San Jose, 1996; Long Beach, 1996; Pasadena, 1996; Michigan Union, 1997…Hồ
Thành Đức rất thú vị với “cuộc triển
lăm quốc tế về t́nh
yêu, gia đ́nh và niềm tin”, kéo dài một tháng (23-9 đến
21-10-2006) tại John Art Collection. Anh càng hănh diện hơn
khi một ḿnh anh là họa sĩ Việt Nam được
mời tham dự cuộc triển lăm Artists For Human Rights (Nghệ
Sĩ V́ Nhân quyền) tổ chức tại Los Angeles, bên cạnh
30 họa sĩ thế giới từ 26-10 đến
16-11-2006. Hồ Thành Đức đă chọn bức The
Sorrow Is Still There (Nỗi Buồn C̣n Nguyên) vẽ bằng
nhiều chất liệu (mixed media) trên tấm gỗ vuông mỗi
chiều 122cm (
Hồ Thành Đức kể
lại, vào một giờ vắng khách, anh đang lai rai dạo
quanh pḥng tranh, ngắm lại những tác phẩm của
ḿnh đang hít thở trên các mặt tường. Anh muốn
chia sẻ với chúng những hồi hộp chờ đợi,
những băn khoăn, nghi ngại, chợt anh thấy từ
cửa pḥng tranh xuất hiện một cô gái tóc kẹp, thả
dài xuống lưng. Anh bất ngờ giật ḿnh, nhưng
làm tỉnh được ngay. Cô gái đă dừng trước
họa phẩm thứ nhất, im lặng ngắm. Ánh nắng
chiều của Sài G̣n h́nh như đang dịu lại. Những
tiếng ồn ào của một thành phố sinh động
cũng chừng như lắng xuống. Hồ Thành Đức
tưởng chừng những tiếng bước thật
khẽ của cô gái là những âm thanh hiện hữu duy nhất
trong pḥng tranh giàu linh hồn của anh. Mỗi họa phẩm
có mỗi trái tim riêng. Tất cả chúng đang cùng anh lắng
nghe, đang cùng anh quan sát, theo dơi theo từng động
tĩnh của một người biết yêu nghệ thuật.
Cô gái quả thật không có nhan sắc của một giai
nhân. Nhưng sự dịu dàng từ tốn đă là một
sắc đẹp, gợi mở trong Hồ Thành Đức
những thao thức rất lạ
lùng. Anh thoáng nhớ đến cô nhân t́nh xinh xắn của
ḿnh. Trong một giây, bàn tay vô thức của anh đưa
lên vuốt tóc. Những ngọn tóc
rất ngoan không làm phiền cái vầng trán rộng răi
những ưu tư. Đức thật t́nh không muốn
ŕnh rập người khách đặc biệt mà anh đă
biết rơ là ai. Nhưng ḷng anh cứ thắc thỏm. Và sự
chờ đợi như được sắp xếp từ
tiền định đă đến.
Chào
ông, pḥng tranh có vẻ vắng quá.
Đức chợt t́m thấy
ngay cái mau miệng lém lỉnh của ḿnh:
Không
đâu thưa cô, có lẽ giờ này chưa được
thuận tiện.
Anh cười dù cỏ vẻ
hơi phật ḷng. Cô gái không mỉm cười trả lễ,
nhưng không lạnh lùng, cô nh́n quanh pḥng tranh. Đức
cũng đưa mắt theo chiều quan sát của người
khách. B́nh hoa màu vàng óng, đang ánh lên những tảng nắng
ghé thăm. Chiếc khăn trải bàn trắng nơn. Đức
thấy cây bút nằm hờ hững trên ḷng tập đựng
chữ kư lưu niệm. Anh đang định mời cô
gái, th́ bất ngờ nghe tiếng hỏi
Anh
có biết tôi là ai không ?
Chừng nửa giây ngập
ngừng, Đức đáp chững chạc, tự nhiên;
Thưa
rất làm tiếc, xin lỗi cô là ai.
Không lưỡng lự,
cô gái, giới thiệu ḿnh:
Tôi
là Bé Kư
A, thế ra cô là
những họa sĩ của hè phố
Lẽ ra Đức phải
có cái nụ cười tinh nghịch, châm chọc như
thói quen. Nhưng không hiểu sao, ḷng anh thấy yên ả,
b́nh thản và có cái ǵ như ấm áp đang vây bọc lấy
anh.
Hôm
nay cô không ra Lê Lợi, Catinat…?
Không,
mấy hôm nay tôi không ở Sài G̣n. Tôi vừa từ Buôn Mê Thuộc
về đây, cốt yếu xem pḥng tranh của anh.
Đức lượm
được cái cảm động thật t́nh thứ nhất.
Anh mơ hồ thấy sự bềnh bồng của hồn
vía ḿnh. Tảng nắng chiều đang ngả sang màu vàng
nhạt, mở ra cho hai người họa sĩ một
khoảng không khí tươi mát vừa đủ để
nói chuyện đời.
Hoá ra chặng đời làm
con nuôi của Bé Kư không được bằng phẳng dễ
đi. Chị đă chịu đựng khá nhiều vất
vả cũng như tủi nhục. Không chọn lựa sự
giàu sang, nhưng “vừa ăn vừa khóc như mưa tháng
mười” vẫn từng xảy ra. Chị đă mở hết một
khoảng đời ḿnh để cho người bạn họa
sĩ vừa mới quen nh́n vào. Không hiểu v́ sao họ
chóng đọc được ḷng nhau mau như vậy.
Đức quên cô t́nh nhân đang có. Anh đưa người
nữ họa sĩ của thủ đô Việt Nam Cộng
Ḥa về nhà. Và chẳng bao lâu sau. Anh chị cho bạn bè một
bữa tiệc thân mật. Ngày cưới của Hồ
Thành Đức, Bé Kư gần như không có họ hàng, bà con của
cả hai bên. Họ sống chân t́nh với bằng hữu,
nên trong ngày vui thật vô cùng đông đảo. Cánh bạn
đồng hương Quảng
Sau khi thành cặp song kiếm hợp bích trên diện
tích một cái giường đôi, hạnh phúc của
đôi họa sĩ ngày một bành trướng nhanh hơn
cả mấy anh ba Tàu. Anh chị mua ngôi nhà đầu tiên
có đến hai cái “sur” trên đườngYên Đổ:
184/ 34/ 14.
Tôi gặp Hồ Thành Đức
từ năm 1962, cũng có thể là 63, không nhớ chắc.
Lần đó Đức về Đà Nẵng thăm ông bố
nuôi. Nhà bố nuôi của anh nằm ngay sau lưng nhà Châu
Văn Tùng, bạn tôi. Nhà của ba mẹ Tùng gồm nhiều
căn, thừa chỗ ở nên cho gia đ́nh anh em Lê Viên Côn,
Lê Hiếu Đằng thuê. Lê Viên Côn cùng lớp tôi ở Phan
Châu Trinh, sau này anh trở thành Hải quân Trung Tá của Việt
Nam Cộng Ḥa, Côn hiện ở Houston Hoa Kỳ. Đằng
học sau chúng tôi vài năm, về sau ra bưng rồi về
làm ǵ đó khá lớn ở thành phố Sài G̣n. Khi Đức
về thăm, Tùng rủ tôi lên
gặp mặt ông họa
sĩ thủ đô. Tôi không ham lắm, nhưng cũng đến.
Đêm đó, chúng tôi, gồm cả Côn và Đằng ngồi
sau chái bếp nhà dưỡng phụ Đức cho muỗi
đốt để nghe Đức nói dóc. Những người
đi xa về, nhất là đang ở thủ đô, h́nh
như cao lớn lên, kẻ cả ra. Không phải cái cao lớn
vể thể xác mà là cái tự tôn coi rất tự nhiên. Hồ
Thành Đức lại là người hoạt bát, vui tính, có
duyên nói đùa, có tài kể chuyện tiếu lâm. Anh kể rất
nhiều chuyện trong giới sinh hoạt văn
chương, âm nhạc, hội họa… tại Sài G̣n. H́nh
như chuyện nào anh cũng có thêm gia vị khôi hài. Đại
loại như chuyện “đứt giây n” của một bạn
nhạc sĩ tài danh bậc nhất. Gặp Đức
không thể không cười, sau này cũng vậy. Đức
có tài chọc cười giống như họa sĩ Nghiêu
Đề. Nhưng cái cù léc của Đức dễ gây ngộ
nhận, hờn trách hơn anh Trai Bủng.
Năm 1967 tôi có dịp ghé
thăm chị Bé Kư và Đức nhiều lần. Lúc đó
ông bà đă đổi chỗ ở. Ngôi nhà mới nằm trên
đường Trần Quang Diệu, gần Đại Học
Vạn Hạnh. Ngôi nhà rộng răi, có một khoảnh sân
đủ cho những cơn gió nghỉ chân. Chỗ ở
Bé Kư và Đức trở thành một địa điểm
gặp mặt của một số bằng hữu thân
t́nh. Không là một chiếu rượu lớn. Nhưng có
Đức ở nhà là gần như có một vài bạn lai
rai. Uống rượu không phải v́ buồn. Uống
rượu không phải v́ vui. Uống rượu cũng
không phải v́ ghiền. Mà uống rượu để mừng
gặp mặt nhau, để cho câu chuyện trên trời
dưới đất có duyên, có thêm sức sống.
Tôi không rơ nghề tay phải
của Đức vào thời gian đó, nhưng vào các
năm sau, anh dạy học. Cái nghề gơ-đầu-trẻ-em-dậy-th́
của Đức phát triển rất mau. Những năm từ
1969 đến 1975 anh là giáo sư hội họa của Đại
Học Vạn Hạnh, và giữ chức Khoa Trưởng
ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học
Phương Nam Việt Nam (1974-1975). Tôi không biết chính xác
Hồ Thành Đức có đảm nhiệm chức Chủ
tịch của Hội Hoạ Sĩ Trẻ lần nào
chưa. Tiểu sử anh trên vài tạp chí tại hải
ngoại có ghi anh giữ vai tṛ này trong nhiệm kỳ
1968-1975. Nhưng tôi bị chỉ trích thiếu chính xác khi
ghi lại điều này trong cuốn Tác giả Việt
Những lần ghé lai rai
chim mía, khô mực với Đức, tôi rất ít khi
được chuyện tṛ với chị Bé Kư dù chỉ
vài ba câu. Bà họa sĩ lúc nào cũng bù đầu trong bếp.
Chị làm được những món ăn rất ngon miệng.
Trong thời điểm này, tranh chị vẫn bán chạy
đều. Trong một bài viết của nhà báo Trần
Lư Nguyên Khanh trên tạp chí Thế Giới Nghệ Thuật
số 2, tôi đọc thấy con số “một ngàn năm trăm”
họa phẩm của chị đă được giới
thưởng ngoạn mang về làm của riêng. Quả là một
con số không nhỏ. V́ lư do thương mại, một số
tranh của chị được làm bản phụ nhiều
lần. Chính tôi cũng được chị cho một bản
phụ, dù có đầy đủ triện son và chữ kư “live” của chị. Dĩ
nhiên tôi rất quí.
Tôi với Hồ Thành Đức
h́nh như có điểm giống nhau. Chúng tôi rất trân trọng
t́nh bạn. Và cùng sợ đơn độc nên càng kết
thân với nhiều người càng tốt. Trong vài năm
đầu của thập niên 70, tôi đau tim, yếu phổi
tưởng đă nghỉ chơi. Trong những ngày nằm
bệnh, tôi nhớ bè bạn vô cùng bèn làm thơ. Trên Vuông Chiếu
Đời Ta do đó mà có đến 132 câu, 7 chữ. Tên Hồ
Thành Đức dĩ nhiên cũng bị réo tới:
“…Hoan
hô như thể Hồ Thành Đức
năm ngoái gặp
ta, đă rỉ hơi:
“hai ta cùng tuổi
canh th́n đấy
sang năm giàu có
đă đến thời”
thật đúng y
bon, chàng họa sĩ
ta đang giàu có tiếng
kêu trời…”
(RHĐR)
Tôi với Đức cư
ngụ chung trên thân thể một con rồng. Cũng không
ít bạn sinh hoạt nghệ thuật, văn học bám víu
trên con linh vật này như Hồ Hữu Thủ (40), Lê
Thành Nhơn (40), Lê Uyên Phương (02-2-41), Thái Tú Hạp
(40), Nguyễn Đồng (40), Vĩnh Điện (40), Cao
Đông Khánh (1-41), Nguyên Khai (40)... Con vật chỉ là sản
phẩm của tưởng tượng, chúng tôi cũng là
những người không có thật chăng ? Hay sự hiện
diện vốn bềnh bồng trên mây ? So sánh cuộc đời đă
đi qua giữa tôi và Đức, có nhiều điểm
khác nhau. Đức hiên ngang, hoạt náo ở phần đầu
đầy râu ria quắc thước của Canh th́n (1940),
c̣n tôi bám hờ ở tận cái vảy đuôi ưa vùng vằng
(1941). Nhưng thật là lạ. Nếu Đức có một
tuổi thơ không được tốt đẹp, th́
tôi, ngược lại, đă có được một ấu
thời rất hạnh phúc. Hồ Thành Đức có khá nhiều
gian truân trong cuộc sống để cuối cùng hưởng
được những phúc lộc rất tươm tất.
Tôi chưa có giai đoạn nào tuyệt vời phong phú,
nhưng đă đi gần hết một đời thong
dong. Ông bà ta nói “bảy mươi chưa khoe ḿnh lành”. Tôi có
ǵ, c̣n ǵ để khoe, ngoài vỏn vẹn bốn năm biết
lao động có mồ hôi và nước mắt. Ngày tháng của
tôi gần như là một giây chuyền sống bám kéo dài.
Thời nhỏ qua luôn cả thời độc thân, hết
mẹ đến cha chăm sóc; vào quân ngũ, đồng
đội chăm lo; lưu lạc
xứ người có cô nhân t́nh bên cạnh đỡ đần.
Tôi có mạng “chỉ tay năm ngón”, dù trong một phạm
vi thật nhỏ hẹp. Và có khá nhiều độc
đoán. Viết về Hồ Thành Đức, Bé Kư mà tôi xen “cái
tôi” vô thế này, có phải là một cuộc đi lạc
t́nh cờ ? Đương nhiên không. Đây chỉ là những
ḍng hồi kư ghi lại một thời của chính tôi. Tôi dựa
vào bè bạn để nhớ ra ḿnh, vẽ lại ḿnh, là một
tính toán khôn khéo nhất, đủ để nhà văn Hoàng
Mai Đạt, ghi ra khi giới thiệu cuốn Quá Khứ
Trước Mặt của tôi trên tạp chí Văn Học
và Hợp Lưu:
“…
có lẽ ông là người có biệt tài nói về cái tôi hay
nhất, nghệ thuật nhất trong những người
viết tại hải ngoại…”
(Hợp
Lưu, số tháng 8&9 năm 2006)
Hay, nghệ thuật hay không, không dám nhận.
Chỉ mong được hiểu:
“từ
bạn, tôi gặp lại tôi
gặp lại con muỗi, con
ruồi... ngày xưa
gặp lại lá tre, lá dừa...
gặp lại cục đất,
tảng đá, nắng, mưa... bên đời
từ tôi, bạn gặp bạn
ngồi,
gặp bạn đi, đứng,
nói, cười...vân vân
trăm năm vẫn khoảng
cách gần
một phút vời vợi buồn
lần không qua
từ tôi, từ bạn thấy
ra
dăy sông con núi lân la bên người
vụng tay thêm lần nữa
rồi
từng trang mộ ấm
bóng người ảnh tôi ?
vẽ ra người để
thấy tôi
vẽ tôi ra để thấy
người
chúng ta
hôm nay đă khác hôm qua
nhưng mà cốt lơi vẫn
là như nhau
cái chân cái bụng cái đầu
sợi lông sợi tóc sợi
râu vẫn là
bén từ hồn vía thịt
da
vẫn thơm từ trẻ
sang già đấy thôi
vẽ người là để
thấy tôi
một đời sống
ké hơi người ra sao...”
(Ổ T́nh Lận Lưng)
Giữa năm 1984, tôi
đưa gia đ́nh vào Sài G̣n. V́ lo sợ những trục
trặc có thể xảy ra trong chuyến ra đi đoàn tụ,
tôi hạn chế việc ghé thăm bè bạn. Nói là hạn
chế, nhưng cũng đă gặp hầu hết những
người quen biết: Trần Dzạ Lữ, Chu
Vương Miện, Thành Tôn, Hà Nguyên Thạch, Đynh Hoàng
Sa, Phan Nhự Thức, Đinh Trầm Ca, Cung Tích Biền,
Huy Tưởng, Hoàng Trọng Bân, Phan Kim Thịnh, Lê Vĩnh
Thọ, Phạm Thế Mỹ, Thái Tuấn, Nghiêu Đề…
Cả Mường Mán cũng có bắt tay, đứng tán dóc
mấy phút bên đường. Tôi ghé Hồ Thành Đức
hai lần. Lần đầu nhị vị họa sĩ
đi vắng. Lần sau, từ ngoài đường nh́n vào,
thấy bạn Đức đang có một số khách
đến chơi, tôi ngại không vào. Lần thứ ba theo
dự định không thực hiện được. Tuy
không gặp được anh chị Hồ Thành Đức,
Bé Kư nhưng tôi nghe bè bạn kể về Đức khá nhiều.
Có tin tốt, có tin xấu. Tốt xấu giữa một thời
buổi giao thời thật ra không nên câu nệ lắm.
Đức tham dự nhiều cuộc vượt biên. Bến
đến đầu tiên của anh là trại giam Phan
Đăng Lưu vào năm 1977. Bạn đồng điệu
ngồi chung một mái nhà tù có những bậc trưởng
thượng: Hồ Hữu Tường, Doăn Quốc Sỹ…
Chị Bé Kư chỉ được cho nếm mùi tù tội
có 4 tháng. Phần thưởng rút ngắn thời gian này có
lẽ do bốn người con gián tiếp kư lệnh ân xá.
(Bốn con của Kư, Đức lúc này c̣n khá nhỏ, sau này,
tại Hoa Kỳ, Hồ Thành Cao tốt nghiệp kỹ
sư; Hồ Thành Cung, nối nghiệp bố mẹ; Hồ
Thị Hải Dương, dược sĩ. Cô con gái Hồ
Thị Cẩm Thư, theo tiếng gọi t́nh yêu, ở lại
Việt
“VW: Có dư luận
cho rằng ông là “Cộng sản nằm vùng”, ông nghĩ sao?
HTĐ: Th́ hồi
ngày xưa bên nhà, tôi có khuynh hướng thiên tả. Nhưng
tôi cũng không ưng chuyện Mỹ đổ bộ lên
miền Nam, sau đó, tôi không thích Cộng sản, tôi bỏ
tôi đi. Người Mỹ bảo lănh cho tôi mà. C̣n nói chuyện
tôi “nằm vùng” là vô căn cứ. Ông viện trưởng
viện Lê nin kia c̣n chán Cộng sản, nói ǵ đến tôi.
Phải phân biệt ra người Việt Nam tiến bộ,
yêu nước khác với người phát-xít chứ”.
Có lẽ có lỗi “đả
tự”, hoặc ghi không chính xác câu trả lời của
Đức, bở́ đă khuynh tả th́ chắc chắn
không ưng chuyện Mỹ vào miền Nam, không cần phải
“nhưng nhị” ǵ nữa. Nếu phải nhưng th́ câu tiếp
đó phải là “nhưng tôi cũng không ưng Bắc Việt
tiến đánh miền
Hồ Thành Đức, Bé Kư,
không thuộc diện H.O, cũng không có thân nhân để
được xếp vào chương tŕnh O.D.P. Nếu trong
lănh vực nghệ thuật, Bé Kư lẫn Hồ Thành Đức
đă nhờ vào tài năng và ḷng đam mê để
vươn lên, không phụ thuộc vào bất cứ thế
lực nào khác, th́ trong đời sống, nhờ vào sự
thành danh của cả hai đă giúp gia đ́nh họ đến
Hoa Kỳ định cư, do chính người Mỹ trân
quí nhân tài bảo lănh. Tại Hoa Kỳ, những ngày đầu,
gia đ́nh Kư Đức được một nhà sưu tập
tranh của Đức cấp cho chỗ ở, nhưng anh
chị, ngay sau đó chọn về vùng đất lành,
đông đồng hương: Quận Cam California.
Chị Bé Kư trả lời phỏng
vấn của kư giả Jeffrey Brody trên tạp chí Register, số
ra ngày 2 tháng 7 năm 1990, trong đó có câu:
“…Tôi
không thể nào vẽ theo lối họ muốn được.
Tôi nhớ có lần một cán bộ cho tôi coi bức họa
theo lề lối anh ta thích. Thật là dễ sợ và không
trung thực được…Chúng tôi đă có thể làm mọi
thứ để mà sống c̣n…Nhưng vẽ tranh th́ chúng
tôi cần thể hiện cảm nghĩ của ḿnh. Chúng
tôi đă không thể làm được việc đó, bởi
vậy nên đă ra đi”
Vào một dịp khác, Bé Kư
tâm sự:
“…Tôi
mất t́nh thương yêu gia đ́nh từ thuở ấu
thơ nên khi lập gia đ́nh tôi sống trọn vẹn,
trân quư với mái gia đ́nh. Là người vợ, người
mẹ, tôi làm trọn bổn phận của người
đàn bà Việt Nam dù sống ở bất cứ nơi
nào, thời điểm nào, đó là niềm hạnh phúc cao
đẹp nhất tôi đă dâng hiến và được
nhận lănh. Tôi rất mê hội họa và yêu quê
hương. V́ vận nước, v́ thời thế đă
hai lần tôi giă từ nơi chốn thân yêu, ḷng tôi vẫn
c̣n nhung nhớ. Từ trước đến nay tôi vẫn
vẽ tất cả h́nh ảnh mang bóng dáng, sinh hoạt của
quê hương”
(tài liệu này được
trích từ bài viết của nhà báo Trần Lư Nguyên
Khanh, trên tạp chí Thế Giới Nghệt Thuật, ấn
hành tại Hoa Kỳ)
Hồ Thành Đức và Bé
Kư đă trở lại cái thú được sáng tạo của
ḿnh. Đức có phần tích cực hơn. Anh hoàn tất
được nhiều tác phẩm ưng ư, như: Thiếu Nữ Và Hoa (Young girl and
flowers – mixed media, 48’’ x 48’’, 1992), Em, Trời và Mây (Lover, Sky
and Clound, collage, 32’’ x 48’’, 1993), Múa Quạt (Fan Dancing, mixed
media, 42’’ x 42’’, 1993), Ấn Tượng (Impression, collage 20’’
x 20’’, 1994), T́nh Yêu (Love, mixed
media, 1994), Nước Mắt và Nụ Cười (Tears and
Smiles – collage 32’’ x 32’’, 1995), Khỏa Thân (Nudes, mixed media 48’’ x
48’’, 1995), Models (collage 48’’ x 48’’, 1995), Trời Và Đất
(Heaven and Earth, acrylic on wood, 40’’ x 40’’, 1996), Nỗi Buồn
C̣n Nguyên (The Sorrow Is Still There, mixed media 48’’ x 48’’, 1996), Bến
Thuyền (Harbor, lacquer 72’’ x 36’’, 1997), Thiện và Ác (Good and Evil,
collage, 16’’ x 16’’, 1997), Cuộc Hành Tŕnh Của Đôi Ngựa
(A Journey of Horses, acrylic on wood, 30’’ x 30’’, 1997), Tường
Nước Mắt (Wall of Tears, mixedmedia 48’’ x 48’’, 1998), Mộng
Tưởng (Immagination, mixed media, 24’’ x 48’’, 2000), Thung
Lũng Đau Buồn (The Valley of Tears, collage, 2000), Trời
Đất Nở Hoa (The Blossom of Heaven and Earth, mixed media,
2000), Trên Đồi Golgotha , (On The Golgotha Hill, collage, 2000), Bốn
Cô Gái Việt Nam (Four Young Ladies, mixed media, 32’’ x 48’’, 2001), Mùa
Xuân ở California (Spring in California, collage 36’’ x 36’’, 2001), Thạch
Nhũ (Stalactites, 34’’ x 44’’, 2001), Tuổi Hoa (Sisters at Youth,
mixed media 34’’ x 44’’, 2001) vv…
Sức làm việc của Hồ
Thành Đức quả thật bền bỉ. Nhưng chị
Bé Kư cũng không thua anh chồng họa sĩ của ḿnh. Chị
để lại cho đời: Mother and Child (acylic on wood,
32 x 24’’, 1996), Mother and Child (acrylic 32x24’’, 1998), Combing Hair
(acrylic on wood, 36x24’’, 2002), Cock Fightings (acrylic on wood, 24x36’’.
2003), Horse (acrylic on wood, 24x32’’, 2002), Nude (acrylic on wood, 32x24’’,
2001), Mother and Child (acrylic on wood, 36x24’’, 2004), Mid -Autumn Festival
(acrylic on wood 34x48’’. 2004), Spring (acrylic on wood 32x24’’, 2004), Young Ladies and Lotus (acrylic on wood,
36x36’’, 2002), Enjoying Music (acrylic on wood 36x36’’, 2004) và rất nhiều
bức mẹ và con khác đă được vẽ vào mỗi
năm.
Đối với tất cả
họa sĩ, việc ấn hành một tuyển tập bao
gồm những bản chụp các họa phẩm của
ḿnh là điều cần thiết và thích thú. Nhưng để
xuất bản được “cái tổng quát sự nghiệp”
của ḿnh không phải là dễ dàng về mặt tài chánh.
Hồ Thành Đức, Bé Kư đă cố gắng thực hiện
được việc này. Hai cuốn sách đă được
ra đời: Hồ Thành Đức Ấn Tượng
Trong Đời Tôi (Impressions In My Live), gồm 30 trang khổ
21,5cm x 28cm, giấy trắng tốt, 20 Mỹ Kim. Và Việt
Nam Quê Hương Mến Yêu (My Beloved Vietnam) của Bé Kư 99
trang, cùng khổ sách như Đức. Đây là những tài
liệu quí về hội họa, được in ấn mỹ
thuật, công phu. Chị Bé Kư c̣n được cơ sở
Tuy
việc sáng tác chiếm nhiều thời gian, nhưng Đức
và Kư vẫn không quên dành cho ḿnh những giờ phút thong dong
đây đó. Năm 1998 vợ chồng anh cùng cậu con
trai Hồ Thành Cung ghé thăm thành phố Montréal. Đức
đă nhờ một khách hàng mua tranh quen biết cũ, thuê
cho gia đ́nh anh pḥng tạm trú trong khu kư túc xá học sinh,
đang bỏ trống trong dịp hè. Địa điểm
này nằm chênh chếch trước mặt ngôi nhà thờ nổi
tiếng thiêng liêng
Khi
từ nhà bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, (nguyên bộ
trưởng Bộ Thanh Niên VNCH) ra về, chúng tôi vừa chạy
xe vừa nói chuyện trên đường Edouard Montpetit, bất
ngờ một chiếc xe ngược chiều, lạc tay
lái, ào ào tiến ngay vào đầu xe tôi. Hốt hoảng,
nhưng không c̣n lề trống để tránh, tôi đạp
thắng và chờ đợi một va chạm có thể chết
người. Nhưng rất may, chiếc xe trước mặt
kịp thời tỉnh ngủ, lách qua, cận kề trong
năm ba centimètre. Thật hú
hồn. Giá lần đó xảy ra tai nạn chắc bạn
bè gần xa đă tốn ít trang chia buồn.
Tin
Hồ Thành Đức, Bé Kư đến Montréal được
anh em bạn văn biết mau lẹ. Nhà thơ Hoàng Xuân
Sơn, cũng mở tiệc khoản đăi tại gia
như hồi đón gia đ́nh họa sĩ Nghiêu Đề.
Đến bắt tay Bé Kư, nghe Hồ Thành Đức kể
chuyện vui hôm đó có nhà văn Song Thao, nhà văn Trang
Châu, nhà văn Hồ Đ́nh Nghiêm, nhà thơ Lưu Nguyễn
và đương nhiên có tôi cùng Lư. Hồ Thành Đức
thành thật, cởi mở nhưng cũng phách lối rất
mực. Chị Kư thay v́ nói, chị cười nhiều
hơn. Hệ thống thính giác của chị gặp một
số trở ngại nên câu chuyện giữa các bà có phần
hạn chế. Lư, vợ tôi có số được nhiều
bà vợ của bè bạn tôi mến. Đă có nhà văn Minh
Quân từ Việt
Sau
bữa ăn, cũng do Hồ Thành Đức đưa ư
kiến rồi thúc hối chị Bé Kư phóng bút vẽ vài nét
Luân Hoán. Tôi rất khoái chuyện này, nhưng ngại ngùng,
được bạn vàng mở đường đâu dễ
bỏ qua cơ hội. Tôi ngồi im, mặt nh́n nghiêng ra
hướng đường Barclay. Hai cánh cửa kính rộng
đă được đẩy dồn về một phía.
Nhà quay về hướng tây, nhưng ḍng nắng không c̣n
đủ sức chói. Thỉnh thoảng một cơn gió tạt
ngang. Càng ngồi im tôi càng nghe khắp thân thể ḿnh cử
động. Vài sợi tóc như muốn sà xuống trán, tôi
se sẽ mím môi. Chị Bé Kư mắt quan sát, tay phác họa. Chị
nh́n ngắm khuôn mặt già bụi đời của tôi từ
những điểm nào ? Không rơ. Tôi chợt ngại chị
bắt gặp hai cái quầng-mắt-dưới ú nụ những
phong trần của ḿnh. Tôi chợt lo hai má hóp quá, và rồi
tự tin bởi hai hàng lông mi rất cong, đôi mắt liếc
gái rất nhuyễn. Tôi trực nhớ đến các bàn tay
của Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung, La Toàn Vinh, Phạm
Thế Trung, Vivi…những bạn đă trực tiếp “bắt”
tôi bỏ lên mặt giấy. Bất chợt tôi lại mím
môi. Chị Bé Kư dán ngay cái nét tai hại ấy lên bản vẽ
và chừng ít phút sau, chị cười, thả cây bút xuống
mặt bàn. Tôi thở ra nhẹ nhơm quên cả cảm ơn
chị. Nét phác họa về tôi được chị Kư
mang về Mỹ, dùng bút nhà nghề, tu chỉnh lại, và gởi
qua với khổ lớn 52cm x 65cm. Không riêng tôi, Lư cũng
được vẽ, cũng được gởi qua
một bản y như tôi. Chúng tôi sung sướng
đóng khung treo ngay pḥng khách. Cái chúng tôi trân quí ngoài chữ
kư, nét vẽ c̣n có cái t́nh của chị, lẫn của Đức
gởi cho. Tôi đă được nhiều họa sĩ
thân quen, làm cho nét mặt không đẹp của ḿnh trở
thành đẹp sáng, có cốt cách hơn, làm sao quên gởi lời
cảm ơn đến với: Đinh Cường, Thái Tuấn,
Trịnh Cung, Khánh Trường, Vơ Đ́nh, Trịnh Công
Sơn, Nguyên Hạo, Bé Kư, Phạm Thế Trung, Nguyễn Quốc
Tuấn, Vũ Uyên Giang, Vivi, La Toàn Vinh, Hoàng Trọng Bân, Hồ
Đ́nh Nghiêm, Nghiêu Đề…cùng các bạn lấy thân t́nh phác
họa chân dung tôi bằng nét thơ như nhà văn Song
Thao, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ Song Vinh, nhà thơ
Chu Vương Miện…Thật ra, có lẽ, các bạn
đă chỉ vẽ cái dễ thương ẩn khuất của
tôi thôi. Mà tôi quả thật dễ thương ở chỗ
ai thương cũng xin chấp nhận. Thế nhưng
có một họa sĩ quen biết lâu ngày, cố t́nh lơ
cái dễ thương của tôi đi đấy, các bạn
biết ai rồi chứ ǵ ! Vợ chồng Hồ Thành
Đức ở chơi với Montréal độ một tuần,
tôi đưa anh chị thăm viếng một vài nơi như
đă từng thực hiện với nhiều bạn khác.
H́nh như có đưa Bé Kư Hồ Thành Đức đi chợ
trời, hay hái dâu, hái táo ǵ đó, để biết thêm một
góc cạnh Montréal.
Kỷ
niệm theo tôi là một tế bào. Khi mới được
cấy vào cơ thể có ngay những cảm xúc bồi hồi
chóng vánh. Sau đó là sự sống thầm, tưởng chừng
như mất dạng. Nhưng khi được khơi lại,
những tế bào có tuổi hơn lại hiện ra minh bạch,
sắc sảo hơn những anh mới hội nhập, dù
đôi khi thiếu thứ tự. Kỷ niệm có
được với Hồ Thành Đức, Bé Kư cũng
có phần lộn xộn. Sau ngày ông bà họa sĩ về lại
Hoa Kỳ, chúng tôi lơi dần những liên lạc bằng
điện thoại. Nhưng tôi vẫn theo dơi những sinh
hoạt của bạn ḿnh. Đức làm thơ khá nhiều
trong những năm gần đây. Thơ anh viết
đăng trên một số tạp chí, nhất là các đặc
san, tuyển tập của quê hương Quảng
“Con phố nhỏ đưa ta
vào nỗi nhớ/ bao mùa xuân trăn trở giấc ly
hương/ Hội An ơi, cồn băi với phố
phường/ trông ngoảnh lại, với muôn vàn
thương tiếc
buổi ra đi, cánh buồm
giăng biền biệt/ núi sông hờn ! luyến tiếc
gót giày hoa / em ở lại, mẹ già chiều nắng xế/
anh ra đi ngày tháng ánh trăng lu/ chiều cuối đông
thành phố nhớ sương mù/ em cửa sổ mây bay
ṿng tuế nguyệt
gót phong trần đă in màu sương
tuyết/ ta lưu linh làm kẻ ngóng thiên đường/ sáng mai nào thành phố nhỏ đầy
sương/ em áo tím đến trường qua ngơ hẹp/
thơ yêu em cả trăm lần sao chép/ vẫn hắt hiu
ngói cũ với tường rêu/
ta ở đây sáng nắng với
chiều mưa/ nơi xứ lạ, nhập nḥa trăng
cánh hạc/ năm mươi năm tan tành trong đổ
nát/ chuyện ra đi cứ canh cánh bên ḷng/ hẹn ngày về
sáng đợi với chiều mong/ t́nh thuở trước
phai dần trong tưởng nhớ
trong yêu thương có điều
ǵ tan vỡ/ buổi ra đi c̣n chút nắng ngày về/ mùa
xuân này gởi lại bức t́nh thơ/ em yêu dấu ! Hội
An ngày trở lại/ ngựa yên cương, thành cao,
đường quan ải
lớp lớp về ! nh́n lại
dáng em xưa/ thời rong rêu ! cửa đóng với then cài/
trăng cửa sổ, nh́n sâu đêm t́nh ái/ con nước về
cuối băi gió vi vu/ ta về đây thành phố xám
sương mù/ em thức giấc ! Hội An ngày trở lại”
(Hội An Trong Nỗi Nhớ HTĐ tháng 12-1995 Hoa Kỳ,
đặc san Quảng Đà, 1998)
Hồ
Thành Đức có lẽ là niềm tự hào của cộng
đồng Quảng
Dù
có ư định sẽ thăm thủ đô người Việt
tị nạn một cách âm thầm, trốn hết bạn
bè. Nhưng cuối cùng tôi thấy ra cái vô lư của ḿnh. Không
đến nỗi ngàn năm một thuở. Nhưng cơ
hội của ngày hôm nay chắc ǵ có được ở
ngày mai. Nhất là với một người có tuổi
đời bị trừ đến gần hết. Nhà
thơ Thành Tôn bố trí cho tôi một buổi gặp mặt
bạn bè tại quán cà phê Bistro. Nhà thơ Đạm Thạch
nhiệt t́nh thông báo cùng anh em. Quán cà phê Bistro, một địa
điểm nổi tiếng, quen thuộc của giới
sinh hoạt văn hóa tại quận
Khách
đến, khách đi, ḍng nắng lấn dần vào mái
hiên, vàng óng từng phần trên vai, trên ngực những
người bạn đang vui vẻ tán dóc. Ngồi bên Hồ
Thành Đức, anh nghiêng người nói nhỏ nhưng
cũng đủ cho cả bàn nghe. Anh đang thực hiện
một tác phẩm rất độc đáo. Tác phẩm của
anh lần này không phải là một họa phẩm, mà là một
cuốn sách. Sự đặc biệt của nó là từ một
người nói đến nhiều người. Đức
cũng giống tôi, ưa thích kéo bè bạn vào giang sơn
riêng của ḿnh. Tác phẩm của Đức là những bản
chụp tranh màu của anh được đi kèm với
vài câu thơ, vài ḍng nhạc, ḍng văn của bạn bè.
Dĩ nhiên toàn những
anh chị đă thành danh lâu ngày với cuộc
đời văn học, nghệ thuật.
Tôi được Hồ Thành Đức dành cho 2 trang. Sách sẽ
được in trên giấy tuyệt hảo nhất, do một
nhà xuất bản uy tín ở quốc nội ấn hành ngay
sau khi Đức hoàn tất. Tôi chia sẻ niềm vui cùng
Đức và cũng như anh, tôi mong mỏi những tác phẩm
có giá trị chóng được ra mắt bạn đọc.
Đức cũng không quên kể với tôi sự thành công
về tài chánh từ một họa phẩm anh bán được
gần đây. Mừng cho bạn nhưng tôi chợt cảm
thấy băn khoăn, v́ những mẩu chuyện ấy,
anh thỉnh thoảng nhắc lại, kể lại như
mới nói lần đầu tiên. Sự chợt quên chợt
nhớ h́nh như đă đến với Đức. Nhà
thơ Đặng Hiền th́ nói nhỏ với tôi về sự
ảo tưởng của Đức. Ảo tưởng
cũng là một điều thú vị, nhiều khi chúng ta
cũng nên cần nó chút đỉnh.
Trong
bữa ăn trưa khá thịnh soạn thứ nhất do
vợ chồng Thái Tú Hạp mời anh em, tôi ngồi giữa
Đặng Hiền và Hồ Thành Đức. Tôi chọn món
ḿ Quảng cho phần ăn của ḿnh. Tuy không ngon miệng
lắm nhưng tôi chợt nhớ đến nhà văn
Tưởng Năng Tiến, một người bạn
chưa gặp, đầy t́nh nghĩa của tôi. Trong phạm
vi bè bạn văn thơ Quảng Nam, Tưởng Năng
Tiến được xem như gắn liền với ḿ
Quảng, dù anh không phải dân xứ hay căi, mà chỉ v́
đă viết được một bài rất tới về
món ăn dân dă này. Hồ Thành Đức nhắc chừng
tôi cách trộn bát ḿ, cả việc chan thêm nước chấm.
Anh tưởng rằng tôi đă quên cách thưởng thức
một món ăn nguồn cội. Tôi chưa quên và c̣n nhớ
rất rơ những lần ăn cùng với Nguyễn Nho Sa Mạc
ở quán ḿ Lợi Kư Tam Kỳ, những lần ăn cùng với
Nguyễn Thanh Ngân, Vĩnh Kha ở Nam Phước, dọc
đường quốc lộ 1 và cả lần ăn với
Hoàng Quy ở Ngă Năm Đà Nẵng…Những lần đó
cũng tương tự như lần này, cái việc
ăn của tôi bị câu chuyện từ bè bạn ảnh
hưởng, không t́m ra được cái khoái khẩu tuyệt
đối. Chỉ có những lần ngồi ăn cùng Lư
bên hè đường Hoàng Diệu, tôi mới nhận
được ra phần nào sự tinh tuư, thâm trầm của
một món ăn ḿnh luôn luôn nhớ, sẵn sàng thèm khi
được nhắc đến. Trong bữa ăn thứ
hai, tiếp liền theo sau chặng đường chạy
đổi quán, tôi bị mất tập trung v́ cú điện
thoại của một bạn cựu học sinh Phan Châu
Trinh.
Tán
dóc, uống, ăn, chụp h́nh… rồi cũng trôi qua chóng
vánh. Tôi chia tay đám bạn cũ mới trong ḷng luyến
tiếc, buồn buồn. Chúng tôi không kịp giờ để
ghé đến thăm nhà Bé Kư, Hồ Thành Đức, cho anh
nợ tiếp một thời gian nữa họa phẩm mà
anh định tặng tôi treo chơi từ mấy năm
nay. Hội họa là một nghệ thuật tôi không am hiểu
ǵ mấy, nhưng lại thích cận kề bên tranh, bên cả
những người sinh ra chúng. Việc này có lẽ khởi
đi từ lúc tôi t́nh cờ sở hữu một thời
gian họa phẩm Thiếu Nữ của họa sĩ Cù
Nguyễn. Tôi không chắc bức tranh đó có phải là bức
giao vào tay Cù Nguyễn tấm huy chương vàng mùa Xuân
năm 1963? Có thể đây chỉ là một sáng tác khác của
Cù Nguyễn. Bức tranh Thiếu Nữ này được
đi vào nhà ông Thái Trử, chánh sở tài chánh thành phố
Đà Nẵng. Ông Thái Trử c̣n là tác giả vài tập
thơ dưới bút hiệu Việt Trữ. Có thể ông
đă mua họa phẩm hoặc được Cù Nguyễn
tặng (Cù Nguyễn cũng người Quảng Nam). Không
hiểu v́ lư do ǵ, một hôm con trai ông Trử, Thái Anh mang
sang nhà tôi, hỏi “anh có thích
không, lấy treo đi”. Tôi khoái tranh ngay sau đó. Bức
Thiếu Nữ ở với tôi được vài năm cho
đến khi tôi nhập ngũ, 1966. Khi ra trường, về
thăm nhà, không rơ bức tranh bị ai đưa đi
đâu mất, và tôi v́ lo nghĩ đến chiến trận
sẽ trực tiếp tham dự trước mặt không
c̣n giờ truy t́m. Sau này tôi được Nghiêu Đề,
rồi Đinh Cường khuyến khích lấy tranh về
treo nhưng tôi đều không dám nhận. Với Hồ
Thành Đức cũng vậy thôi. Hoạ phẩm nào
cũng là một phần tâm tư, da thịt của họa
sĩ, tôi phải để các anh xử dụng nó đúng
chỗ hơn.
Có
một lần, một bạn văn vui với những
chuyện loanh quanh trong văn học nghệ thuật,
đă hỏi tôi: “Anh có thích tranh
của Hồ Thành Đức không ?”. Câu trả lời của
tôi đương nhiên là “Có”.
Sở dĩ trong những thi phẩm tôi đă in chưa có tập
nào được Hồ Thành Đức tŕnh bày b́a, v́ trong
những thời gian đó, tôi không liên lạc được
với Đức. Tính tôi lại rất nôn nóng, không thích chờ
đợi, nên tôi chỉ làm phiền những bạn họa
sĩ thường liên lạc nhiều hơn. Xin trích một
bài thơ tôi viết về người thiếu nữ
trong tranh Hồ Thành Đức, minh chứng sự yêu thích
của tôi:
“Em chằng chịt những sợi
gân / thênh thang như suối như sông phiêu bồng/ khai sinh
từ cơi chân tâm/ quí đời, kính Phật, yêu nồng nàn
yêu/ khai hoa giữa sáng hay chiều ?/ giữa thời
hưng thịnh ? tiêu điều ?, chả sao/ bởi h́nh
tượng, sống – lúc nào/ cũng đầy chân mỹ
là bào thai em/ sắc nhan em chẳng là em/ em là nhan sắc trái
tim con người”
(SNCNTNT)
Chúng
ta thường nghe nói “ông tơ, bà nguyệt”. Hai nhân vật
theo truyền thuyết này có nhiệm vụ kết hợp
những người nam, người nữ giữa cơi
đời thường thành đôi thành cặp, sống
đời với nhau. Dù hai nhân vật dễ thương
này có thật hay không, tôi cũng xin phép được bắt
tay mỗi người một cái, để cảm ơn sự
trói buộc giữa Bé Kư và Hồ Thành Đức. Từ hai
người mồ côi nghèo khó, họ đă d́u nhau vượt
qua mọi gian nan để thành công trong t́nh yêu, sự nghiệp
và cả sự đào tạo những nhân vật tiếp nối.
Nếu không phân biệt trường phái, thể loại…chỉ
dùng hai chữ hội họa chung chung, th́ Hồ Thành Đức,
Bé Kư quả đúng là Song Kiếm Hợp Bích trong nghệ
thuật cao quí này.