Trần
Hoài Thư
một đời quư sách
Luân Hoán
Thừa hưởng một
cái tên đẹp do cha mẹ đặt cho, Trần Quư Sách
chọn cho ḿnh một bút danh thật thi vị: Trần Hoài
Thư. Tên gọi như một sợi dây, trói buộc anh dính
liền một đời với chữ nghĩa, sách báo.
Ra đời tại Đà Lạt vào ngày 16 tháng 12 năm
1942, thất lạc cha ngay khi c̣n quá nhỏ, Trần Hoài Thư
theo mẹ đến thành phố biển Nha Trang sống suốt
thời thơ ấu rất đỗi cơ cực và hẩm
hiu. Thời thơ ấu, anh từng bán hàng rong ở các bến
xe ở Nha Trang, và từng đi bộ mỗi
ngày khoảng 20 cây số để đi đến trường.
Anh học trường Sinh Trung, Nam Tiểu học Nha Trang
và cuối cùng là trường Cô Nhi Viện Bết Lê Hem, Ḥn
Chồng, trước khi ra Huế gặp lại thân phụ
anh từ Bắc di cư vào. Ở Huế, anh theo học tại Quốc Học, Đại
Học Huế, rồi trở vào
Thời gian cận kề giữa biên giới tử sinh, Trần Hoài Thư trúng đạn hai lần. Lần thứ nhất khi có mặt trong cuộc hành quân giải cứu Qui Nhơn trong dịp Tết Mậu Thân. Lần thứ hai, năm 1971, khi dẫn quân tiến chiếm mục tiêu đồi Kỳ Sơn tại B́nh Định. Ngoài Chiến Thương và Anh Dũng Bội Tinh, Trần Hoài Thư đă có cơ hội làm giàu vốn sống của một người lính, của một công dân sống trong giai đoạn tổ quốc bị chia cắt, dân tộc khốn khổ v́ chiến tranh. Vốn sống của anh c̣n có thêm bốn năm “bồi dưỡng” bởi chính sách “cải tạo” do nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam dành cho, dân, quân, cán, chính miền Nam. Có được mảnh bằng của Xă Hội Chủ Nghĩa cấp, Trần Hoài Thư hành nghề bán cà rem dạo một thời gian trước khi vượt biển vào năm 1980.
Quyết tâm dựng lại cuộc sống mới trên xứ người một cách hoàn hảo, Trần Hoài Thư trở lại nhà trường năm 38 tuổi. Ít năm sau, anh tốt nghiệp Cử nhân Điện toán và Cao học Toán Ứng Dụng tại Đại Học Stevens Institute of Technology. Anh vào làm việc cho công ty điện thoại AT &T với chức vụ Member of Technical Staff về Systems Engineering rồi qua làm Project Leader về ngành tin học cho công ty IBM. Để chóng đạt được những kết quả khả quan này, chị Trần Hoài Thư, nhũ danh Nguyễn Ngọc Yến, một cựu viên chức của Viện Đại học Cần Thơ trước 1975, đă phải lăn xả vào các nghề lao động chân tay, giữ vai tṛ chủ yếu trong kinh tế gia đ́nh. Dĩ nhiên, ngoài giờ học, Trần Hoài Thư cũng dùng sức lực cơ bắp khiêm nhường của ḿnh vào việc kiếm ra tiền đóng góp thêm. Từ những ổ nhà thuê tối tăm trong các khu thiếu an ninh, vợ chồng Trần Hoài Thư đă tiến đến việc mua nhà mới, kiện toàn tổ ấm hạnh phúc. Không phụ ḷng cha mẹ, Trần Quí Thoại đă trở thành một y khoa bác sĩ, có tay nghề, có nhiệm sở vững chắc. Năm 2004 Trần Hoài Thư nghỉ hưu non và chính thức thực hiện giấc mơ làm báo, làm nhà xuất bản với lối in ấn, phát hành theo cung cách riêng của ḿnh.
Tôi gặp Trần Hoài Thư tại quân trường Bộ Binh Thủ Đức, vào năm 1967. Lúc bấy giờ, quân trường đào tạo sĩ quan trừ bị, cho quân lực Việt Nam Cộng Ḥa này, đang khai giảng khóa 24. Một công việc đă từ lâu được thực hiện bên cạnh chức năng huấn luyện của quân trường là sự hiện diện một nguyệt san, tiếp nối từ khóa này đến khóa khác. Nguyệt san Bộ Binh là nơi hội tụ những sinh viên sĩ quan có máu yêu thích thơ văn, ca nhạc, hội họa, điêu khắc... Khóa tôi theo học, qui tụ khá nhiều khuôn mặt đă được biết đến trong một số bộ môn nghệ thuật. Trần Hoài Thư là một trong những người này. Trước khi vào quân trường, anh đă có khá nhiều truyện ngắn được đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa khởi từ năm 1964.
Tuy cũng như người bạn đồng khóa, nhà thơ Nguyên Sa, lúc bấy giờ chúng tôi “mới biết” sức nặng của một “khẩu garant”, một “khẩu trung liên bar”…nhưng có lẽ thế hệ chúng tôi, những Lâm Chương, Phạm Văn B́nh, Trần Hoài Thư, Cao Thoại Châu…đă nh́n thấy, đă cảm nhận những điêu tàn, đổ nát của quê hương, những đau xót, tủi nhục của đồng bào, có phần rơ nét và đậm đà hơn ông thi sĩ đàn anh một đôi chút. Chính v́ thế, đề tài của chúng tôi trong giai đoạn khởi đầu, đa số thiếu vắng cái mượt mà lăng mạn của t́nh yêu nam nữ. Riêng trong sáng tác của Trần Hoài Thư, khuôn mặt chiến tranh, thân phận con người nhược tiểu càng ngày càng nổi bật. Những thao thức (nói theo chữ dùng thời thượng là suy tư cuộc chiến) của đa số tuổi trẻ được anh phơi bày tỉ mỉ, vén khéo. Quân trường Bộ Binh Thủ Đức không chỉ dạy cho Trần Hoài Thư biết cách chỉ huy một trung đội tác chiến, mà đă chính thức rèn luyện anh trở thành một nhà văn quân đội ưu hạng, quí hơn nữa, anh giữ vững ng̣i bút ḿnh, đi gần suốt một đời với màu áo xanh olive. Có thể nói, anh là một người lính luôn luôn tại ngũ cho đến bây giờ. Cây súng đă không c̣n cần thiết, nhưng cây bút của anh vẫn không hao ṃn ư chí chiến đấu cho một tương lai đất nước an lành hơn.
Đúng ra, thời ở “KBC Bốn Ngàn Một Trăm” (quân trường Thủ Đức), tôi không có nhiều cơ hội chuyện tṛ với Trần Hoài Thư. Hai chúng tôi ở hai đại đội khác nhau. Doanh trại quân trường nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú, cách Chợ Nhỏ chừng 2000 mét. Đây là một khu vực rộng lớn. Pḥng ốc khang trang, dọc ngang những con đường rợp bóng cây xanh, không khác ǵ một thị trấn thu hẹp. Những đại đội đồn trú riêng biệt, cách nhau khá xa. Việc đi lại trong giai đoạn chưa được gắn alpha rất đáng ngại, lớ ngớ rất dễ bị hít đất, nhảy xổm, dù với khóa 24, sự đăi ngộ kỷ luật của khóa đàn anh dành cho đàn em đă giảm thiểu tối đa. Thêm vào những trở ngại này, mỗi chúng tôi có một ít bạn thân riêng. Trần Hoài Thư thường cặp kè với những Lâm Chương, Vương Trùng Dương…Tôi hay la cà cùng Cao Thoại Châu, Phạm Hoàng, Đỗ Toàn…Chúng tôi chỉ có cơ hội gặp nhau trong những buổi sinh hoạt tại văn pḥng Khối Báo Chí. Những buổi hội tụ này khá nhiều, nhất là trong giai đoạn hai. Bên cạnh mục đích thực hiện, cải tiến tờ báo, các sĩ quan chủ trương c̣n muốn tạo cơ hội cho anh em đóng góp bài vở có thêm th́ giờ nghỉ ngơi, trốn bớt tạp dịch ngay trong những “giờ tùy quyền”. Trong ban biên tập, sau khi khóa 23 ra trường, tôi và anh Trần Sơn Hà có nhiệm vụ phụ tá chủ bút. Tôi cũng là người góp ư để chọn thơ đăng trên nguyệt san. Trần Hoài Thư tiếp nối đàn anh Mê Kung (Phan Nhự Thức sau này) viết đều đặn những trang Nhật Kư Quân Trường. Rất có thể c̣n một vài người góp tay trong mục này, nhưng Trần Hoài Thư là “nỗ lực” chính. Chuyện đi băi, chuyện “bia lên, bia xuống”, chuyện “cơm nhà bàn” , chuyện cơng ghế trên vai đến đại giảng đường, chuyện ở 301 vân vân và vân vân được Trần Hoài Thư ghi lại, dựng lại dưới văn phong nhẹ nhàng, lôi cuốn. Tôi biết rất nhiều sinh viên sĩ quan rất khoái những bài viết này của Trần Hoài Thư. Ngoài những trang nhật kư, Trần Hoài Thư c̣n đóng góp theo truyện ngắn và thơ. Thể loại sáng tác nào của anh cũng có giá trị nghệ thuật, không mang tính cách tuyên truyền khô khan nhằm phục vụ chế độ.
Nếu ḷng dạ của tôi dành cho tờ báo của quân trường thiếu tha thiết, th́ ở Trần Hoài Thư khác hẳn. Anh nhiệt t́nh và say mê, trân quí tờ nguyệt san Bộ Binh một cách khó ai sánh được. Sự chân thành, tích cực của anh, ai cũng nh́n ra. Ban chủ biên tờ báo, cuối khóa đă tặng anh một danh hiệu xứng đáng: “Sinh viên sĩ quan báo chí xuất sắc”. Kèm theo phần thưởng tinh thần này là một quà tặng rất thích hợp cho một nhà văn: một cặp bút Pilot mới cáu trong hộp cứng. “Vật nhẹ nhưng t́nh nghĩa nặng” có lẽ đă giúp Trần Hoài Thư nhớ đời về một thời “chín tháng quân trường”.
Tôi nghĩ, tất cả những ai từng làm thơ, viết văn, và từng là sinh viên Thủ Đức, không ít th́ nhiều đều có những sáng tác về ngôi trường mẹ của ḿnh, ngay trong thời kỳ đang theo học, hay đă phiêu bạt trong chinh chiến sau này. Dĩ nhiên, tôi, Cao Thoại Châu, Đynh Hoàng Sa, Lâm Chương, Phùng Kim Chú, Vương Thanh, Thái Tú Hạp, Lê Vĩnh Thọ, Phan Xuân Sinh, Chu Tân… và người bạn thân sau này, Phan Ni Tấn, cũng đă nhờ vào kỷ niệm thời “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” để cho góc sáng tác riêng ḿnh thêm phong phú. Nhưng nhắc nhớ về một quân trường vang danh một thời vẫn là tác phẩm của Trần Hoài Thư: Thủ Đức Gọi Ta Về, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2001.
Với Thủ Đức Gọi Ta Về, Trần Hoài Thư dẫn những cựu sinh viên đầu đă hai màu tóc, trở lại thăm cổng số 1, cổng số 9, khu tiếp tân, những con đường xanh bóng mát, những doanh trại nối liền doanh trại, vũ đ́nh trường, đại giảng đường, những pḥng học, những nhà bàn, những vọng gác, những lối dẫn về băi tập, những sân bắn, những đoạn đường chiến binh, những đường giây tử thần, những giả sơn, cả khu trầm tư suy tưởng 301…Xin được trích đoạn vài khúc t́nh thơm mồ hôi của Trần Hoài Thư:
“…Ta đang nhớ
về Thủ Đức như bạn ta đang nhớ. Có
phải đêm qua gió quá dữ để băi bắn rụng
đầy lá cao su. Và quân trường những cơn
mưa lá ngâu đă rụng xuống doanh trại. Gió lộng
như từ tứ phương tụ hội về đồi.
Gió mang suốt ngày khắp nơi vang vang lời ca
Đường Trường Xa và nhịp đếm Một
Hai Ba Bốn. Ô hay, ta gầy c̣m, trên dưới 40 kư, thế
mà cũng chịu đựng được sao. Quân trường
đổ mồ hôi. Chiến trường bớt đổ
máu. Kinh nhật tụng cho giai đoạn một.
Bây giờ, quá xa, quá
lâu để mà nhớ về những ngày tháng cũ,
nhưng h́nh như bên tai ta vẫn c̣n văng vẳng tiếng
hát vang lừng từ một góc trời Tăng Nhơn Phú.
Cám ơn nó, bởi v́ nó khiến ḷng ta ấm lại giữa
lúc tiếng gọi đ̣ chiều đă dục. Không biết
tới chuyến nào sẽ chở đời ta qua bên sông cô
tịch. May mà tiếng hát nào như gió băo đánh bạt cái
ư nghĩ đen tối bi quan. Ta đă đứng dậy
đến bên khung cửa. Dưới ánh điện
đường trong một đêm về sáng, ta thấy lại
một vũ đ́nh trường, với những ống
đạn pháo binh sơn trắng bao quanh, ta thấy lại
những đại đội đang xuôi ngược diễn
hành. Có khi hai đại đội cùng di chuyển đối
đầu nhau, và một bên dậm chân tại chỗ, chờ
bên kia vượt qua. Không ai bận tâm lấy ai. Phải
nh́n thẳng. Phải ca phải hát. Lính phải hùng. Gió làm lời
ca bay bổng trên chín cổng, vang khắp băi đồi. Khi
hai chân ta bước nhịp, hai tay ta đánh theo, miệng
ta cất lời, th́ bạn ta cũng vậy. Tất cả
sẽ tạo nên một tập thể đồng nhất,
tiến về phía trước. Trời ơi, cả một
rừng cờ sắc áo như thế, khoá này tiếp đến
khoá khác, biết bao nhiêu bước chân tập tành để
chuẩn bị cho một cuộc lên đường, để
rồi, vũ đ́nh trường giờ đây chỉ c̣n
lại một băi mồ hoang phế. Tiếng ca hùng tráng
ngày ấy đâu rồi. Tiếng hát đă một lần lồng
lộng cùng lá cờ giữa sân ngôi trường lính ngày ấy
đâu rồi. Cổ họng ta đă một thời gào to
cùng tiếng ca lời hát…”
“…Bây giờ ta mới
hiểu thế nào là tập thể. Ta biết thế nào là
tiểu đội trung đội đại đội.
Ta trần truồng như nhộng trong nhà tắm chung. Ta vừa
đi một hai như chú lính ṭ te vừa hát bài Lục Quân
Việt
“…Đêm alpha. Nó là
một truyền thống. Nó là sự liên hệ giữa
đàn anh và đàn em, giữa người sắp sửa
giă từ và những người ở lại. Nó cũng là
điểm mốc cho người được đi
chuyên môn và người ở lại làm lính lội bộ.
Nó vang động cả trời đêm Tăng Nhơn Phú với
lời hô đứng dậy qú xuống như chuyển
rung cả một vũ đ́nh trường. Người
đàn anh sẽ gắn alpha cho ta. Và anh sẽ đập
vào vai ta để bày tỏ lời chúc mừng trong khi ta
chào tay anh không dám động đậy. Rồi anh sẽ từ
giă ta, anh đi đâu:
hăy nắm chặt
giây cương này, luân hoán
ra khỏi nơi
này sẽ gặp nghĩa trang
(T́nh khúc cuối
cùng ở K.B.C 4100, thơ Luân Hoán)
Ta đă quên anh, và
anh cũng không bao giờ nhớ ta. Nếu có chỉ là cái
bóng. Bóng đổ xuống sân vũ đ́nh trường
dưới những ngọn đèn nhiều nến. Ta lại
bắt đầu thay anh, và cái bóng ta đă lấp vào bóng
anh. Ta cũng nhường lại cho đàn em những ǵ mà đàn anh ta đă
nhường cho ta. Rồi ta lại ra đi. Đi đâu.
Ra khỏi nơi này sẽ gặp nghĩa trang. Nghĩa
trang quân đội. Với Tiếc Thương của Nguyễn
Thanh Thu. Với Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu của
Luân Hoán. Với một Mậu Thân đại tang cho khóa 24 của
ta và khóa 25 đàn em.
Đêm alpha, ta
đang náo nức chờ ngày cuối tuần để về
thăm Sài G̣n. Một đoạn đường chiến
binh đă qua. Thêm một đoạn đường nữa
bắt đầu. Bây giờ mới chính là những bài học
vỡ ḷng cho một trung đội trưởng bộ
binh. Hỡi em yêu dấu…”
“…Nhờ có
Tăng Nhơn Phú, mà ta mới đổ mồ hôi để
c̣n có em đem cho ta cơn gió mát. Nhờ có Tăng Nhơn
Phú mà em đă t́m đến ta, vào ngày cuối tuần, mang
theo những món đồ thăm nuôi rải theo nước
thánh. Ta ăn dù chua, cũng thành ngọt, dù cứng cũng
thành mềm... Em hỏi ta có cực không, khiến ḷng ta tở
mở: Thấm tháp ǵ. Ta bị phạt 50 lần hít đất
nhảy xổm v́ tội để giày bẩn, nhưng ta
phóng đại bị phạt cả trăm lần... Làm
như Thủ đức như một ḷ luyện thép... Rồi
em cứ bắt ta kể chuyện quân trường. Em nói
là mỗi lần em đọc Nhật Kư Quân trường của
ta trên nguyệt san Bộ Binh là mỗi lần em khóc. Em
thương các anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức quá.
Em càng làm ta kiêu hănh. Như vậy mà ông Đại đội
trưởng lại cứ phạt ta dài dài. Như vậy
mà đám sinh viên sĩ quan cứ nh́n ta nói bóng nói gió: Nguyệt
san Bộ Binh không muốn mua cũng phải bị ép mua. Trời
ơi, ta đâu có cái thẩm quyền mà nói hờn nói mát
như vậy. Ta viết bài, chẳng những không có nhuận
bút mà cũng bị trừ lương, 8 đồng một
số. Trời ơi. Ta mang mồ hôi của ta của bạn
bè để nhỏ lên trang giấy để các em gái hậu
phương c̣n yêu tha thiết các người mà. Sao lại
trách ta đồng lơa. Sao Đại uư S. cứ ghen tức
v́ ta được miễn ngày thứ tư đi băi để
lên họp ở Khối Chiến Tranh Chính Trị hay về
Hội Quán nh́n em. Tim Đại úy là tim đồng tim sắt,
làm sao c̣n biết cái hay của bài thơ Luân Hoán, Nguyên Sa, Cao
Thoại Châu, những người thơ cùng khóa của
ta? Sao Đại úy cứ
đ́ ta đến tả tơi, tơi tả...chỉ v́
ta có cái tội là viết báo Bộ
Binh?”
(Trần Hoài Thư - Thủ Đức Gọi Ta Về)
Đọc xong Thủ Đức Gọi Ta Về, không thể không điện thoại báo tin vui đến các đồng đội cũ. Không thể không ngậm ngùi nhớ lại những người bạn đă sớm chia tay cuộc đời bằng những loại vũ khí của con người chế tạo ra. Trích đoạn dù có cố t́nh tham lam đến mấy cũng không thể không bỏ sót những nụ t́nh xinh xắn khác của một tác phẩm. Mong rằng các bạn ta sẽ t́m đến với đầy đủ nguyên bản của tạp văn Trần Hoài Thư.
Sự thành danh nhà văn của
chàng thanh niên gầy ốm, dong dỏng cao mang tên Trần Quư
Sách, không phải khởi đi từ cổng số 1 Quân
trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh đă khởi
hành từ năm 1964, năm trở thành một ông thầy
dạy toán tại một miền đất xa lạ. Có thể
nhờ khí thiêng của đất đá Tam Kỳ Quảng
mà một người gốc Đà Lạt sớm đánh thức cái tiềm năng sẵn có của ḿnh ? Nguyên nhân, cơ hội nào không c̣n cần thiết, khi sáng tác của Trần Hoài Thư sớm đứng vững trong sự chọn đăng của báo chí văn học, trong sự chọn đọc của đông đảo bạn đọc. Tạp chí Văn của Sài G̣n đă thực hiện một số đặc biệt, ra ngày 01 tháng 3 năm 1972, nhằm giới thiệu “Sáu Nhà Văn Trẻ” gồm: Trần Hoài Thư, Mang Viên Long, Mường Mán, Định Nguyên, Phan Cung Nghiệp, Phạm Văn Phước. Nhà văn Trần Hoài Thư được nhà văn Mai Thảo, chủ bút tạp chí Văn, ưu ái tán thưởng, nhận xét:
"… Phía tôi nh́n
thấy cho Trần Hoài Thư là cái phía của những
người trẻ tuổi đặt sống thành suy
nghĩ, tự thành trong cô đơn một đời, xuôi
chảy thuận ḍng theo đồng hành và thế hệ,
nhưng vẫn bảo toàn nghiêm mật được cá
nhân ḿnh. V́ biết sống và viết cách nào cũng phải
bắt nguồn từ đó."
Mai Thảo (Văn số 197 ngày 1-3-1972)
Những đánh giá của Mai Thảo chắc chắn không phải chỉ v́ cảm t́nh. Mà vịn vào giá trị những tác phẩm của Trần Hoài Thư đă phổ biến: Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang, tập truyện ngắn, được nhà xuất bản Ư Thức ấn hành năm 1968, Những V́ Sao Vĩnh Biệt, tập truyện ngắn, với b́a Đỗ Quang Em do nhà xuất bản Ư Thức ấn hành năm 1970. Tập truyện ngắn thứ ba, in liền trong năm sau, 1971, có tên Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi do Tiếng Việt xuất bản theo khổ loại sách bỏ túi. Chấm dứt tác phẩm được phát hành trước tháng tư 1975 chừng 2 tháng là tập truyện ngắn Một Nơi Nào Để Nhớ. Lần này, Con Đuông đứng tên xuất bản.
Cũng như nhà xuất bản Thơ, Ngưỡng Cửa của chúng tôi ở Đà Nẵng, Ư Thức, Con Đuông là những nhà xuất bản ở tỉnh lẻ. Ư Thức lập ra từ Phan Rang và Con Đuông từ Cần Thơ. Gọi là nhà xuất bản cho hữu danh vậy thôi chứ không có cơ sở vật chất nào làm nền móng. Sinh hoạt không đặt ra mục tiêu thương mại. Nhưng Ư Thức, Con Đuông, cũng như Thơ, Ngưỡng Cửa… qui tụ những người chỉ có một cái vốn duy nhất là tấm ḷng. Mọi cố gắng nằm trong tinh thần thuần túy văn học, nghệ thuật. Trần Hoài Thư dĩ nhiên đóng góp không nhỏ vào sự h́nh thành của hai nhà xuất bản này.
Sau khi đặt chân lên đất Hoa Kỳ, dù đời sống chưa ổn định, Trần Hoài Thư đă nhanh chóng viết lại. Theo thời gian, anh đă cộng tác với các tạp chí: Quê Mẹ (Pháp), Độc Lập (Đức), Dân Quyền (Canada), Sóng (Canada), Làng Văn (Canada), Lửa Việt (Canada), Nắng Mới (Canada), Đi Tới, Nhân Văn (Hoa Kỳ), Văn (Hoa Kỳ), Văn Học (Hoa Kỳ), Đời Mới (Hoa Kỳ), Phụ Nữ Diễn Đàn (Hoa Kỳ), Sóng Văn (Hoa Kỳ), Gió Văn (Hoa Kỳ)… Trả lời phỏng vấn ngắn của Châu Hải Châu trên tạp chí Sóng, số 73 tháng 6 năm 1988, Trần Hoài Thư bày tỏ một số nhận xét của anh về nền văn học Việt Nam tại hải ngoại, đồng thời cho biết mục đích viết và chọn báo để phổ biến sáng tác của ḿnh:
“
Tôi ở tại một vùng đất rất vắng hiếm
không khí và điều kiện sinh hoạt nghệ thuật.
Chỉ biết qua nhờ những tạp chí được
gửi về qua bưu điện. Dù vậy, tôi cũng có
những cảm nghĩ rất chủ quan sau đây:
1. Nền văn học
hải ngoại rất phong phú bởi sự đóng góp tích
cực của những người viết mới và
cũ. Năm 1975, khởi đầu cho một ḍng văn học
mới. Ḍng văn học chất chứa những bi thảm,
chia ĺa, hờn căm, nhục nhằn, phẫn nộ. Ḍng
văn học này đang lắng sâu vào con tim của những
người c̣n sống trong bóng tối, nhưng đang nổ
bùng ở những người may mắn vượt thoát
khỏi địa ngục. Tôi đă bàng hoàng khi đọc
truyện ngắn của Lê Thị Phi Lai (Bốc Thăm, tạp
chí Lửa Việt). Tôi đă xúc động trước những
bài thơ của Thường Quán, Nguyễn Mậu Lâm, Bắc
Phong, Hồ Công Tâm…và văn của Lê Đại Lăng, Thế
Giang… và c̣n biết bao nhiêu người nữa trên các tạp
chí văn học hải ngoại. Hơn thế nữa, c̣n
có sự đóng góp tích cực của một số nhà
văn, nhà thơ cũ, nhất là những người rời
nước sau 1975. Họ hiểu rơ hơn bao giờ tại
sao họ cần viết. Họ không cần đ̣i hỏi
thù lao hay nhuận bút, dù họ vất vả khó khăn
hơn ai hết trước cuộc sống mới.
2. Điều kiện
sinh hoạt văn học nghệ thuật bị hạn chế.
Miền đất tự do đă tạo những điều
kiện dễ dàng cho ngành báo
chí, xuất bản nhưng rất tiếc những điều
kiện này lại nằm trong tay một số chủ báo,
chủ chợ sở trường về thương mại.
Người viết cho tạp chí này đôi khi bị ngộ
nhận bởi tạp chí khác v́ những lư do không văn học nghệ thuật chút nào. Đó là
chưa kể người viết bị lợi dụng
như qua bài phỏng vấn của nhà thơ
Một trở ngại
nữa là do điều kiện địa dư, đồng
bào hải ngoại sống rải rác khắp thế giới.
Có nơi khó khăn lắm mới t́m được một
sản phẩm tinh thần của người Việt. Ví dụ
người viết cộng tác với tờ Quê Mẹ bên
Pháp chẳng hạn; v́ chủ trương của tờ
báo là bản thảo không được gởi một lúc
cho nhiều tờ báo, th́ làm sao độc giả bên Mỹ,
bên Gia Nă Đại vv… có thể t́m đọc truyện
thơ của người viết, niềm ấp ủ của
người viết là truyền đạt đến
đông đảo độc giả như vậy đă có
phần bị hạn chế ! Trong cuộc sống vật
lộn cùng bill đ̣i nợ này, sự đóng góp là sự
hy sinh không nhỏ.
Dù sao, chúng ta
cũng không thể phủ nhận công sức của những
người đă dám sống và chết cho văn
chương chữ nghĩa. Bởi bên cạnh những tờ
báo rao vặt, phát không, c̣n có những tạp chí đứng
đắn, chọn lọc. Và những tạp chí này là kết
quả của một sự cố gắng phi thường
của những người chủ trương. Họ làm
việc vất vả trong những hăng “mồ hôi”và thay v́ bỏ
tiền để dành trong saving, họ đă bỏ tiền,
bỏ sức vào việc nuôi dưỡng tờ báo không mong “sống hùng sống mạnh”
nhưng sống qua ngày.
(Về chọn
nơi đăng bài, ghi chú của LH)…Ở quan điểm và ở chỗ thân t́nh ưu ái.
Tôi vốn là người lính, tôi không thể không viết cho
một tờ báo nặng chủ trương về ca ngợi
người lính bị bỏ quên hay bị bôi nhọ. Đồng
đội tôi đă gục xuống, đă đang bị
đày ải trong tù ngục. Tôi cần phải có chỗ
để viết về họ. Một tờ báo chỉ có
giới hạn về địa phương và số
độc giả. Tôi ước muốn tất cả những
người bỏ nước ra đi này, đọc và hiểu
lớp thế hệ sa cơ của tôi. Bội bạc họ
là một tội ác.
…
… Tôi không có tham vọng trở thành một nhà văn. Tôi chỉ thật sự viết văn khi 20 tuổi và viết tùy hứng. Ngày tôi ở Thám Kích, tôi kê giấy trên g̣ mả, viết dưới ánh trăng, hay trùm poncho viết trong ánh đèn pin quân đội. Đọc lại những bài viết của ḿnh trước đây đôi khi tôi phải lạnh ḿnh. Thú thật tôi không thể ngờ tôi là kẻ sống sót để viết những ḍng trả lời này. Qua Mỹ, tôi vừa làm, vừa học, vừa viết. Cũng tùy hứng. Tuy nhiên ng̣i bút trở nên thận trọng hơn. Cái kinh nghiệm đớn đau của đất nước là một bài học cho người cầm bút phải không anh ?”
(Trần Hoài Thư trả lời Châu Hải Châu)
Như nhiều người nhận định,
Trần Hoài Thư măi măi là một nhà văn mặc áo lính
trong quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Hơi thở của
văn anh hừng hực sự tranh đấu cho sự thật.
Chính v́ thế, hơn ai hết, anh không thể im lặng trước
sự bôi nhọ người lính Cộng Ḥa của nhà văn
Bảo Ninh qua tác phẩm Nỗi
Buồn Chiến Tranh. Tác phẩm của ông nhà văn miền
Bắc Việt
“
Từ lâu, người ta đă chờ đợi những
tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam bằng
ng̣i bút trung thực, vượt khỏi định kiến,
guồng máy, lập trường, từ những nhà văn
miền Bắc. Tại sao là miền Bắc? Bởi v́, những
người viết của miền Nam ít ra, đă thả
dàn biểu lộ hầu hết những ǵ mà họ đă
tham dự hay nhân chứng, mà không bị ràng buộc bởi
bất cứ một ai, bất cứ một thế lực
nào. Chính v́ sự mong mỏi ấy, những tác phẩm của
Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn
Huy Thiệp, Bảo Ninh, vân vân... đă được
đón nhận từ trong nước, đến ngoại
quốc, và cả người Mỹ lưu tâm về Việt
Nam và đă được xem là hiện tượng. Trong số
những tác phẩm này, tôi được đọc hai
truyện dài: Ly thân của Trần Mạnh Hảo, và Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi xin được
góp ư về Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) v́ truyện
này đă nhắc thường trực về những
người lính thám báo VNCH, mà tôi là một thành viên. Hơn nữa
NBCT hiện nay là một đề tài thảo luận sôi nổi
trên internet, qua những Newsgroups và Usernet. Ngoài ra, truyện
đă được dịch sang tiếng Anh (Bao Ninh, The
Sorrow of War. Vietnamese original Hanoi, 1991; English translation London:
Martin Secker & Warburg, 1993; New York: Pantheon), phổ biến
trong các Đại học Mỹ, tác động nhiều
trong tâm trí của những người tuổi trẻ hải
ngoại không đủ khả năng đọc Việt
ngữ. Nguyên bản bằng tiếng Việt đă
được in ở Mỹ do Nam Việt xuất bản,
Phạm Việt Cường viết tựa, với kết
luận như sau:"Nỗi buồn chiến tranh là một
thành tựu văn học vô cùng lớn lao, là một tác phẩm
sâu sắc nhất về chiến tranh Việt Nam từ
trước đến giờ, và chắc chắn sẽ tồn
tại lâu dài trong kho tàng văn học Việt Nam".
Thưa nhà văn
Bảo Ninh,
Trước hết
tôi phải cám ơn anh v́ nhờ đọc Nỗi Buồn
Chiến Tranh tôi mới hiểu rơ hơn về tâm tư của
một thế hệ và giai đoạn mà tôi cũng như
anh là những người trong cuộc. Anh viết về sự
đổ vỡ và phá sản bi thảm của tuổi trẻ
miền Bắc trong cuộc chiến đấu mà chế
độ từng nói là cuộc chiến đấu thần
thánh chống Mỹ cứu nước. Anh đă kể về
những đồi ma chập chùng ở miền cao nguyên nồng
nặc tử khí. Lính Mỹ. Lính miền
Nói tóm lại anh đă lột tả trần trụi
nỗi kinh hoàng của chiến tranh, không che đậy, giấu
giếm. Ngoài ra anh cũng vén cái màn dối trá từ lâu
đă bao trùm cả xă hội và tuổi trẻ miền Bắc.
Đó là điều hiếm có cho nền văn học trong
chế độ xă hội chủ nghĩa.
Thưa nhà văn
Bảo Ninh,
Tôi đă rưng
rưng nước mắt trên những trang giấy về
nỗi chán chường cùng cực của một thế hệ
bị đẩy vào ḷ nướng, nhưng tôi không thể
không phẫn nộ khi anh dùng nỗi buồn chiến tranh ấy
để cố ư xuyên tạc bôi nhọ một hàng ngũ
thất thế.
Xin đọc lại
đoạn tả một Trung úy thám báo bị phe các anh bắt
làm tù binh: "Tên nom to con nhất trong bọn, mắt trái bị
báng súng dộng ḷi ra, máu ḥa nước mưa nhuộm
đỏ nửa mặt, đưa con mắt lành nh́n Kiên
cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ởn.
- Ba nhỏ đó tŕnh quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi...
Mấy nhỏ la khóc quá trời..." (NBCT, trang 51, 52). Rơ
ràng anh có một trí óc sáng tạo có một không hai. Anh tốt
nghiệp khóa 3 trường viết văn Nguyễn Du mà.
Nhưng anh đă không hiểu ǵ về vai tṛ của thám báo.
Nhiệm vụ của thám báo là ḍ thám, lấy tin. Trinh sát,
viễn thám, thám báo, biệt kích, những danh xưng, dù có
khác nhau, nhưng nhiệm vụ là phải tuyệt mật.
Chúng tôi chỉ dùng tai và mắt để nghe ngóng và ŕnh ṃ
và báo cáo về Bộ Chỉ huy. Toán trưởng thường
thường mang cấp bậc Thiếu úy hay Chuẩn úy.
Riêng cấp bậc Trung úy chỉ dành cho Trung Đội Trưởng
mà cấp số thường trên hai mươi người.
Như vậy, không tên lính thám báo nào lại ngu độn
đến nỗi xâm nhập vào một mật khu, lại
bắt mang theo ba cô chị nuôi, để cho các anh theo dơi bắt
lại. Riêng anh cho người chỉ huy là Trung úy, th́ rơ
ràng anh có một chủ ư thấy rơ. Cứ tưởng
tượng đến một nhóm bảy người
dưới sự chỉ huy của một tên Trung úy vào mật
khu để bắt ba con mồi, thúc súng đằng sau,
hét ḥ, bận bịu để mang ra khỏi rừng, giữa
lúc quân chính qui các anh th́ dầy đặc, rơ ràng là một
câu chuyện hoang tưởng và xuyên tạc có chủ ư.
Trung úy ở hàng ngũ chúng tôi cũng học nhiều
trường, từ trường học, đến
trường lính. Tối thiểu họ cũng có tú tài. Họ
có học thức. Với cấp bậc Trung úy, ít ra họ
cũng có kinh nghiệm chiến trường. Họ không
ngu độn như vậy đâu. Ngay lời nói của
viên Trung úy tù binh kia cũng đủ cho biết cái dối
trá, phóng đại. "Ba nhỏ đó tụi này làm thịt
cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ la khóc quá trời". Nội
câu trả lời kia cũng đủ cho thấy cái chủ
ư, cái căm thù hằn học, mà chỉ có những cai tù
trong trại học tập mới dành cho những con
người thất thế. Hễ là thầy giáo th́ phải
hăm hiếp nữ sinh. Hễ là sĩ quan tác chiến là phải
mổ mật mổ tim nhân dân cách mạng. Th́ ra đầu
óc anh vẫn c̣n bị nhồi sọ bởi cái luận
điệu tuyên truyền của chế độ. Hay
cũng v́ nhờ những đoạn này mà nhà nước
đă cho NBCT được xuất bản và được
cho phổ biến rộng răi?
Cái tàn bạo trong
cuộc chiến là lẽ dĩ nhiên. Tôi không khẳng định
ai ai trong hàng ngũ miền
Xin anh hăy công bằng
khi viết. Hơn nữa chính anh đă kể về người
tù binh thám báo mời lính trinh sát các anh hút thuốc Ruby. Nịnh
hay là một bản tính đôn hậu, chân thật, thân ái của
những người trẻ tuổi miền
Thưa nhà văn
Bảo Ninh,
Trong bất cứ
một tập thể nào cũng có kẻ xấu người
tốt. Tuy nhiên, tôi xin nói với anh một điều,
chúng tôi có học, học từ t́nh yêu thương của
Chúa và Phật, chứ không phải học từ Ban Tuyên huấn,
từ ông Tố Hữu hay Chế Lan Viên, chỉ biết ngợi
ca sắt máu, căm thù người cùng màu da như anh và
tôi. Họ c̣n đấu tố cả cha mẹ họ huống
hồ đối với những người khác hàng
ngũ. Anh đă không can đảm để nói lên sự
thật như Trần Mạnh Hảo đă nói trong Ly Thân.
Tại sao, sau chiến tranh, một nhà thơ trẻ tài ba -
một thương binh cũng nguyên gốc trinh sát là Trần
Khuất Nguyên, lại t́m được một người
bạn tri kỷ cuối đời là một người
thương binh thuộc hàng ngũ chúng tôi? Tại sao anh ta
không có một người bạn nào khác trong một tập
thể thắng trận là các anh?
Thứ hai, khi
đề cập đến nỗi chán nản cực
độ, anh đă cho nhân vật Kiên đi như đi vào
chỗ không người, khi đụng trận với thám
báo (lại thám báo): "Kiên chẳng buồn khom người
xuống, thong thả đi tới, vẻ khinh miệt
đầy uể oải.Tên địch hấp tấp bắn.
Hắn cuống. Đạn nổ đinh tai. Song cả ba
chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay không một
viên găi vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ c̣n cách con mồi
vài bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như
anh muốn ban cho tên địch cơ hội sống c̣n: kịp
thay băng, nhắm kỹ mà bắn gục anh. Nhưng
chính sự chán chường táo tợn của Kiên đă làm
xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật, hắn
đánh rơi khẩu tiểu liên. - Đồ cứt
đái! Kiên chửi gằn và khinh bỉ siết c̣. (NBCT,
trang 31, 32).
Đúng là nhà
văn Bảo Ninh lại mâu thuẫn với chính anh. Trong phần
trên, anh đă vẽ nên toán thám báo tung hoành trong mật khu,
đằng đằng sát khí, sau khi bị bắt, vẫn
lạnh lùng, thách thức, gan dạ, tàn bạo th́ bây giờ
anh lại cho những người lính thám báo kia quá tội
nghiệp, thỏ đế, con gà nuốt dây thun. Anh dựng
nhân vật rất hay nhưng quá giả tạo như kiểu
cao bồi cải lương. Có tên lính nào ngu đần khi
hắn vào thám báo. Có tên lính nào cách kẻ địch vài buớc
(nhắc lại: vài bước) quạt M16 mà sợ đến
độ té đái trong quần. Và có tên lính nào vừa
đi vừa đếm 30 viên đạn như Kiên.
Thưa anh Bảo Ninh, hắn đă tha mạng Kiên đấy.
Hắn đă tội nghiệp giùm cho một người tuổi
trẻ miền Bắc đấy. Hắn đă tha như
tôi và bè bạn tôi đă tha đồng đội các anh.
Chúng tôi đă mời họ những điếu thuốc.
Chúng tôi đă băng vết thương họ, kêu trực
thăng mang họ về bệnh xá. Anh nhớ lại xem,
những tù binh phe các anh, sau khi các anh vào, người nào
người nấy mập và trắng, tiêu chuẩn đầu
người bốn, năm đô la mỗi ngày, và luôn luôn
được chiếu cố bởi hội Hồng Thập
Tự Quốc tế...
Vâng, những
người lính mà anh rẻ rúng khinh miệt ấy, trong ấy
có tôi, họ không hèn đâu. Chính trong NBCT, anh cũng đă thú
nhận, năm Mậu Thân, hàng ngũ của anh đă
tơi tả, tả tơi, có đơn vị thiệt hại
đến 70, 80 phần trăm. Mắt tôi thấy các anh chạy
như một lũ chuột thoát thân, mà chẳng cần xin
pháo dập theo, hay đuổi tiếp. Ngay cả những
người nữ cảnh sát viên (lại phóng đại nữa,
trời ạ. Ban Mê Thuột tôi đă từng ở mấy
năm, đi t́m nát nước, nào thấy một người
nữ cảnh sát viên nào đâu. Nhưng cũng xem là thật
đi.) mà anh viết, họ là đàn bà phụ nữ,
nhưng họ vẫn chiến đấu đến viên
đạn cuối cùng. Chiến đấu bằng súng lục
(như anh kể trong truyện) trước quân đội
chính qui của các anh. Đàn bà yếu đuối mà c̣n
dũng cảm như beo hùm, huống hồ là đám thám báo
chúng tôi. Họ tha Kiên chết đấy. Và anh phải thay
mặt Kiên để cảm ơn họ mới phải.
Đó là lư do tại sao nhà thơ Trần Khuất Nguyên trong
Ly thân đă t́m đến người thương binh của
hàng ngũ chúng tôi mà kết bạn trong những ngày đen
tối nhất của đời ảnh, mà không t́m đến
các anh.
Đă hai mươi năm sau chiến
tranh, những tên đồ tể buôn bán xương máu tuổi
trẻ Việt
Tôi cũng viết
lai rai, và có trăm ngàn chuyện để viết về mấy
năm làm Trung đội trưởng thám kích. Nhưng mỗi
lần đặt bút lên là ḷng tôi lại quặn đau. Tôi
không dám kể hết về những ǵ mà chiến tranh
đă gây nên. Tôi không thể không quằn quại khi khui lại,
mở lại những sợi gân đă buộc chặt vết
thương. Tôi sợ mang nỗi buồn cho con cháu tôi. Bởi
vậy tôi phục anh v́ anh dám mở toác loác cái vết
thương. Tôi đă đau từng ḍng anh viết. Tôi yêu
văn nồng nàn chất liêu trai của anh. Anh quả là một
nhà văn tài hoa chữ nghĩa. Có điều, một nhà
văn có tài, không phải là tài ở những chuyện bịa
đặt, phóng tác có chủ ư, để lường gạt
những người ngây thơ nhẹ dạ, hay không có
kinh nghiệm. Ông ta phải biết thành thật, cho chính
ông, và độc giả của ông và cả kẻ từng
thù địch với ông nữa.
Xin đừng dùng nỗi buồn mà thóa mạ một cách cố ư những kẻ bị thất thế.”
(Trần Hoài Thư)
Không rơ những lời ḥa nhă trên của Trần Hoài Thư có đến dưới mắt nhà văn Bảo Ninh hay không ? Một vài trang báo điện toán có cho đi bài viết này, nhà văn Bảo Ninh chắc không thiếu cơ hội để đọc. Sự tự do của một nhà văn dưới một chính thể đang cởi mở về kinh tế, hẳn nhiên đă được cải thiện khả quan. Điều không rơ ông có nh́n ra Trần Hoài Thư cũng là một người cầm bút như ông, hay chỉ thấy người viết bài “đối thoại” là một cựu thù đă thất thế. Trong một tập thể đông đảo như quân đội, dù phục vụ dưới chính thể nào, có lẽ cũng không thiếu một ít phần tử không được b́nh thường. Nhà văn là người thể hiện những chân thật, tác giả Bảo Ninh một lần nữa phác họa những nhân dạng thù nghịch với chính thể ông phục vụ qua tác phẩm Lan Man Trong Lúc Kẹt Xe, một tác phẩm, mà một bạn đọc quí mến Bảo Ninh, ông Thinh Không, nhận xét trên trang điện tử Đàn Chim Việt ngày 27-10-2006:
“…Chuyện
đă gượng ép, khó tin mà thêm vào đó, nhiều chi tiết
phi lư, mâu thuẫn, phản sự thật một cách lộ
liễu. Sau đây là một số ít (trong đầy dẫy)
thí dụ.”
Khi trích dẫn bài “Đối Thoại…” của Trần Hoài Thư, tôi chấp nhận một sự lạc đề hơi xa trong bài viết của ḿnh, cũng chỉ để chứng minh Trần Hoài Thư luôn luôn là người lính. Sự trích dẫn c̣n có thể gây hiểu lầm, nhưng tôi cảm thấy nhẹ ḷng ra rất nhiều.
Trần Hoài Thư tiếp tục viết báo không nhuận bút như hầu hết mọi người, rồi anh in tác phẩm. Sách của anh phát hành tại hải ngoại rất dồi dào: Ra Biển Gọi Thầm, truyện ngắn, 1995, Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối, truyện ngắn, 1996, Về Hướng Mặt Trời Lặn, truyện ngắn, 1998, Thơ Trần Hoài Thư, 137 tranh b́a của Huỳnh Minh Chí, giới thiệu bởi Lê Ca Dao, ấn hành năm 1998, Mặc Niệm Chiến Tranh, truyện ngắn, 1999.
Sự tiêu thụ văn hoá phẩm tại hải ngoại mỗi ngày một sút giảm. Số đầu sách tăng, nhưng số lượng mỗi tác phẩm càng giảm, sinh ra chi phí ấn loát cao. Để giới thiệu được sách của ḿnh và của bè bạn thiếu phương tiện, Trần Hoài Thư đă lăn vào làm báo trong tinh thần thủ công, nhưng những trang sách, báo anh thực hiện luôn đạt được chất lượng tốt, nhất là giá trị của từng tác phẩm được giới thiệu. Tờ báo của Trần Hoài Thư thực hiện mang tên Thư Quán Bản Thảo, bắt đầu xuất hiện vào tháng 10 năm 2001. Nhóm chủ trương gồm: Trần Hoài Thư (lo phần kỹ thuật in ấn và sưu tập) Phạm văn Nhàn (đặc trách bài vở), Cao Vị Khanh, Trần Bang Thạch và Trần Q. Thọai (tranh b́a).Báo phổ biến hạn chế trong ṿng thân hữu, phát hành mỗi tam cá nguyệt, nhưng sống c̣n đến hôm nay đă 6 năm và đă lên đến số 26. Bên cạnh tờ báo, Trần Hoài Thư và các bạn anh c̣n chủ trương nhà xuất bản Thư Ấn Quán để in các tác phẩm của bằng hữu. Việc làm vô vị lợi, đầy ư nghĩa của Trần Hoài Thư được đông đảo bạn văn tán dương. Cho đến nay nhà xuất bản của anh đă phát hành được:
Về thơ:
Cao Vị Khanh (Lệ Từ Nét Ngang), Phạm Ngọc Lư (Đan Tâm), Vũ Hữu Định (tập 1, tập 2), Nguyễn Bắc Sơn (Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi), Hạc Thành Hoa (Một Ḿnh Như Cánh Lá), Linh Phương (Kỷ Vật Cho Em), Khê Kinh Kha (Tỏ T́nh), Lục Bát Hoàng Xuân Sơn, Từ Thế Mộng (Lẽo Đẽo Một Phương Qú), Thơ Nguyễn Tôn Nhan, Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến (sưu tập 263 tác giả), Nguyễn Nho Sa Mạc (Vàng Lạnh), Hoài Khanh (Thân Phận, Lục Bát, Em Bé Hoa Hồng và Dế)
Về văn:
Tuyển Truyện Ư Thức trước 1975, Tuyển Truyện Thời Chiến của Y Uyên, Nguyễn Lệ Uyên (Sông Chảy Về Núi), Mang Viên Long (Biển Của Hai Người), Tuyển tập 18 tác giả miền Nam trong và ngoài nước, Văn cũ (in lại tạp chí Văn số chủ đề Phượng Trong Thành Nội, tuyển tập những cây bút trẻ), Văn cũ (in lại tạp chí Văn chủ đề Thanh Tâm Tuyền), Văn cũ (Đầu xuân Lộc Mới, tuyển tập những cây bút trẻ), Cao Vị Khanh (Nghề Thầy), Lữ Kiều (Trên Đồi Là Lô Cốt), tập truyện của Nguyên Minh, Phạm văn Nhàn (Vùng Đồi, Màu Thời Gian)
Điểm đặc biệt: hầu hết những tác phẩm này chỉ để tặng khi có yêu cầu.
Nhờ có nhà in mà anh từng gọi là "nhà in không giống ai" trong tay, Trần Hoài Thư cho phổ biến thêm một số tác phẩm khác của anh: / Qua Sông Mùa Mận Chín, thơ Trần Hoài Thư, 116 trang, b́a của Lê Triều Điển, ấn hành năm 2000 (tái bản năm 2001) / Đại Đội Cũ, Trang Sách Cũ, tạp văn và truyện, 2000 / Thế Hệ Chiến Tranh, tập truyện, 2000 / Thủ Đức Gọi Ta Về, tạp văn, 144 trang, b́a Trần Hoài Thư, ấn hành năm 2001/ Phố Xa thơ Trần Hoài Thư, 110 trang, b́a Trần Q. Thoại, ấn hành năm 2001/ Đêm Rừng Tràm, truyện hôm qua và hôm nay, 138 trang, b́a Trần Q. Thoại, ấn hành năm 2002 / Đánh Giặc Ở B́nh Định, tập truyện, 2002/ Hành Tŕnh Của Một Cổ Trắng (truyện, 136 trang), Ô Cửa (tuyển thơ toàn tập, 376 trang).
Với một cơ thể không phương phi, nhưng sức làm việc, sáng tác của Trần Hoài Thư thật đáng nể. Chỉ nghĩ đến việc “một ḿnh một ngựa” trong vấn đề đánh máy, in, đóng, cắt, phát hành…là đủ giật ḿnh, sợ anh rồi. Trần Hoài Thư viết cả một bài dài, kể về cái thú tiêu thời giờ cho sách báo của anh: Cụ thể, anh sắm 5 chiếc máy nướng và đóng sách, sản xuất từ Canada và Mỹ. Mỗi máy một phút in được một tập. Để tiết kiệm điện và đạt được số lượng in cao hơn, anh tự chế một chiếc máy khác với một chảo nhôm và tấm vỉ nướng thịt, chiếc máy thủ công này thực hiện được 8 tập mỗi phút. Trần Hoài Thư vui vẻ so sánh sản phẩm tự chế của anh với chiếc xe vận tải, phá kỷ lục trong ngành sản xuất phương tiện giao thông vận tải tại Việt Nam đầu thế kỷ 21, do một tác giả tên Nhỏ Thanh giới thiệu trên trang điện tử Talawas cùng bài viết Đợi Hết Thời Thổ Tả (ngày 24-3-2006). Trần Hoài Thư than thở việc khâu và cắt sách là vất vả nhất. Tôi nghĩ rằng, nhờ ḷng yêu sách, lạc quan với công việc ḿnh chọn, Trần Hoài Thư đă vượt qua những khó khăn, chán nản mà anh chạm mặt mỗi ngày. Có thể trong lúc chân tay làm việc, Trần Hoài Thư đă nghĩ đến thơ, đă làm thơ để có thêm nghị lực. Điều này rất có thể chính xác v́ thời gian sau này Trần Hoài Thư in thơ nhiều hơn. Nhận định về thơ anh, ông Lê Ca Dao viết:
“ Thơ của Trần
Hoài Thư chính là một phần
của đời sống anh. Có thơ của lính, thuở
những ngày ở Bồng Sơn, Đèo Cả, Đèo
Nhông, An Lăo, Phù Ly…nhưng cũng có thơ của ngày hôm nay,
của những ngày anh làm anh học tṛ già tóc bạc , lúc
đứa con vào học trường y khoa.
Thơ Trần
Hoài Thư, có lúc làm người đọc nhớ đến
thơ Quang Dũng:
‘Quán sớm. Cô
hàng nhăn nếp lụa / tóc c̣n vướng vít ḷng chiếu
chăn/ nước sôi reo ấm gian nhà chật/ bếp lửa
hồng gió bạt. Mùa đông
Gọi cốc cà
phê un khói gió/ Mấy thằng râu tóc chụm thanh xuân/. Vách trống,
sát vào nhau đỡ lạnh. / Trời ngoài kia, sương
phủ mênh mông…’
Và cũng có lúc
cũng làm người yêu thơ nhớ đến Nguyễn
Bắc Sơn:
‘Mưa lũ,
mưa cuồng. Đêm tối bưng/ Nhận lấy ba
ngày cơm gạo sấy/ Không buồn chỉ một chút
bâng khuâng/ Đời ta là con số không vô tận/ May trên
đầu c̣n chiếc mũ rừng/ Mũ nhẹ nên coi
đời cũng nhẹ/ Chiến tranh th́ cũng tựa
phù vân…’
Trích đoạn
như vậy, để làm nổi bật lên cái đa diện
của thơ Trần Hoài Thư. Chứ thực ra, thơ
của anh có cái phong thái riêng, qua đó để được
thấy cá tính của anh, đời sống của anh….
…Thơ của Trần
Hoài Thư là thi ca của người làm chủ được
ngôn ngữ và đă biết cách để nói lên được
tâm cảm của ḿnh…”
(Lê Ca Dao, Diễn Đàn Phụ Nữ, trang VHNT)
Để xem ông Lê Ca Dao có quá lời v́ bạn bè hay không, xin đọc ít bài thơ của Trần Hoài Thư:
Qua
Sông Mùa Mận Chín
“qua
sông mùa mận chín/ tháng nắng ngại đường xa/
em ra vườn sau nhà/ hái mời anh chùm mận/ bông mận
rơi lấm tấm/ vỏ mận hồng như môi/
Ơi em mắt có đuôi/ má đồng tiền ửng
đỏ/ gặp em, người em nhỏ/ nên quên cả
đường về/ trái mận nào dậy th́/ anh giữ
hoài không cắn”
(QSMMC – THT- trang 13, 14)
Đêm
Giao Thừa Nằm Giữ Đường Cho Thẩm Thúy Hằng
“dẫn một
đàn con chiều xuống núi/ giao thừa. không ai nhắc
mà đau/ giao thừa hai tiếng đâm tâm năo/ trừ tịch:
poncho gạch gối đầu
một đêm sao lại
buồn như mếu/ muốn nổ tan tành cả cơi
đêm/ giao thừa giao thừa ta xuống núi/ làm hiệp
sĩ mù giữa u minh/
giao thừa. ai
đó mời ta rượu/ một nhấp, mà hồn tê tái
ư/ anh bạn, nghe ǵ không tiếng nhạc/ người
ta đang nhảy đầm, / dụ vũ xuân
giao thừa mừng
tuổi con heo bịnh/ xin của nhà dân làm cỗ xuân/ trung
đội lập bàn thờ giữa mả/ ta khấn âm hồn…bảo
bọc đàn con”
(QSMMC- THT- trang 25, 26)
Người
Em Kiên Lương
“em
thị thành chăn vịt/ tôi sĩ quan đào trùn/ gặp
em ḷng muốn hỏi/ sao miệng đành lặng câm.
hồ xanh, bèo
không thấy/ vịt đói chẳng buồn bơi/ nước
hồ như bốc khói/ mây buồn không muốn trôi
đây phần
trùn tôi đào/ hổ,cơm, trâu và đất /đây căn
phần người tù/ tôi xin làm tặng vật
lũ vịt trên
hồ xanh/ chen nhau dành mâm cỗ/ em nh́n tôi, ô hay/ cúi đầu
đôi má đỏ
tôi không nghe em nói/ tôi chỉ nghe
trái tim/ để đêm nằm biệt giam/ tôi đau v́ hạnh
phúc”
(Thơ Trần Hoài Thư trang 6)
Cuối Năm Trong Quán Cà Phê Mỹ
“ghé
lại Dunkin gọi cốc cà
phê/ cô hàng mắt xanh nh́n ra ngoài cửa/ ngày cuối năm bầu
trời
thiếp ngủ/ những nhánh cây
gầy gượng chở mùa đông
cô hàng ơi,
đôi mắt quá trong/ sao không thấy ḷng tôi quay quắt/
sao không thấy mắt tôi mờ trên chiếc cốc/ nh́n nỗi
buồn đặc sệt chưa tan
vâng người
con gái nào cũng mắt tô than/ cũng bí mật như ḷng
kim tự tháp/ tôi cũng muốn đùa, con chim xứ tuyết/
ngày cuối năm, em lại buồn so/ bắt tôi tội
t́nh ḷng dạ để đâu
ghé lại Dunkin gọi cốc
cà phê/ nhớ bạn, ra ngoài đường đốt thuốc/
một chút cay cay xé nồng con mắt/ như khói mù buổi
sớm Việt Nam/ cốc xây chừng để lại Qui
Nhơn/ chắc sẽ nguội và đọng thành lệ
đá/
trang giấy nợ
ta có lần ghi sổ/c̣n chừa ta một kẻ chạy
làng
th́ xin cô hàng một
cốc tang thương/ đời cũng đôi lần bỗng
thèm chất đắng/ cũng có khi muốn ḥa nước
mắt/ nhấp theo từng hớp nhỏ héo hon/ của một
người thua trận lưu vong”
(Thơ Trần Hoài Thư trang 103, 104)
Với chỉ bốn bài trích
dẫn trên, đă có thể phản ánh được t́nh yêu,
thân phận cuộc đời của một thế hệ
thanh niên Việt
“
Trần Hoài Thư là một nhà thơ, người lính. Tuyển
tập thơ Ô Cửa gồm 245 bài thơ về một
người lính trong Trần Hoài Thư, cho dù đa số
những thi phẩm đă được sáng tác ở hải
ngoại sau năm 1975, tức là khi phát đạn cuối
cùng đă nổ xong. Người lính trong ông không bao giờ
mất. Đọc Ô Cửa người ta sẽ thấy
điều này từ đầu cho đến cuối tuyển
tập.
Thơ của Trần
Hoài Thư buồn, ngậm ngùi như thân phận của kẻ
chiến bại. Trong “Thế Hệ Chúng Tôi” ông viết về
những người lính trở về sau một cuộc
hành quân: “Khi trở lại trong ḷng quán tối / Thuốc
vàng tay, và vầng trán đăm chiêu / Thế hệ chúng tôi
những đứa đôi mươi / Hồn đă mọc
những nụ buồn rất sớm /... Chiếc mũ rừng
che nửa mặt âm u / Đôi giày trận bết bê bùn sinh tử.”
Người lính
nào mà không âm u sau khi chứng kiến cảnh chiến tranh,
như trong bài “Trung Đội”: “Con sông chia cắt bờ bi
hận / Cột khói c̣n lưu luyến chiến trường
/ Có ai chạy loạn bơi xuồng kể / Một
thước đi, xác ngập thước đường.”
Tàn cuộc chiến,
người lính già đành chấp nhận một thực
tại mới ở xứ người. Bài “Thất Nghiệp”
đă có những câu sau, không bi hùng mà chỉ bi hài: “Bây giờ
ta thất nghiệp / Nàng vẫn đổ mồ hôi / Ngày
xưa thê chờ phu / Bây giờ phu chờ vợ / Ngày
xưa thê tựa cửa / Ngày nay phu tựa song / Chờ thê
về lập công / Giúp rửa giùm chén bát...” Cho dù tiếng
súng đă chấm dứt từ lâu, những ngày quân ngũ
vẫn theo sát đời Trần Hoài Thư như “chiếc
áo nhà binh cũ mèm” mà ông đă viết trong bài “Người
Lính Nhỏ” về con nay đă thành nhân: “Hăy chụp giùm tôi tấm
h́nh với thằng con / Khi tôi mang chiếc áo nhà binh cũ
mèm bạc phếch / Cho con tôi hiểu là trong ḍng máu lính /
Gian khổ nào cũng bất chấp vượt qua.”
(Hoàng Mai Đạt)
Trần Hoài Thư đă in 5 thi phẩm, nhưng trong giới cầm bút cũng như độc giả tôn vinh anh là nhà văn hơn là nhà thơ. Đọc văn anh, nhà văn Lương Thư Trung t́m thấy “chất thơ trong văn phong” anh. Ông viết:
“…Trần
Hoài Thư đă viết cho bạn, viết cho người
t́nh, viết cho vợ, viết cho con, viết cho những
thế hệ trẻ, viết cho người nằm xuống
cũng như cho cả người c̣n sống bằng
lương tâm của một người lính c̣n may mắn
sống sót sau khi khi chiến tranh tàn lụi . Trần Hoài
Thư viết mà như tha thiết kêu gào loài người
nói chung và lịch sử Việt Nam cận đại nói
riêng, hăy trả lại danh dự cho những người
lính trận, những lao công đào binh, những
thương binh, những anh linh tử sĩ đă hơn một
lần hiến dâng đời ḿnh cho quê hương xứ
sở. Những tiếng kêu gào ấy không phải là những
tiếng la hét đinh tai, nhức óc mà Trần Hoài Thư th́
thầm, nói măi, nói hoài bằng con tim thương yêu người
lính một cách chân thật, bằng cả cái hồn thơ
của một tâm hồn nghệ sĩ. Tiếng kêu gào ấy
có lúc tưởng chừng như nổi giận nhưng cả
cái hồn thơ giàu chất lăng mạn, tác giả đă
mang lại cho những tác phẩm của ông trở thành một
cái nơi chốn ấm êm của những mảnh hồn
đồng điệu, của tâm t́nh, của thương
xót, của cảm thông, của rộng lượng, của
t́nh người ...
Xin mời bạn
thử mở ra bất cứ truyện ngắn nào của
Trần Hoài Thư trong số 94 truyên ngắn trong bốn
tác phẩm vừa kể, ngoài những mẩu đối
thoại, c̣n lại bạn có thể ngắt những câu và
rồi xếp lại bằng cách xuống ḍng ở những
chỗ đáng xuống ḍng, bạn sẽ không khỏi ngạc
nhiên những đoạn văn xuôi này lại mang vào thân xác
nó cái hồn thơ của Trần Hoài Thư tự lúc nào .
Để nhận ra cái chất thơ trong văn phong của
Trần Hoài Thư, chúng tôi xin nêu ra vài ví dụ. Chẳng hạn,
để mở đầu truyện ngắn Băi Chiến,
Trần Hoài Thư viết về băi chiến năm xưa
qua h́nh bóng trở về của người goá phụ dẫn
con kiếm t́m ngôi mộ của chồng, của cha, mà hồn
chữ nghĩa của nhà văn đă làm băi chiến
năm xưa hoang vắng cũng ngậm ngùi như đang
cùng với ḷng người goá phụ hoà nhập vào cảnh
vật để mà tưởng vọng, chiêu hồn anh
linh tử sĩ đang phảng phất đâu đây
"đời đời, kiếp kiếp" :
"Người
thiếu phụ ấy đă trở về chốn cũ,
Chốn cũ nào
đây ?
Di tích năm
xưa như những ngọn cỏ ngậm ngùi ...
Rừng vẫn ở
cuối tầm nh́n,
Vẫn mênh mông
ngàn năm sương và khói ...
Và cỏ dại vẫn
bạt trùng...
Và đất vẫn
đậm đỏ cùng những vũng nước đọng
như đời đời kiếp kiếp..."
(RBGT trang 15)
Nhà văn Lương Thư
Trung tiếp tục dẫn chứng nhiều ví dụ cụ
thể khác để đi đến kết luận:
Tóm lại, người
đọc đến với tác phẩm của Trần
Hoài Thư ngoài những truyện ngắn của một nhà
văn viết về chiến tranh để biết đến
thân phận của những người lính trận giữa
đạn bom, chinh chiến với những bi thảm, hăi
hùng của lằn ranh sống chết của con người
trong khói lửa, người đọc c̣n thưởng ngoạn
một bút pháp đặc biệt của tác giả nữa
. Một bút pháp rất giản dị, không nhằm làm dáng
chữ nghĩa, không cầu kỳ gọt giũa mà tự
nhiên phát tiết từ tâm hồn nghệ sĩ lăng mạn
của ḿnh . Đó là chất thơ trong văn phong Trần
Hoài Thư . Có thể nói cái chất thơ trong văn phong của
Trần Hoài Thư đă góp phần không nhỏ làm cho tác phẩm
của tác giả đến với nhiều người
đọc khắp nơi trong ṿng hơn ba mươi
năm qua . Và dĩ nhiên, cái văn phong đặc thù này
đă cho phép người đọc nhận ra Trần Hoài
Thư đă tạo được cho ḿnh một lối viết
mới mẻ, độc đáo trong ư hướng làm mới
văn chương vậy !”
(Lương Thư Trung, Ngày 14-8-1999)
Tôi và Trần Hoài Thư gần
như không liên lạc với nhau sau khi rời trường
Bộ Binh. Nhưng t́nh bạn văn đúng thật là một
thứ t́nh đặc biệt. Xa mà vẫn gần. Sơ mà
vẫn thân. Chỉ cần gặp một đôi lần, thậm
chí chỉ liên lạc qua thư từ đă có thể khó quên
nhau. Ngày 10 tháng 02 năm 1986, tôi nhận được thư
của Trần Hoài Thư gởi từ
Lúc
bấy giờ gia đ́nh Trần Hoài Thư đang ở miền
Bắc New
Ngày 19 tháng 5 năm 1992, chị Nguyễn Ngọc Yến lái xe đưa anh Trần Hoài Thư sang Montréal tham dự buổi ra mắt tác phẩm Chân Dung Thơ Luân Hoán, mở đầu cho những lần hiện diện của Trần Hoài Thư trong các sinh hoạt ra mắt sách, diễn thuyết của anh em bạn văn Montréal sau này, và lần nào anh chị cũng ghé thăm người bạn chiến sĩ cụt chân cùng một quân trường cũ.
Hạ tuần tháng 7 năm
1993, gia đ́nh chúng tôi cũng đua đ̣i rủ nhau đi
tắm biển.
Ngôi nhà của gia đ́nh ba
người Thư, Yến, Thoại thuộc dạng nhà riêng,
một tầng lầu. Nơi thờ Phật và gia tiên an vị
trên này. Đêm chúng tôi có mặt, cả gia đ́nh Trần Hoài
Thư đều rút lên ngủ cùng với linh vị ông bà,
nhường phần trệt cho gia đ́nh chúng tôi. Sáng hôm
sau, theo thói quen, tôi thức dậy sớm, không có ǵ làm,
lười đọc báo, tôi loanh quanh quan sát cái ổ hạnh
phúc của bạn ḿnh. Pḥng khách lót thảm màu xám tro. Ghế
salon mệm nhung dày màu mỡ
gà . Bàn nước mặt kính. Sát chỗ tiếp khách, một
kệ gỗ khá rộng, vững chắc đỡ chiếc
máy tivi màu,
Tại ngôi nhà của vợ chồng Trần Hoài Thư, tôi c̣n có dịp bâng khuâng, nhớ nhung lại một thời ấu thơ. Điểm gợi nhớ này nằm ở cái mặt tiền. Phía trước ngôi nhà của Thư có một khoảng không gian rộng răi, thông thoáng. Những tấm ván lắp ghép bao bọc vách tường, những máng xối, cả những mái che cửa sổ khá mỹ thuật, được sơn trắng có viền xanh thanh nhă. Tiếp với cửa vào nhà là mái hiên có gắn đèn soi, lan can sắt. Những h́nh ảnh chung chung rất Mỹ này đâu có thể đẩy trí nhớ tôi lùi năm mươi năm, nếu không có cái tổ chim nằm nửa kín nửa hở trong mái hiên. Anh chị Trần Hoài Thư có lẽ cũng thích chim bướm. Cảm ơn anh chị đă không phá đi cái ổ t́nh nhỏ bé này. Những con chim con, không rơ thuộc giống ǵ, nhưng qua tiếng kêu khe khẽ của chúng, tôi đoán ra, chúng đang thời mọc lông cánh. Thư cũng kể cho tôi nghe về tổ chim này. Theo anh đă có mấy lứa “ra ràng” bay vào cuộc đời. Nh́n tổ chim ở nhà Trần Hoài Thư, tôi không thể không bức rức v́ đă một lần phá nát một gia đ́nh bồ câu. Lần đó, chỉ mới qua vài ba năm.
Sau khu nhà tôi ở trên đường Barclay, Montréal có nhiều cây cao, bóng mát, ngăn cách giữa khu chung cư tôi ở với dăy nhà của người Do Thái. Trong đám cây có khá nhiều loại chim và sóc sinh sống. Tôi bắt gặp chào hỏi, nuôi ăn chúng mỗi ngày. Những loại chim tôi nuôi, như yến, manh manh, yến phụng…thỉnh thoàng tôi cũng đưa chúng ra hiên sau cho tắm nắng. Hiên không rộng và có cầu thang xuống sous sol, pḥng giặt chung. Trong gần một tuần lễ, tôi bắt gặp một cặp bồ câu thường ghé qua hàng chấn song mái hiên ḿnh, nghiêng đầu, ngó chỗ này, nh́n nơi kia ngẫm nghĩ. Có chút ít kinh nghiệm nuôi chim, tôi biết ngay đôi chim đang t́m ổ đẻ. Tôi ra nh́n trần hiên, vách tường. Không chọn được điểm nào thích hợp. Cuối cùng tôi quyết định phỉnh Lư đi mua một cái kệ sắt, gồm năm ngăn, không vách, loại kệ thường dùng ở garage để đựng phụ tùng linh tinh. Lư tin tôi dùng nó trong việc để những vật dụng ít khi xài tới mà không sợ hư hỏng, cùng những hộp nhựa đựng kẹp phơi áo quần. Kệ sơn xám, tuy bằng sắt nhưng khá nhẹ nhàng, tôi kê ngay ra hiên và cũng t́m ngay một thùng carton lớn vừa phải để làm tổ chim. Tôi dùng vài chiếc áo vải mỏng của vợ tôi lâu ngày không mặc, cắt ra thành sợi, lót thay những cọng rơm. Tôi cũng t́m thêm một ít lá cỏ khô, và bứt một ít cọng chổi để lót chung. Tôi đặt tổ trên đầu kệ sắt, sát vách tường, cẩn thận cột giây thép và ngụy trang vài cục đá ở ba mặt cho có vẻ tự nhiên. Vẫn mát tay như lót ổ chim nuôi, đôi bồ câu chỉ mấy giờ sau là ghé lên thăm viếng, rồi rủ nhau sửa sang lại chút đỉnh. Tôi đặt máy Handycam vidéo 8 sony để theo dơi. Dĩ nhiên Lư đă biết ư đồ của tôi nhưng rất vui vẻ hưởng ứng. Tổ ấm này sau đó trở thành chỗ cư ngụ của gia đ́nh cặp chim đến mấy năm. Nhiều lứa chim con ra đời. Đôi chim cha mẹ đă khá dạn dĩ. Vào một ngày mùa nắng, tôi bắc ghế quan sát, nhận thấy tổ chim đă bị hư hỏng nhiều v́ tuyết, mưa tạt vào. Tôi dọn vệ sinh. Lúc dọn không vấn đề ǵ xảy ra, nhưng khi vào nhà rửa tay, tôi phát hiện trên da thịt, mặt mũi ḿnh bám đầy những con mạt bé li ti (một loại bọ nhỏ ở lông vũ hoặc rơm rạ). Ngứa ngáy bắt đầu. Tôi tắm liên tục vẫn không thấy hết. Những ngày tiếp theo, Lư ra hiên phơi áo quần cũng bị những con mạt tấn công v́ đă động ổ. Lư cằn nhằn mấy hôm dẫn đến việc tôi ngậm ngùi giỡ đi ổ chim, đưa tạm ổ trứng chưa nở ra một cành cây thấp. Đôi chim câu lui tới cả tuần trên đầu kệ sắt, ngơ ngác, bàng hoàng. Để dẹp hy vọng của chúng, tôi dẹp luôn cái kệ, và kéo màn cửa sau đến mấy ngày, khi tôi xuống bếp.
Qua một đêm ngủ lấy
hơi, chúng tôi được vợ chồng Trần Hoài
Thư lái xe theo đến thủ đô thế giới, thành
phố
Liên tiếp hai mùa hè kế chúng tôi thăm các sở thú, mùa hè năm 1995, chúng tôi đến băi biển Wildwood Beach và trên đường về, chúng tôi ghé qua đêm tại nhà anh chị Trần Hoài Thư lần thứ hai. Giao t́nh tốt đẹp giữa chúng tôi suưt bị phá hỏng bởi chuyện ra mắt sách.
Năm 1996 Trần Hoài Thư phát hành cuốn truyện Ra Biển Gọi Thầm. Tuy không đề nghị, nhưng nếu có người tổ chức sách ra mắt tại Montréal Trần Hoài Thư sẽ rất vui. Điều đáng tiếc là các bạn văn Montréal gần như đuối sức sau buổi ra mắt tập thơ của anh Tô Thùy Yên, nên đành phải lặng lẽ trước tác phẩm mới của một người bạn đầy chân t́nh với Montréal. Cá nhân tôi, ngoài cái tên đứng ké với anh em trong những lần tổ chức, không làm nên tṛ trống ǵ. Tôi tự thẹn với Trần Hoài Thư v́ những buổi ra mắt sách cho Thụy Khanh, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Tấn Hưng, Du Tử Lê, Dương Kiền, Mai Kim Ngọc…Rất may, Trần Hoài Thư được một người bạn khác đề nghị, dùng pḥng khách của anh ta để ra mắt sách. Buổi Trần Hoài Thư kư sách tặng bạn bè, bạn đọc đó nhằm vào đêm 29 tháng 6 năm 1996. Buồn và có quan hệ không mấy tốt với người bạn tổ chức cho Thư, tôi đă không có mặt trong buổi sinh hoạt ấy. Nhưng với sự bao dung, anh chị Trần Hoài Thư vẫn vượt hàng trăm cây số để đến với gia đ́nh chúng tôi trong cuộc vui nhân ngày vu qui của cô con gái Lê Ngọc Thạch Bích, hôm 15-7-1996.
Chúng tôi vẫn thường
xuyên thăm hỏi nhau qua điện thoại, rồi điện
thư. Trần Hoài Thư trở nên bận rộn suốt
ngày v́ vừa sáng tác vừa làm báo, in sách. Tôi có cảm tưởng
như anh ăn ngủ cùng sách báo, mực in, máy nướng,
máy cắt trong từng giây phút. Trong thời gian này, tôi cũng
ham chơi internet nên chẳng
đóng góp được ǵ cùng công việc đầy ư nghĩa
của anh. Gần đây nhất, qua nhà thơ Uyên Hà, họa
sĩ Nguyễn Nho Châu, em trai nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc
có cho phép tôi in thi phẩm Vàng Lạnh, gia tài của Nguyễn
Nho Sa Mạc để lại. Đây là cơ hội ngàn vàng
để tạ t́nh một người bạn thân mệnh
yểu, nhưng v́ nhiều điều kiện trở ngại,
tôi đành bán cái cho anh Trần Hoài Thư cùng cơ sở Thư
Ấn Quán của anh lo. Không ngờ, chỉ trong một thời
gian rất ngắn, Trần Hoài Thư đă hoàn thành dự
định thật tốt đẹp, kịp thời điểm
phát hành trong ngày giỗ lần 43 của Bửu, bạn tôi.
Sự thành công trong chủ trương làm giàu Tủ Sách Di
Sản Văn Chương Miền
Ngồi ghi lại những
ḍng kỷ niệm này, tôi như thấy ngay trên phím chữ
trước mặt, h́nh dáng một người bạn biết
nói, biết nghe, vừa phải chững chạc. Có nhiệt
t́nh, có trầm tư chín chắn trong mỗi một sinh hoạt.
Trần Hoài Thư không bốc đồng, ba phải như
tôi. Có thể ảnh hưởng môn toán anh từng theo học,
nên anh có những tính toán rất hợp lư. Là một sĩ
quan chỉ huy đám khinh binh, nên anh khéo sắp xếp những
vị trí công tác, và điều hành trôi chảy. Tôi suy ra điều
này khi nh́n vào sự thành công nhịp nhàng của tờ báo Thư
Quán Bản Thảo và cơ sở xuất bản Thư Ấn
Quấn mỗi ngày một phát triển, nhận được
sự tin cậy từ các bạn văn trong và ngoài Việt
Tôi đă vài lần viết tặng Trần Hoài Thư đôi câu thơ. Dù vẫn không như ư, cũng xin chép lại ở đây, như một tài liệu:
“Kéo
quân qua quất bạn hiền/ xa lộ “ma rốc” đêm
nghiêng ngả cười/ đời vui nhờ cảm biết
vui/ cảm ơn trời đất nuôi người thành
tâm”
“Thân khô ngay từ
thuở/ Thủ Đức Gọi Ta Về/ tha thiết
t́nh sông núi/ nuôi thơm lời nguyện thề/ trên từng
vuông trang chữ/ mặt trận vẫn cận kề/ chẳng
phải v́ hiếu chiến/ phải chăng hận xa quê ?”
“ nắng sót một
chùm trên tóc khô/ mà thơm nguyên cả thuở giang hồ/ dang
tay ôm lại t́nh huynh đệ/ quí sách, nằm quên nghĩ
đến thơ…”
“ông thầy mỏng mảnh như lau sậy/ khói lửa oằn thêm sức bật thôi/ đôi vết sẹo cuồng thêm thắm mặn/ gánh văn đi dạo dọc theo đời/ sau lưng thấp thoáng nàng Thị Lộ/ thương chàng Quư Sách ghé vai thơm”
Luân Hoán
22-01-2007