Trần
Mộng Tú
trong vườn hoa vàng
Luân Hoán
Năm th́ mười
họa, tôi vui vẻ nhận được một
cuốn sách có chữ kư của tác giả. Nhưng trong ít
trăm cuốn đă nhận, chưa có người sáng tác
nào thuộc phái yếu. Năm
1991, tôi bất ngờ, sung sướng nhận
được thi phẩm “Thơ Trần Mộng Tú” do chính tác giả kư,
gởi tặng. Thú thật, nhờ được giới
thiệu trước, nỗi vui sướng của tôi
mới thật sự trọn vẹn, bởi quư danh
của người có ḷng, thiếu đi một chữ
duyên dáng, xác định cần thiết của những
người đẹp. Căn cứ vào chữ “Mộng’
đầy yểu điệu th́ chưa đủ.
Đă có đọc thơ của tác
giả này qua một số tạp chí Làng Văn, Văn Học, Văn, Thế Kỷ 21…tôi
buột miệng khen:“bà này làm
thơ tới lắm”. Nguyễn Đông Ngạc
cười bảo: “thơ hay,
người đẹp nữa đấy, nếu Hoán thích,
để tôi giới thiệu cho, chỗ bà con mà !” Anh
nói thêm, chắc như đinh đóng cột: “Tôi sẽ nói cô ấy
gởi cho Hoán một tập thơ”. Thân mẫu của
Ngạc là một bạn đọc của các nhà văn,
nhà thơ Việt
Tiết lộ của thân mẫu Ngạc làm mất ngay chút xíu hy vọng của tôi. Con của một người sui gia th́ sự thân t́nh hẳn xa vạn dặm. Tôi nghĩ , việc Ngạc bảo sẽ nói cô ấy tặng sách chỉ là vui miệng, nói dóc chơi thôi. In sách, tặng sách, có thể nói như phim Tàu là chuyện “thiên kinh địa nghĩa”, nhưng người tặng sách ít ra phải biết đại khái về người sẽ nhận quà. Tôi th́ chập chờn vài bài thơ trên ít báo hải ngoại dễ ǵ được ai biết.
Nhưng tập thơ với chữ kư tác giả đă đến với tôi vào ngày 10 tháng 6 năm 1991, trong lưng b́a sau của tập thơ, tôi có ghi rơ ngày vui này. Tôi không c̣n nhớ hết nỗi khoan khoái của ḿnh khi cầm tập thơ xinh xinh trong tay. Nỗi xúc động khi nh́n hàng chữ đề tặng và cả chữ kư vô cùng giản dị của chị Tú: Chữ “t” không viết hoa dính liền với chữ “m”, chữ “m” dính liền với chữ “tú”, cũng không viết hoa và có dấu sắc đàng hoàng, nh́n chung như một chữ viết b́nh thường, ai cũng nhại tuồng chữ được. Chị Tú lại c̣n nâng tôi lên cấp “thi sĩ” nữa thật là thú vị. Chắc chắn trăm phần trăm tôi đă viết thư cảm ơn chị. Việc làm đương nhiên này, suốt đời tôi chưa quên thực hiện lần nào, khác với một số ít bạn “ngon lành” ngày nay, nhận sách rồi im luôn, không một hồi âm cho người gởi sách khỏi lo thất lạc, dù có đủ phương tiện thông tin không mất tiền như điện thư. Tôi và nhà văn Song Thao, thỉnh thoảng cũng gặp những vị “ngon lành” quên phép lịch sự này.
Tập “Thơ Trần Mộng Tú”, nền b́a trắng bóng. Họa sĩ Khánh Trường tŕnh bày với chính bản vẽ của anh: Khuôn mặt thiếu nữ nh́n nghiêng, có tóc, có cổ nhưng thiếu vai, màu sắc đậm đà. Người Việt đứng tên xuất bản. B́a sau để lưng trần, không chữ, không h́nh vẽ nào. Nh́n chung rất nghệ thuật, thanh thoát. Sách dày 120 trang, được xếp trang theo thứ tự: trang 3, ghi hai ḍng, sát nhau; ḍng trên chữ Thơ. Ḍng dưới : chữ Trần Mộng Tú. Trang 5 là trang mặt của cuốn sách, tŕnh bày chữ Thơ nhỏ phía trên, chữ Trần Mộng Tú khá lớn nằm cách xa dưới chữ thơ, gần cuối trang giấy tên nhà xuất bản Người Việt và năm xuất bản được in ḍng dưới, tất cả dùng font chữ Monotype Corsiva. Ở trang 6, giới thiệu những sáng tác đă xuất bản của Trần Mộng Tú, kể từ 1990 về trước, gồm:
Tuyển Tập Thi Ca, in chung cùng nhiều người, thơ viết trong khoảng thời gian 1975-1977, do Bố Cái tại Hoa Kỳ xuất bản.
Thơ Việt
Trăng Đất Khách, tuyển tập
truyện ngắn của các cây bút nữ tại hải
ngoại, do Làng Văn tại
Ở trang 7, giới thiệu những chi tiết thường lệ của một cuốn sách, trong đó ghi:
“B́a:
Khánh Trường, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị
Hợp
Phụ bản
họa: Khánh Trường, Thái Tuấn, Nguyên Khai, Nguyễn
Đồng, Nguyễn Thị Hợp
Phụ bản
nhạc: Hoàng Quốc Bảo, Vũ Thái Ḥa, Tiến Dũng,
Trần Trung Ngọc”
Trang 9: Lời tựa, do chính nhà thơ Trần Mộng Tú viết, nguyên văn:
“ Những
điều tôi muốn giữ kín cho riêng tôi th́ tôi lại
bồng bột đem viết cả vào thơ. Tôi làm
thơ nghĩa là tôi để tinh túy hồn tôi tuôn ra cùng
mực. Tôi thu vào ḷng tôi những yêu thương hạnh
phúc, những phiền muộn, ngang trái của cuộc
đời, để dành măi trong một góc hồn, không
chịu nổi phải viết ra thành thơ.
Tôi là con tằm
ăn hết lá dâu non, dâu già th́ tự động phải
nhả ra những sợi tơ.
Tôi làm thơ
nghĩa là tôi chuyện tṛ cùng cây cỏ, tôi tự t́nh cùng
trăng sao, tôi khóc than cùng sông nước.
Tôi không thể
bước thản nhiên lên một chiếc lá vàng mà không nghe
hồn ḿnh rúng động.
Tôi vỡ oà và tan thành trăm mảnh vào những
đêm trăng sáng.
Sông nước
đă cuốn tôi theo không phải là để nhận ch́m
mà là để cho ḷng tôi run rẩy.
Mùa xuân đến th́ hồn tôi đâm lộc xanh,
nở hoa vàng, thơ tôi cười, thơ tôi hát. Nhưng
vào thu th́ hồn tôi rớm đỏ như những
chiếc lá phong, thơ tôi trôi vào một gịng sương
đục.
Những đám
mây trắng mùa hạ cũng cám dỗ tôi và treo thơ tôi
lơ lửng trên những cánh ve sầu. Tôi úp mặt
giữa hai bàn tay bé bỏng vào những buổi sáng mở
cửa nh́n ra một mảnh đất trời trắng
xóa. Tôi găy vụn như những cánh bướm tuyết
rơi vào khuôn cửa kính. Tôi và mùa đông tan thành thơ.
Tôi làm thơ,
nghĩa là tôi đọc 1000 trang sách rồi viết
tiếp chương 1001. Tôi soạn một bản nhạc
mà không phải dùng đến âm giai.
Tôi làm thơ
nghĩa là tôi hát một bài hát mà không cần giọng kim
giọng thổ. Tôi vẽ một cây cầu vồng mà không
cần đến những ống màu bảy sắc khác
nhau.
Tôi làm thơ
nghĩa là tôi chúc tụng hạnh phúc mà không phải đi
dự tiệc tân hôn, ai điếu ḷng người mà không
cần phải đến nghĩa trang.
Tôi dùng ngôn
ngữ để cô đọng ngôn ngữ, và tôi rất hài
ḷng. V́ phải chăng thơ là tinh hoa của ngôn ngữ?
Mời bạn hăy bước vào cánh đồng thơ tôi, tuy chưa được mênh mông bát ngát, nhưng xin bạn hăy cẩn thận v́ cánh đồng thơ tôi không có hàng rào”.
(Trần Mộng Tú 4/90)
Có thể xem
đây là một bản tuyên ngôn về sự việc làm
thơ của tác giả một cách thú vị, tinh
tế. Tiếp sau văn
bản này là 58 bài thơ, như 58 luống hoa của
Trần Mộng Tú. Khởi sự bừng nở với
Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt
“Mẹ tôi
chuyển dạ trên một chiếc xe rơm
Có hai con ḅ kéo
Hai con ḅ nào
hiểu
Đang chở một thi sĩ trên lưng
Và thi sĩ ra
đời
Bài thơ
đầu tiên là tiếng hát…”
Dù chính xác hay
chỉ thi vị, hư cấu, những ḍng thơ trên
thật là đẹp. H́nh ảnh người thi sĩ này đến với cuộc
sống có phần khác thường nhưng không bi thảm.
Tôi nghĩ, không chỉ đôi ḅ mà cả chiếc xe, cả
những cọng rơm lót ổ trên xe, đều linh
cảm được sự có mặt của một nguồn
sống tràn đầy văn hoá sau này. “Bài thơ đầu tiên là tiếng khóc” quả
thật như vậy. Bởi tiếng khóc ở thời
điểm nào, cho hoàn cảnh nào cũng rất gần
với thơ, nếu ta lắng ḷng cảm nhận.
Những địa danh, những con đường,
những khoảnh khắc hít thở, đến một
cuộc t́nh lần lượt được sống
lại, được gọi tên như từng mũi dao,
có đủ đau thương, chua xót khắc sâu vào tim,
vào năo của một người giàu chân t́nh. Suốt
cả chiều dài bài thơ là những gợi nhớ,
gần như riêng tư với bao nhiêu vết tích đă và
đang trở thành kỷ niệm. Nhưng thật linh
hiển, những nét riêng biệt bỗng trở thành h́nh
ảnh chung của nhiều phụ nữ hiền thục
Việt
“Buổi sáng
người bố đi làm
Các con đi
học
Mẹ ở nhà
nấu ăn, làm bánh, làm thơ
Bạn bè
đến nh́n vào
Khen gia đ́nh tôi hạnh phúc…”
Người phụ nữ biết làm thơ có thật sự nhiều nước mắt hơn những người đàn bà b́nh thường, dù nàng là những danh nhân, công chúa như Chiêu Quân, Hạnh Nguyên… ? (…Hỡi nàng công chúa Huyền Trần/ khi nhớ quê đă khóc được bao lần/ chắc khóc ít- v́ không phải là thi sĩ. - Thơ Trần Mộng Tú). Tôi nghĩ rằng, những người phái đẹp biết làm thơ, sẽ biết nhiều cách khóc tuyệt diệu. Làm thơ nhiều khi cũng là một cách khóc.
Trần Mộng Tú tiếp tục vẽ chân dung tâm hồn ḿnh trong hầu hết những bài thơ của chị. Chị sử dụng nhiều thể loại. Bảy chữ, năm chữ, tám chữ, lục bát, tự do với câu ngắn tiếp câu dài… chỉ là những phương tiện để sắp đặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ thi ca lâu nay vẫn chỉ loanh quanh quen thuộc, và là của chung nhiều người. Gần đây thêm được một số từ vốn không dùng cho thơ, nhưng chị Trần Mộng Tú không đụng đến. Thơ cũng như nhiều bộ môn nghệ thuật khác cần có sắc thái riêng. Cái căn cước của mỗi người chỉ có điểm khác nhau ở nội dung. Cách xếp chữ, tŕnh bày h́nh ảnh, màu sắc xen lẫn việc biểu lộ chân t́nh cũng sẽ làm nên dáng vẻ riêng biệt. Chị Trần Mộng Tú thành danh thi sĩ v́ có khả năng này trước tiên. Trong một điện thư cho phép tôi được Dựa Hơi, chị Tú căn dặn:
“…Anh cần
hỏi tôi điều ǵ cứ hỏi. Nhưng chỉ xin
một điều là đừng có khen quá. Tôi dễ bị
ngượng khi nghe khen, v́ bạn bè nhiều khi hay khen nhau
một cách quá đáng, làm độc giả bên ngoài khó
chịu”
(Tue 14. Nov 2006- 09.3718-0800)
Chị Tú đă tế nhị và cẩn thận. Nhân đây, tôi xin thú thật,tôi có vài thói quen khi phải trả lời những câu hỏi có tính cách nhận định, từ một số bạn có chút chút quen biết hoặc chưa. Nếu đă đọc được một bài không ưng ư. Tôi thường trả lời: “có thấy bài anh, xin lỗi chưa kịp đọc…”. Ngược lại, gặp một bài hay, tôi luôn luôn ngắn gọn: “đọc rồi, thú vị lắm”. Ở câu trả lời đầu, tôi thiếu thật thà, nhưng với câu trả lời sau, tôi rất thật t́nh. Cơ hội tôi khen bè bạn rất hiếm. Một vài bạn văn in sách t́m không ra người giới thiệu cho tác phẩm ḿnh đầy đủ lệ bộ, mới áp dụng câu tục ngữ “ không chó bắt mèo ăn c…”. Trong trường hợp bị ép ăn này, tôi chỉ ba hoa, loanh quanh, với những câu đậm đà chất màu mè, nhưng sạch sẽ bên trong là xong. Dĩ nhiên không thiếu điều đáng đề cao, khen ngợi trong các tác phẩm của bằng hữu tôi. Ngay ở thơ, ở văn của chị Trần Mộng Tú cũng vậy. Nét đẹp của thơ văn chị, tôi không nói lên được, không phải v́ lời dặn của chị mà v́ tôi thiếu khả năng để diễn đạt sự cảm nhận, thưởng ngoạn của ḿnh. Cảm nhận cái tinh túy của một tác phẩm không khó, nhưng phân tích cái giá trị đó thành bài bản, thuyết phục người khác đồng quan điểm với ḿnh không phải là chuyện dễ. Để có một vài cái nh́n về thơ chị Trần Mộng Tú, tôi xin trích một số nhận xét:
“Có thể nói
Trần Mộng Tú là nhà thơ nữ được
biết đến nhiều nhất ở hải ngoại.
Ngôn ngữ thơ Trần Mộng Tú chuẩn mực, nghiêm
túc, giống như ngôn ngữ của một nhà giáo, cân
nhắc từng lời ḿnh buông ra. Dù vậy, nhà thơ
vẫn không giấu được một khối t́nh
cảm đầy ắp ở bên trong. Đầy mà không
tràn. T́nh yêu cũng chuẩn mực như chính ngôn ngữ
của cô; hay đúng hơn, ngôn ngữ đă
được chuẩn mực hóa như t́nh yêu của cô:
vừa phải, chừng mực, nhưng không kém vẻ sâu
sắc, ư vị.
Thơ Trần
Mộng Tú là thơ t́nh. Thứ t́nh rất keo sơn,
thủy chung. Thứ t́nh bất tận. T́nh yêu quê
hương. T́nh yêu gia đ́nh. T́nh yêu đôi lứa và
đặc biệt, t́nh yêu đối với cuộc
đời, dù với bao cay đắng, phũ phàng.
Trần Mộng Tú luôn ca tụng lẽ thiện và niềm
hạnh phúc chung cho con người, nhưng không thù ghét cái
ác, người ác. Thơ cô là biểu tượng ḷng bao
dung tha thứ của một người mẹ, một
người chị, một người em gái, mở
rộng ṿng tay đối với những sai lầm, man
trá, tàn ác...”
(Vinhhao.net/Doctho/tranmongtu.htm)
“…Trần Mộng Tú là nhà thơ
tiếng tăm hải ngoại. Mọi thứ t́nh
người tràn trề trong tâm chị, trào ra ngọn bút
ngọt ngào tươi tắn, chị không trau chuốt mài
dũa từng chữ nên thơ chị cực kỳ trong
sáng gây xúc động. Bài thơ nào cũng có t́nh
thương yêu như hạt kim cương lấp lánh
đă tạo cho Trần Mộng Tú một giọng thơ-văn
riêng biệt. Thơ chị là món quà quư hiếm c̣n sót
lại giữa thời buổi thơ hậu hiện
đại bắt đầu mở màn cho kỷ nguyên
mới khác.”
(http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/TranMongTu/GioithieuTMT.htm)
Thơ Trần
Mộng Tú không chỉ được phổ biến,
đón nhận tại nhiều quốc gia có người
Việt cư ngụ. Những người có ḷng với
văn học tại Việt
Định cư tại Hoa Kỳ,
nhưng nguồn cảm hứng của Trần Mộng Tú
được lượm từ nhiều quốc gia.
Những con ngỗng bay từ nước láng giềng
“Hàng năm
cứ vào đầu mùa thu, từng đàn ngỗng Gia Nă
Đại (Canada Goose) rủ
nhau kéo về Bắc Mỹ để t́m nắng ấm
rồi từ đó lại xuôi ḍng về Trung Mỹ
để trốn mùa đông. Ngỗng cứ đi, đi
măi và dừng lại ở bất cứ ḍng sông, mặt
hồ nào ấm áp. Trên hồ Sammamish chảy qua thành
phố Issaquah, nơi nàng cư ngụ có chàng ngỗng
ngơ ngác đi lạc vào vườn thu hoa cúc nhà nàng. Sau
khi ăn hết những mẩu bánh hạnh phúc trong tay
nàng, chàng lại lững thững ra đi, t́m một ḍng
sông khác. Nàng đứng nh́n theo, vài chiếc lông ngỗng bay
bay trong gió, những vụn bánh rơi ở trong
vườn, vết sước giữa ḷng tay nàng. Tất
cả như một giấc mơ…
Mùa thu vừa
rẽ vào trong ngơ/ áo cúc vội khoe dẫy khuy vàng/ từng đám ngỗng lạ
theo nhau đến/ trên hồ đập cánh gọi vang
vang.
Có chàng mơ
mộng như thi sĩ/ ngơ ngác lạc vào vườn
hoa/ nàng ôm một vốc đầy vụn bánh/ thấp tay
mời đón khách phương xa.
Chàng khẽ
nghiêng đầu không lên tiếng/ cả hai lặng lẽ
đứng nh́n nhau/ gió thu rạo rực trên hoa cúc/ lông
ngỗng bay bay trong mắt sầu.
Bên ấy bên này
bao nhiêu dặm./ dặm thời, dặm nước,
dặm tương tư/ mỗi lần thu đến chàng
bỏ xé/ mảnh hồn lăng tử vẫy xa mù.
Khi lá rừng
phong thay sắc đỏ/ chàng sẽ theo đàn về chân
mây/ mẩu bánh ân cần rồi cũng hết/ chỉ c̣n
vết sước giữa ḷng tay.
Chàng ngỗng nhâm
nhi xong hạnh phúc/ lững thững quay lưng bỏ
lại hồ/ nàng đứng giữa vàng thu hoa cúc/ mối
t́nh lông ngỗng xoá như mơ”
(Trần
Mộng Tú 9/92)
Trần Mộng Tú là một thi sĩ khai thác trọn vẹn xúc cảm của ḿnh. Những h́nh ảnh thường ngày trong cuộc sống, những sinh vật, thực vật chị bắt gặp được thi vị hoá và san sẻ hồn thơ của chị. Thú vị nhất là những sáng tác chị viết tặng những người thân yêu trong gia đ́nh và bằng hữu. Những bài viết này, có lẽ không chỉ gởi đến những người được nhớ tưởng, mà được gởi đến, dành riêng cho chính cá nhân tác giả. Bài “cho Cung đă mất” có tên Chuông Gọi Hồn Ai là một ví dụ:
“ Mai em về
người t́nh xưa c̣n đợi/ mắt nâu trong em xin
mượn làm gương/ em sẽ kiếm trong mảnh
gương vỡ đó/ giải mây xanh thủa chưa mất
Thiên Đường.
Mai em về
Người có ḷng rộng mở/ tay bao dung ôm nhẹ chút
dư hương/ em bé nhỏ đời cuốn đi
trong gió/ trái tim hồng sót lại một giọt
sương.
Mai em về
hồi chuông xưa vẫn đổ/ Người có cùng em
khóc cuối giáo đường/ ôi lạy Chúa t́nh yêu lá trái
đắng/ con cắn chia nhau từng múi đau
thương.
Mai em về t́m
thăm ngôi nhà nhỏ/ bên thềm trăng Người có
đón em vào/ em sẽ úp mặt lên chăn gối cũ/ t́m
hương xưa trong tóc rối ngọt ngào.
Khi em về
mắt nâu người khép kín/ gối chăn xưa bày bán
giữa chợ đời/ trăng thơ mộng vỡ
tan trên thềm cũ/ chuông giáo đường rộn ră
gọi hồn ai”
(Thơ
Trần Mộng Tú, trang 78, 79)
Xin được ghi chú ngay ở
đây: Nguồn gợi
hứng, được nghĩ đến là Cung, nhưng
bài thơ vẫn chỉ v́ Trần Mộng Tú mà có. Riêng nhân
vật Cung tên thật là …Cung, người chồng
đầu đời của nhà thơ. Anh Cung là một nhà
giáo, tốt nghiệp Đại học Sư phạm ban
Pháp văn. Sau một năm hành nghề, anh thi hành lệnh
tổng động viên của Việt Nam Cộng Ḥa.
Giấy gọi nhập ngũ đă tạo cơ hội
lập sớm hôn thú giữa Cung và Trần Mộng Tú, vào tháng
6 năm 1968. Hôn lễ của hai người chính thức
thực hiện vào sau lễ Phục sinh, tháng 4-1969.
Việc lập hôn thú trước giống như
trường hợp của tôi và Lư, cốt yếu tránh
những thủ tục xin phép, điều tra gia đ́nh bên
vợ, theo hệ thống quân giai sau này. Chỉ chừng ba
tháng sau ngày cho nhau hơi ấm da thịt, anh Cung hy sinh
tại mặt trận Rạch Giá tỉnh Kiên Giang vào ngày 30
tháng 7 năm 1969, trước thời hạn Bộ
Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa có nghị
định cho phép giáo chức
biệt phái về dạy tại nhiệm sở
cũ, cũng chỉ chừng ba tháng ! Thảm kịch này
không thiếu trong chiến tranh Việt
Chuyến di cư sau cùng, ra đi khỏi cuộc đời của các nhà văn Mai Thảo, nhà báo Lê Đ́nh Điểu, nhà hoạt động xă hội Đỗ Ngọc Yến, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền…phải nói là thật hoành tráng với những ḍng người tiễn đưa, những nghi lễ nghiêm trang, những chia buồn, tưởng niệm và càng ấm áp hơn với những ḍng thơ chân t́nh của Trần Mộng Tú. Mỗi bài thơ là một ṿng hoa sống đời trên mộ người quá văng. Ṿng hoa của chị dành cho cố chủ nhiệm tạp chí Thế Kỷ 21, Đỗ Ngọc Yến:
“Bạn bè
gọi nhau báo/ xuyên qua những ngôi nhà/ xuyên qua những thành
phố/ xuyên qua những vườn hoa.
Xuyên qua nắng
tháng tám/ ngưng lại giữa buổi chiều.
Anh ấy đă đi rồi !/ Yến đă đi
thật rồi !.
Anh ấy đă đi rồi/ nghe như tiếng đá
rơi/ tiếng rơi khô và gọn/ lăn về tận
cuối trời.
Yến đă
đi thật rồi !/ nghe như chim bỏ tổ/
tiếng cánh đập trên cao/ thả cọng rơm nào
xuống.
bảy năm ôm
lấy bệnh/ dấu kim đầy hai tay/ Yến như
chim ră cánh/ vẫn không mỏi đường bay.
bảy năm
Yến thản nhiên/ nh́n thân ḿnh hư hoại/ trí óc vẫn
tinh khôi/ lửa đam mê cứ cháy.
bảy năm
giữa tỉnh mê/ khi tỉnh làm chim Yến/ mang trái tim
đại bàng/ khi mê làm đại bàng/ vẫn mang hồn
Yến nhỏ.
thôi Yến ơi Yến ơi/ b́nh an bay đi nhé/ đừng tiếc chi củi lửa/ rồi cũng tàn tro bay” .
(Yến Ơi ! Yến Ơi- TMT, ngày 17tháng 8 năm
2006)
Ṿng hoa dành cho nhà thơ Thanh Tâm Tuyền:
“Anh
Người thi
sĩ đó vừa chết hôm qua
Em muốn
gọi anh/ mà anh đă bỏ đi xa/ em hụt hẫng
đứng nh́n buổi sáng/ trên mặt hồ lặng thinh/
và dăy núi th́ trắng toát đến rùng ḿnh.
Chao ôi ḷng em buồn bă
những câu
thơ tự do/ rồi lấp vào trong đất/ nó
mọc cùng cỏ xanh/ gió thổi đi xa tắp.
thời gian
rồi đi qua/ xóa mờ khuôn mặt/ những sợi tóc
bỏ trần gian/ nằm trong đáy huyệt/ và những
ngón tay chàng/ sẽ mục thành phân bón.
mặt trời đen/ mặt trời không
mọc nữa/ và cả tên chàng/ chẳng c̣n ai bật lên
thảng thốt/ mặt trời không c̣n nữa.
chao ôi ḷng em
buồn bă !
buổi sáng kéo
một vệt dài/ trên mặt hồ phẳng lặng/ câu
thơ kéo dài/ một đường thẳng nằm ngang
nghĩa trang mùa xuân.
Thi sĩ…
Cúi xuống/ t́nh
yêu và những cuộc biệt ly ở một nơi hư
không.
Chao ôi ḷng em
buồn bă !
Khi anh trở
về/ một thi sĩ đă đi qua biền biệt”
(Không Đề, nghĩ tới TTT, tháng 3-2006 Trần Mộng Tú)
Ṿng hoa cho nhà văn Mai Thảo:
“ Anh đi à ? /
ừ đi/ anh đi thật à ?/ ừ đi thật/ sao
anh hay đi thế ?/ đâu có hay đi, từ năm 1982
đến nay anh vẫn ở đây/ không, em nói từ
năm 1954 cơ, từ khi dọn vào trong Nam/ anh dời
đổi biết bao nhiêu chỗ khác nhau rồi/ lần
này th́ khác, chỗ này là chỗ cuối/ có xa không anh ?/cũng
chưa biết rơ nữa/ chưa biết rơ sao lại
đến ?/ th́ cũng phải đến chứ, chỗ
cuối mà/ xa gần ǵ ḿnh cũng đến
được/ em tiễn anh một quăng được
không ?/ được, nhưng khi nào anh rẽ ở khúc
quành, th́ em chỉ nên đứng nh́n theo thôi đừng
gọi với, để anh đi khỏi bận ḷng/ anh
có chắc là về chỗ ở mới anh vui hơn ở
đây không ?/ anh không biết rơ, sẽ hỏi những
người bạn đă dọn đến trước
anh/ thế liệu anh có nhớ những người
bạn c̣n ở địa chỉ cũ không ?/ đến
một lúc nào đó, có thể chúng ta quên hẳn nhau. Làm sao
mà giữ măi được một liên hệ không c̣n
hiện hữu nữa/ anh nói nghe buồn quá/ em biết
rồi mà, người ta chỉ giữ được
những vật cổ ở trong Bảo tàng viện,
chứ không giữ được t́nh cảm ở trong
một cái hộp kín rồi đem cất vào đó/ t́nh
cảm. T́nh cảm như hơi nước, theo thời
gian sẽ bốc hơi và bay
đi/ thế người ta có cất văn chương
vào bảo tàng viện không?/ có, sau khi đă gạn
đục khơi trong. Người ta chỉ cất đi
những viên ngọc, chứ không ai giữ những ḥn
sạn/ anh à, chỗ anh sắp đến ở có rộng
hơn căn phố một buồng của anh bây giờ
không ?/ tháng giêng th́ bao giờ cũng ở ngay trong tâm ḿnh/
ở đó có chai rượu cho anh uống không ?/ bạn
bè chắc thỉnh thoảng rưới lên anh/ anh à ?/ và em
không được gọi anh quay lại phải không ?/ khá
lắm ! thôi anh đi nghe/ vâng, anh đi em sẽ sẽ không
gọi với,/ theo anh.
Người
đàn ông quay lưng , đi về phía trước, dáng ông
cao, thẳng, hai tay buông xuôi. Ông đi thung dung về một
địa chỉ mới”
(Trần Mộng Tú, jan 10.98)
Và ṿng hoa cho nhà báo Lê Đ́nh Điểu, một chủ nhiệm khác của tạp chí Thế Kỷ 21 (từ 1991-1996):
“Năm ngoái anh
về đây/ tháng chín không gian đầy nắng/ Dung ra
ngoài vườn hái hoa/ mang vào một ôm cúc trắng/ bàn tay
Dung đẫm hương thơm/ nụ cười buồn
trong mắt.
Năm ngoái anh
về đây/ chiếc xe thoảng mùi thuốc bắc/ chúng
ḿnh đặt bao hy vọng/ sắc trong nắm lá phơi
khô/ hy vọng có bao nhiêu ngụm/ ḿnh chia nhau măi không
đều/ có ngụm mặn như nước mắt/
Dung dành uống một ḿnh
Năm ngoái anh
về đây/ bữa ăn buổi chiều thanh
đạm/ tôi chan anh muỗng canh/ mà ḷng rưng rưng
muốn khóc
Bây giờ là
cuối tháng năm/ hoa cúc trong vườn chưa nở/
không c̣n đón được anh về/ tôi đứng
chơ vơ cùng nắng.
Sáng nay lái xe đi qua/ con đường đón anh năm ngoái/ trong xe chiếc ghế bỏ không/ ngậm ngùi với tay t́m bạn…”
(Ghi
chú lặp lại: Những dấu: / dùng trong các bài thơ,
không có trong các bản chính, dùng “/ ” ở đây để
thay những dấu chấm và xuống ḍng có sẵn
của bài thơ, với mục đích giảm bớt
số trang mà thôi)
Đa số thơ của Trần Mộng
Tú có nội dung buồn bă,
ngậm ngùi, nhưng một đôi lúc người
đọc bắt gặp được những hân hoan,
lạc quan. Bài thơ Kiếp Sau của chị
được nhạc sĩ Nhật Ngân phổ nhạc,
thật tươi vui. Những anh chàng làm thơ như tôi,
nghe xong mũi cứ như nở lớn măi ra:
“Đêm qua em nằm mơ/ Mẹ
đem em gả chồng/ Cho một chàng thi sĩ/ Số chàng rất long đong..
Hai
vợ chồng làm thơ/ Trong một gian lều nhỏ/
Mái dột, mái cứ dột/
Làm thơ vẫn làm thơ.
Thơ chàng dán trên vách/ Thơ em che
trời mưa/ Một đàn
con tám đứa/ Lớn lên
chỉ mê thơ/ Ngoài vườn đầy hoa nở
Trong hồn ngập
mộng mơ/ Cửa lều
thường bỏ ngỏ/
Nên xuân đến bốn mùa./
Thơ chàng làm em đọc/
Thơ em con đánh vần
Chàng không biết trừ,
cộng/ Em chẳng biết chia,
nhân./ Mặc người đời mua bán/ Mặc cuộc đời hơn
thua/ Cả nhà làm thi sĩ
Nên nghèo xác nghèo xơ./ Em
cầu cùng thượng đế/ Kiếp sau có lấy
chồng/ Xin lấy chàng thi
sĩ/ Dẫu biết chàng tay không”
Trần Mộng Tú cũng là nhà thơ thành công trong việc hội nhập cùng ḍng văn học xứ sở ḿnh cư ngụ. Sáng tác của chị được đăng trong sách giáo khoa Hoa Kỳ cho chương tŕnh trung học (American Literature Glencoe 1999), đă cùng những truyện ngắn nhi đồng bằng Anh ngữ trên báo Los Angeles Times, giúp chị được bạn đọc người bản xứ biết đến nhiều, có lẽ thành công này dẫn đến việc đoạt giải b́nh luận (commentary) của The New California Media (NCM) “Etnic Pulitzers” vào năm 2003. Thành công của chị được xem là nét “vẻ vang dân Việt” trên thế giới. Nhiều báo chí Việt ngữ, nhiều trang điện toán đưa tin, tán thưởng.
Với một thời gian chung sống cùng thi ca lâu dài, cũng như nhiều người làm thơ khác, Trần Mộng Tú luôn luôn có ư niệm làm mới thơ của chính ḿnh. Tuy nhiên sự cách tân này, theo chị, phải luôn được đi kèm với những ǵ cần có để có thể gọi được là thơ. Trần Mộng Tú không chấp nhận dùng những từ quá đời thường cho thơ.
Cũng tương tự như thời
của nhóm Sáng Tạo tại Sài G̣n, phong trào làm mới thi
ca tại hải ngoại được phát động
nghiêm túc và nhiệt t́nh. Chiêu thức làm lớn mạnh phong
trào cũng được lớp đàn em lặp lại
của đàn anh bằng hai phương án: một, tấn
công, bôi nhọ, triệt hạ thơ được xem là
cũ. Hai, sản xuất những bài thơ đồng
phục mới đối với thi ca Việt
“buồn t́nh lấy giấy bút ra/ điệu quen lục bát ngâm nga giải sầu/sáo ngôn mai phục đầy đầu/chẳng cần động năo đă ào ào tuôn/ lối ṃn sẵn trớn phóng luôn/ c̣n hơn nước lũ trên nguồn chảy ra...” Có lẽ anh Chân Phương quên lửng bên cạnh thơ lục bát c̣n có ca dao và thấp hơn một chút nữa là vè. Sự lăng trí này có thể xem như là một đồng hóa cố ư. Thật tội cho lục bát. Anh Chân Phương dĩ nhiên c̣n viết nhiều bài miệt thị khác, thâm thúy hơn nữa. Về mặt tạo ra cái mới, có phần phong phú và đông đảo người góp tay hơn. Những ǵ bộ môn hội họa không chấp nhận, bởi chưa đạt được tiêu chuẩn của nghệ thuật này, đều có thể chấp nhận là thơ tân h́nh thức.Những sáng tác này được phổ biến khá nhiều trên tạp chí Thơ và một ít ở Hợp Lưu.
Làm phong phú chữ dùng cho thơ cũng là
một việc quan trọng. Rất có thể những
từ ngữ quen thuộc đă cùn ṃn v́ “bị hiếp”
quá nhiều nên nhu cầu dùng những chữ thực
tế của đời sống trong mọi sinh hoạt
cuộc đời đều được anh chị em
tân h́nh thức trưng dụng. Một số từ
vốn được dùng hạn chế nay xuất
hiện một cách hiên ngang trong bài Linda Mặt Ngang của
nhà thơ Đỗ Kh, đăng trên Hợp Lưu số
31 (tháng 10 & 11-1996) đă gây bất măn cho một số
người làm và đọc thơ. Chị
“...Tôi cũng rất đồng ư
với KT rằng: Thơ không
có nghĩa là phải mông lung, mờ ảo, kể lể
than van, chữ nghĩa phải
lấp lánh, cao cả, sang trọng vv... Nhưng
ngược lại đổi mới thơ không có
nghĩa là bôi bẩn vào văn chương. Nếu danh
từ nào mà khi chúng ta mở miệng ra nói chúng ta thấy
ngượng miệng, thấy đó là một tiếng thô
tục th́ nhất định cái tiếng đó không
phải là “thơ” dù nó không lấp lánh mờ ảo ǵ
cả. Tôi e rằng các ông Đỗ Kh, Nguyễn Hoàng Nam,
Khế Iêm, Ngu Yên...đă nhầm lẫn giữa sáng tạo
và văng tục...”
(
Những phát biểu của chị Tú mở ra một cuộc sát phạt (chữ dùng của Kim Thi ) ngắn ngày giữa hai phe. Trong những lời qua tiếng lại trên trang báo, tôi chỉ xin trích lại đoạn thứ 5 trong lá thư có đánh số 7 đoạn của ông Phạm Trọng Luật viết vào tháng 3 năm 1997:
“... 5) Tôi không
hề muốn xâm phạm vào quyền tự do sáng tác
của bất cứ ai. Tôi cũng không than phiền khi nh́n
thấy Linda Mặt Ngang hoặc Bốn Sợi Lông của
Cùng Một Người Đàn Bà trong Hợp Lưu. Song tôi
thấy bất măn trước câu trả lời trịch
thượng (?) của tác giả: «Tôi hoàn toàn ghi nhận
h́nh ảnh tục tĩu của bài Linda Mặt Ngang trong
tấm gương Trần Mộng Tú, cám ơn bà đă
cất công soi nó»... Có cái ǵ không ổn. Nếu Đỗ Kh.
có thể tự biện bạch rằng đầu óc anh
không thô tục khi dùng những từ mà xă hội cho là
«tục» để nói chuyện khác, th́ có lẽ cũng nên
chấp nhận rằng nghệ thuật hàm ư của anh
chưa thành thục. Và nếu người đọc
vẫn nhận định các từ ấy là tục tĩu,
th́ điều này cũng không nhất thiết có nghĩa là
đầu óc của họ dơ bẩn mà chỉ
đơn giản là họ hiểu tiếng Việt.
Cuối cùng, tôi
cho là Hợp Lưu đă trốn tránh trách nhiệm khi
chỉ nhường quyền đối đáp cho anh
Đỗ Kh., mà không trả lời câu «Hợp Lưu
một phần nào chịu trách nhiệm về sự coi
thường độc giả đó» trong thư chị
Trần Mộng Tú. Hay đây lại là một vế khác
của «political correctness»? Nhà báo không trả lời v́
nghĩ rằng ḿnh chẳng nên chọn lựa bài vở
để đăng: sự chọn lọc này
thường vẫn bị đồng hoá với một
h́nh thức kiểm duyệt ngầm”
(Phạm Trọng Luật)
Giữ mục
“...Chính con
người bằng khả năng ‘quỷ biện’
của ḿnh, đă khai sinh ra tṛ chơi văn chương
thơ phú, lư luận...Trong đó có cả tṛ ‘tục mà
thanh’, hoặc ngược lại, ‘thanh mà tục’.
Đọc những câu thơ: ‘Phành ra ba góc da c̣n thiếu/
khép lại đôi bên thịt vẫn thừa’ / ‘mát mặt
anh hùng khi nắng cực../’quân tử có thương xin
đóng cọc, xin đừng mân mó nhựa ra tay’ Ai cũng
biết bà Hồ Xuân Hương muốn ám chỉ cái ǵ, dù,
xét, trên mặt ngữ vựng, rơ ràng bà Hồ Xuân
Hương chỉ mô tả một cách rất thật thà
những vật dụng hoa trái quen thuộc “cái quạt’
‘trái mít’. Cách nào đó, độc giả đă ‘toa rập’
với tác giả, để ‘qua mặt’ đạo
đức, hầu yên tâm tha hồ để trí
tưởng tượng xa hơn vào những lănh
địa thần tiên của tính dục. Hơn thế,
c̣n cho rằng ‘kín đáo’;, ‘tế nhị’, ‘mờ ảo’
như thế mới là cao nhă, mới là...thơ !
Nằm trong khuynh
hưóng này, nhưng nhẹ nhàng hơn, liều
lượng được ‘cân đo đong đếm’
cẩn thận hơn, là những bài thơ, những
đoạn văn sử dụng ‘tài t́nh’ (và ‘tài hoa’)
những ẩn dụ rất xa xôi, bóng bẩy. Ví dụ vài
đoạn thơ dưới đây của chị
Trần Mộng Tú trong bài Giữa B́nh Minh (thi tập
Để Em Làm Gió, trang 48, nhà xuất bản Thế Kỷ
21,
‘Em uốn cong hơi thở
...Duỗi
thẳng rồi xoay ngang/ chân buông tay nới
lỏng/....Đầu gối co trong ḿnh/ hai tay nâng sức
nặng/ nghe âm dương tỏ t́nh/...thân bóng chập
chờn nhau/ tưởng hai mà hóa một...’
Chị Tú đang tự thuật việc tập thể dục buổi sáng đấy. Tế nhị, cao nhă, tài hoa và lành mạnh quá. Nhưng mà...nhưng mà...quái lạ, nó gợi h́nh làm sao, mời mọc trí tưởng của người đọc làm sao !”
Không rơ có bao nhiêu người đẩy sự tượng tượng đi xa ? Có một điều có thể tin nếu không có chuyện loanh quanh bên cô Linda Mặt Ngang, th́ Kim Thi không bỏ công ghi những ḍng trên.
Khánh Trường, Ngu Yên, Chân Phương
từng ghé nhà tôi chơi. Đỗ Kh, Khế Iêm cũng là
bạn văn của tôi dù chỉ liên lạc với nhau qua
điện thư. Tôi quí trọng và thưởng thức
sự nhiệt t́nh đổi mới thi ca do các bạn có
số tuổi đời ít hơn tôi này chủ
trương. Nhưng như đă tŕnh bày trong mục
Văn Nghệ Sĩ Việt
“ Người
làm thơ nào đặt bút viết bài thơ đầu tiên
chắc cũng phải là một bài thơ có vần (không
nói đến chuyện hay dở vội). Thơ vần
tạo ra âm nhạc, dễ nhớ, dễ làm người
đọc, người nghe rung động. Thơ vần
nó đưa được tư tưởng liên tiếp
nhau như tiếng sóng dội kéo theo cái âm. Thơ vần
c̣n nói lên được cái trang trọng của chữ
nghĩa, nó ép người làm thơ phải hiểu
thấu luật bằng luật trắc. đọc
một câu thơ có bằng, có trắc nghe đă êm tai mà cái
âm của nó c̣n dội vào trong hồn ḿnh. Người ta phải
thật là nhuần nhuyễn về làm thơ vần
rồi th́ mới có thể làm một bài thơ không vần
hay được . V́ theo tôi những bài thơ tự do mà
ḿnh cảm nhận được nó hay, ḿnh nhớ
được nó th́ bài thơ đó khi đọc lên nó
vẫn có bằng, có trắc và có nhạc trong thơ.
Bài thơ lục
bát Dặn Ḍ của Nguyên Sa là một bài thơ vần,
chỉ đọc một lần là nhớ :
‘Em đi mỗi
nhánh một lần/ nhánh xa
đi trước, nhánh gần đi sau/ gió làm nhánh tóc bay
mau/ nhánh thơm em nhớ, nhánh sầu em thương /ngàn
đêm ngàn nhánh keo sơn/ mai về nhớ hỏi anh c̣n
giữ đây’
Âm nhạc tràn
đầy trong bài thơ. Trong khi đó , tôi trích ra đây
một đoạn thơ trong bài thơ tự do Hoa
Tuyết của Đỗ Qúy Toàn :
‘Khi em rơi
đọng trên cành tùng nặng trĩu /em hiền hậu em
nép ḿnh nũng nịu /anh sẽ gọi em là mi mắt
trẻ thơ /mi mắt êm đềm/ mi mắt khép trên mặt đất muôn
đời /phủ những cơn mơ’
Đoạn thơ
này có thể đọc đến 2 hoặc 3 lần
mới nhớ v́ nó không theo cái vần ép buộc của
lục bát nhưng nó cũng tràn đầy nhạc tính và ta
thấy rất rơ bằng, trắc ở mỗi câu
xuống gịng.
Có những
người chưa hiểu ǵ về thơ vần cả
mà hạ bút xuống làm một bài thơ tự do (bài
thơ không có vần) đọc lên ta biết ngay. Đó
chỉ là văn xuôi viết xuống hàng, cho chấm,
phẩy tùy thích mà thôi., khác nào đứa bé chưa biết
ḅ, chưa biết đi mà trèo lên xe đạp phóng
xuống dốc.
Nhưng nếu
chỉ v́ chữ vần mà người làm thơ phải
"ghép" chữ,
"sắp" chữ để đọc lên cho
xuôi tai th́ cái đó sẽ biến thành vè, mất hết ư
nghĩa của "Thơ Vần" đi.
Ở bất
cứ thời đại nào chúng ta cũng có thể làm
mới được thơ - nếu chúng ta có cái khả
năng đó - nếu không có khả năng mà cứ
nhắm mắt khen nhau th́ chẳng bao giờ đi
đến đâu cả. Mẫu tự Việt
Một bài thơ
hay không bắt buộc phải là một bài thơ vần,
cũng không nhất thiết phải là một bài thơ phá
luật, phá cách. Bài thơ hay là một bài thơ khi
đọc lên người nghe thấy bàng hoàng, xúc
động, có khi nh́n rơ thấy cái hay của nó, có khi
chỉ nghe thấy cái âm hay của nó, có khi chỉ cảm
được cái tứ hay của nó. Tựu trung nó
phải mang cái chất thơ ở trong câu, trong bài.
Đổi mới thơ - đừng nói đến kỹ
thuật vội, hăy nói đến cách xử dụng ngôn
ngữ. Có những ngôn ngữ rất hay, rất chải
chuốt, rất bóng bẩy, rất thơ mà chúng ta không
dùng nữa v́ thấy nó không c̣n thích hợp ở thời
buổi này :
‘Niềm khát
vọng ta ghi vào huyết sử / Dưới chân em, thơ
lạc mất linh hồn /Ta đau xót trong mỗi giờ
t́nh tự /Ta khóc nhiều cả những lúc trao hôn’ (Đinh Hùng)
Cũng nụ
hôn, cũng là thơ vần, nhưng chữ nghĩa mới
mẻ hơn, giản dị hơn vẫn mang đầy
chất thơ :
‘Em ngồi
thơ thẩn nh́n đàn kiến/ Cụng đầu nhau
giữa vách tường xanh /Chúng hôn nhau măi mà không chán /
Như những hôm nào em với anh’ (Luân Hoán)
Du Tử Lê có tài
làm mới thơ trong chữ không phải trong kỹ
thuật, ông ta đang t́m ṭi trong lănh vực này :
‘Nhớ em kim chỉ khíu t́nh /Trưa ngoan lớp
học chiều lành khóm tre’
Chữ
"khíu" vừa quê mùa, vừa tầm thường
chỉ có những người nhà quê mới dùng khi nói
về việc vá quần, vá áo. Khi thi sĩ đem nó vào
thơ để vá t́nh, chữ khíu bỗng trở thành
một viên ngọc.
Thơ vần hay không vần, mỗi thể thơ có một cái hay riêng của nó. Tuy nhiên nếu chưa làm được một bài thơ vần gọi là hay th́ khó mà thành công trong thơ không vần. Khi nói đến thơ ta nói đến - chữ , đến ư , đến từ - Thú thực với vốn liếng hạn hẹp tôi vẫn chưa hiểu được những bài thơ Bàn Cờ Tướng , Budweiser nó thơ chỗ nào. Tôi vẫn c̣n đang suy nghĩ v́ cái đầu óc thường thường bậc trung của tôi th́ thơ không có chữ, không có tứ không có ư th́ tôi không gọi được cái tam không đó là thơ. Chắc tôi c̣n phải học hỏi nhiều nữa trong lănh vực này”.
Trên tạp chí Văn Học số 114, tháng 10 năm 1995, chị Tú cho biết rơ hơn về chuyện sáng tác:
“....Chẳng có
ǵ là quá vĩ đại cũng chẳng có ǵ là nhỏ bé
trong văn chương cả. Cái lá phong cũng có một
đời sống riêng của nó, cánh cửa của một
ngôi chùa đổ cũng có linh hồn. Tôi ao ước
viết được thật trung thực, thật hay
những sự vật, những cảnh trí, những
mảnh đời, những rung động ở chung quanh
đời sống b́nh thường của tôi.
Viết
truyện ngắn th́ phải nghĩ đi nghĩ lại
cái cốt truyện trong đầu, rồi mới ngồi
xuống viết. Có khi viết xong lại đổi
đoạn giữa, hoặc thêm vào hoặc bớt ra. Có khi
thay cả cái đoạn kết . Tôi thường mất từ
hai đến ba tuần cho một cái truyện ngắn.
Làm thơ th́
dễ hơn và nhanh hơn. Đứng nấu ăn,
rửa bát, làm vườn hay đi bộ, và ngay cả trong
khi lái xe (một ḿnh) , tôi làm thơ ở trong đầu,
đọc lên thành tiếng, rồi tối đi ngủ vào
giường mới lấy giấy bút ra hí hoáy viết
lại. Kẹt trên xa lộ là lúc thích nhất để làm
thơ.
Thơ làm ra theo
hứng. Không có hứng không ra thơ. Thơ mà phải suy
nghĩ để t́m đề tài th́ tôi không bao giờ làm.
Có thể là khi làm xong mới suy nghĩ t́m cách thay một
hai chữ cho đắc ư mà thôi.
Có lẽ tác
giả nào cũng viết cho ḿnh trước tiên. Thế
cho nên khi độc giả đọc mới có thể
nhận ra ngay là : văn phong dóng một, không có chủ
từ này là của ông Mai Thảo, cách chẻ sợi tóc ra
làm tám là của ông Vơ Phiến...Tác giả nào cũng dùng
thơ văn để nói lên cách suy nghĩ, diễn tả
các xúc động riêng tư, biểu lộ cá tính của
chính ḿnh . Khi đă được một số độc
giả quí mến và hợp với cách diễn tả
của ḿnh rồi th́ lúc đó, độc giả với
tác giả là một. Viết cho ḿnh và viết cho
người. Tôi không ra ngoài cái thông lệ đó.”
Những nhận xét cùng quan niệm về sáng tác này, nhà thơ Trần Mộng Tú một lần nữa xác định trên đài tiếng nói Á Châu Tự Do (RFA) qua chương tŕnh phỏng vấn của phóng viên Mặc Lâm. Nhân đây chị cũng cho biết thêm:
“… Tôi thích làm thơ t́nh, trước đây
là vậy, bây giờ cũng vậy. Mà thơ t́nh th́ nội
dung muôn đời giống nhau, nghĩa là phải là…t́nh. Mà
t́nh th́ không thể thô tháp được. Tôi luôn luôn
muốn đổi mới trong thơ, trong cách dùng ngôn
ngữ. Có lẽ anh nói đúng, thơ tôi bây giờ có
vẻ cứng cỏi, không mấy chau chuốt, có mới
hơn, khác hơn. Mà không khác sao được, một
chục, mười lăm năm trôi qua rồi.
… Tôi thích
đổi mới, luôn luôn đổi mới, và theo tôi
đổi mới có nghĩa là chữ phải lạ, ư
phải lạ, gây ngạc nhiên, NHƯNG VẪN PHẢI
THƠ. Tôi không thích dùng những chữ thô tháp trong thơ
rồi gọi là MỚI.
… Tôi không có ư dùng
ẩn dụ này nọ đâu. Những h́nh ảnh mà anh nêu
ra đó là những h́nh ảnh rất thân mật, rất
gần gũi của đời sống hàng ngày. Tôi nh́n ngắm
chúng hàng ngày. Tôi yêu mến chúng. Tôi thích dùng những h́nh
ảnh rất thân mật của đời thường
trong thơ.
Sẵn
trước mắt tại sao ḿnh không dùng lại đi t́m
đâu xa, phải không anh? Chân tay, giầy dép, khăn áo, thân
thể là những thứ ḿnh chạm vào thường ngày,
ḿnh cho nó là thơ th́ nó thành thơ. Năm 2002 hay 2006 hay
năm 2050 chăng nữa th́ giầy hay áo vẫn thơ
như thường.
… Tôi làm thơ như tôi thở, anh à. Nếu viết là một gánh nặng th́ chắc chẳng bao giờ tôi muốn mang vác cả. Văn chương là một phần của đời tôi, giúp tôi sống nhẹ hẫng. Mỗi ngày tôi không viết, th́ đọc. Theo tôi, nếu sống mà chỉ thuần nhất lo sinh kế, lo miếng cơm manh áo, lo công danh sự nghiệp không thôi th́ chắc đời sống sẽ nặng hơn nhiều…”
(đăng lại trên trang web: http://www.rfa.org/vietnammese)
Đến với cuộc đời
từ ngày 19 tháng 12 năm 1943 tại Hà Đông, nhưng
gần mười năm ấu thơ, Trần Mộng Tú được
thành phố Hà Nội nuôi dưỡng. Theo ḍng tản cư
1954, chị vào sống tại thủ đô miền
“… Con đầu
ḷng, một mơ ước khôn nguôi trong tất cả
mọi người đàn bà, một hạnh phúc tinh khôi
nhưng thực muộn màng cho mẹ. Mẹ hơn ba
mươi tuổi, hết nửa đời người
mới có được con. Hết nửa đời
người trên quê nhà mẹ chẳng làm được
điều ǵ hữu ích cho quê hương đất
nước. Mẹ chẳng gom góp được tài
sản riêng tư nào cho chính ḿnh ngoài mấy bài thơ
dấu trong kệ sách và một mối t́nh chết tức
tưởi trong bom đạn. Mới hai năm trên
đất lạ mẹ đă tạo cho ḿnh một tài
sản riêng tư, mẹ đă trồng cho ḿnh
được cây hạnh phúc, mẹ ươm trong
nắng gió quê người, mẹ có con.
… Mẹ không
biết nói sao bây giờ. Con là niềm hạnh phúc nhưng
cũng thật là nỗi hoang mang. Mẹ tự nói liệu
ḿnh có đủ khả năng để dạy dỗ con
trong cái hay, cái tốt, trong sự ḥa hợp văn hoá
giữa hai dân tộc mà không làm cho chính con bị ngỡ
ngàng v́ những tư tưởng trái ngược của
hai nước cách nhau hai đầu thế giới…
… Hăy lớn,
sống đơn giản và lương thiện. Con yêu
dấu đó là tất cả niềm mơ ước
của mẹ nơi con, hạnh phúc tinh khôi muộn màng
của mẹ.”
(Thơ Trần Mộng Tú, trang 104, 106)
Không rơ Trần Mộng Tú khởi sự
viết truyện ngắn từ bao giờ. Có thể
đoạn văn viết cho con vừa trích đă giúp chị
bắt đầu chuyển sang một thể loại thông
dụng hơn, được đón nhận nhiều
hơn chăng ?. Lần đầu tiên tôi đọc
được truyện của chị trên tạp chí
Thế Kỷ 21, không nhớ rơ năm nào, nhưng những
năm gần đây cả thơ lẫn truyện của
chị xuất hiện đều đặn trên cùng
một số, liên tục từ số này qua số khác
của Thế Kỷ 21. Trên Hợp Lưu, Văn Học,
Văn, Gió Văn, Phố Văn…đều có sáng tác của
Trần Mộng Tú. Ngoài việc góp bài cho các tạp chí,
nguyệt san… Trần Mộng Tú c̣n giữ chức chủ
bút cho Nguyệt san Phụ Nữ Gia Đ́nh Người
Việt từ tháng 10-2002 đến tháng 10 năm 2005. Gia
tài thơ, văn của chị tính đến hôm nay,
cuối tháng giêng 2007, đă rất phong phú trong tủ sách
của nhiều gia đ́nh Việt
Thơ Trần Mộng Tú, do Người Việt xuất bản năm 1990.
Câu Chuyện Của Lá Phong, truyện ngắn, Người Việt xuất bản năm 1994.
Để Em Làm Gió, thơ, Thế Kỷ xuất bản năm 1996.
Cô Rơm Và Những Truyện Ngắn Khác, Văn Nghệ xuất bản năm 1999.
Ngọn Nến Muộn Màng, thơ, Thư Hương xuất bản năm 2005.
Mưa Sài G̣n Mưa Seattle, tạp văn, Văn Mới xuất bản năm 2006.
T́m hiểu giá trị văn xuôi của Trần Mộng Tú, có thể đọc nhận xét của nhà phê b́nh Bùi Vĩnh Phúc:
“Văn
chương của Trần Mộng Tú phản ánh thật
sáng và rơ một tâm hồn rất nhạy cảm
trước những nét đẹp đẽ, tha thiết
cũng như xót xa, đau khổ của cuộc sống.
Đặc biệt là khi những nét đời ấy
được đặt trong khung cảnh của Việt
Nam, trong mắt nh́n và trong tâm hồn sóng sánh đầy
những thiết tha và nhân ái của người nh́n
ngắm chúng. Có sự trộn lẫn của thực
tại với hồi ức, của cuộc đời
hằn xé với những mộng tưởng thanh xuân. Có
nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo
động của cuộc đời. Nhưng cũng có,
trong những ḍng văn chân thật ấy, những
khoảnh lặng thinh cần thiết và ấm áp của t́nh
người”
(Bùi Vĩnh Phúc)
Nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, một người từng thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn, t́m hiểu về những người cầm bút, gần đây anh viết đều đặn những bài giới thiệu về tác phẩm lẫn tác giả. Với sự cảm nhận tinh tế và một lối hành văn giàu thi vị của một nhà thơ, Nguyễn Mạnh Trịnh giới thiệu tác phẩm mới của bạn văn với một cung cách riêng, rất thu hút người đọc. Anh luôn luôn trở thành một tác giả phụ của tác phẩm, để giải thích, tŕnh bày nó tường tận và thân t́nh. Với Mưa Sài G̣n Mưa Seattle của Trần Thị Mộng Tú, Nguyễn Mạnh Trinh viết:
“ Buổi sáng
cuối tuần, mưa. Đọc “ Mưa Sài G̣n , Mưa
Seatle “ h́nh như cũng thấy những hạt mưa
rơi rơi trong ḷng. Cái mơ mộng, cái bềnh bồng
dường cũng hay lây. Nghe mưa điểm giọt
bên ngoài, tưởng âm vang trong tiềm thức những
bước chân đi về.
Sài G̣n, thành
phố của quá khứ. Seatle, nơi chốn của
hiện tại. Đọc những trang sách, để
thấy ngày đă qua và ngày đang tới như trộn
lẫn vào nhau, để thời khắc là cuộn chỉ
khi tới khi lui, để liên tưởng là những
nhịp cầu nối liền những bước chân
đi , về của đời người…
… Trần
mộng Tú là một thi sĩ . Cho nên , khi viết những
đoạn tạp văn, cái không khí thơ đă quyện
vào từng câu từng chữ và nét lăng mạn thơ
mộng đă thành một nét đặc thù cho tác phẩm
của bà. Cuộc sống được nh́n ngắm và
cảm nhận từ tâm hồn đôn hậu, cho nên dù
ở quê nhà hay ở xứ người, hay phác họa
bất cứ một khuôn dáng nhân vật nào cũng
đều có nét trong sáng, hồn hậu…
Viết về
đời sống bây giờ hay kể lại những ngày
xưa cũ, hương kỷ niệm lúc nào bàng bạc và
thành men ủ cho chữ nghĩa. Khi tả t́nh hay lúc tả
cảnh, cũng là dịp để tâm tư chuyên chở
theo những nỗi niềm . Một chút ngoái lại quê
hương, một chút nh́n vào cuộc đời hiện
tại , là người tị nạn , h́nh như cũng
chia sẻ chung những tâm tư, những cảm xúc.
Trong “ Mưa Sài
G̣n , Mưa Seattle”, những đoản văn nhẹ nhàng
có âm điệu của những vần thơ đă
dẫn người đọc vào một không gian bềnh
bồng của những suy tưởng. Đôi khi, là
cảm giác phân vân vô định giữa không gian hiện
hữu bây giờ hay cuối trời tưởng nhớ
đă xa. Người và cảnh , man mác chung nỗi
niềm. Thời gian , không gian xóa nḥa lẫn nhau, và thành
những sương mù làm cho đôi mắt nh́n đời
mơ màng hơn…
… Đọc “
Mưa Sài G̣n, Mưa
(Nguyễn Mạnh Trinh)
Nhà thơ Đỗ Qúy Toàn, t́m thấy ở tác phẩm Trần Mộng Tú,:
“Đọc
những mẩu chuyện đời do Trần Mộng Tú
kể, tôi nhớ hồi nhỏ đọc cuốn Tâm
Hồn Cao Thượng, dịch từ tiếng Ư, mỗi
lần đọc lại đều thấy ḿnh phấn
khởi cũng muốn trở thành một con người cao thượng. Trần
Mộng Tú chỉ kể ra những chuyện thật đă
gặp trong đời. Đọc xong mỗi đoạn
chúng t a lại khám phá ra một nhân loại thật dễ
thương, những đức tốt, những tính
xấu sống chung với nhau ở trong mỗi
người như anh em một gia đ́nh. Nghe xong một
chuyện, ta lại cảm thấy ḿnh đáng lẽ
phải tử tế với người chung quanh hơn,
cho xứng đáng với t́nh yêu thương. Ḷng tử
tế chứa sẵn ở trong loài người, lúc nào
cũng chỉ chờ gặp cơ duyên là thức dậy”
(Đỗ Quư Toàn)
Cùng trong những trang giới thiệu tập tạp văn Mưa Sài G̣n Mưa Seattle, như Đỗ Quư Toàn, như Bùi Vĩnh Phúc, người đọc c̣n gặp được những lời viết vô tư và chân t́nh của các nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Bùi Bích Hà, Trần Doăn Nho, Phạm Xuân Đài. Những ḍng của nhà văn Trần Doăn Nho có chút ít thiên về kỷ thuật , xin được trích:
“Nếu
thơ Trần Mộng Tú đưa ta vào không khí mộng
ảo mênh mông của t́nh yêu, th́ văn Trần Mộng Tú
kéo ta xuống với cái ngổn ngang, bề bộn của
đời thường. Nhưng dù thơ hay văn, cách
viết của chị luôn luôn giản dị, trong sáng và
lắm lúc hồn nhiên đến bất ngờ ! Tôi có
cảm tưởng chị viết dễ dàng như
thở. Có lẽ v́ thế, khi đọc chị, dù chuyện
buồn hay vui, tôi thường cảm thấy tâm hồn
nhẹ hẫng, tưởng như ḿnh đă từng
được đi dạo quanh hồ Sammamish thơ
mộng, nơi tạo cảm hứng cho nhiều bài
thơ và tùy bút rất hay của chị”
(Trần Doăn Nho)
Tôi không dám đưa ra những nhận định của ḿnh về văn xuôi của nhà thơ Trần Mộng Tú. Bởi sẽ là sự lập lại những ǵ các nhà thơ, nhà văn khác đă nêu ra. Những ḍng ba hoa của tôi, nếu có, cũng chỉ mang một nội dung tán thưởng, đề cao. Điều này chỉ làm cho tác giả mắc cở thôi, như chị đă dặn. Nhiều người nghi ngờ, từ nhiều năm nay, văn chương hải ngoại thiếu những nhà phê b́nh văn học thật t́nh. Tôi không rơ sai, đúng thế nào. Với tôi, có nhiều người đọc cùng cảm nhận và đồng thuận với người viết về một đề tài, một nội dung là tác giả đă thành công. Chị Trần Mộng Tú h́nh như chưa bao giờ thất bại với những đứa con tinh thần của ḿnh.
Sau lá thư cảm ơn nhận
được tác phẩm Thơ Trần Mộng Tú, tôi
không c̣n dịp nào liên lạc với tác giả, cho măi
đến năm chị Tú
sang thăm thân mẫu nhà văn Nguyễn Đông Ngạc.
Lúc này anh Ngạc đă ra người thiên cổ, chị
Nguyên Ngọc, vợ của Ngạc cũng đă rời
gia đ́nh mẹ chồng. Không nhớ v́ cơ duyên nào có
cuộc gặp mặt bất ngờ và chớp nhoáng này.
Buổi hội ngộ giữa chị Trần Mộng Tú và
các bạn cầm bút tại Montréal được thực
hiện vào một buổi tối mùa hè. Địa
điểm gặp mặt, pḥng ở cũ của
Nguyễn Đông Ngạc, trong căn nhà của thân mẫu
anh, trên đường
Basile Routhier, số 9635,
thành phố Montréal. Bạn văn đến tŕnh diện
chị Tú gồm có nhà thơ Đỗ Qúy Toàn, nhà văn
Song Thao, nhà thơ Lưu Nguyễn và tôi. Vào thời
điểm này, anh Toàn đi đi về về giữa Wesminster, Hoa Kỳ và
Chị Tú là người thanh nhă, với
giọng Bắc dịu dàng và đôi mắt có ít nhiều
tinh nghịch. Những tấm ảnh tôi thấy đâu
đó trên báo, trên b́a sách, không làm tṛn chức năng của
chúng. Chúng đă ăn gian một phần nhan sắc của
chị. Người đẹp hơn ảnh rất
nhiều. Có thể đêm hè ở Montréal làm chị
tươi sáng thêm. Chắc không phải vậy. Tóc ngắn
ôm gọn hai má và âu yếm đôi vai. Môi mắt cùng
cười. Nét đoan trang của người phụ
nữ Việt
Trong những
bài viết về bè bạn đă thực hiện, bài nào tôi
cũng gặp nhiều khó khăn, muốn bỏ ngang
nửa chừng. Nguyên nhân chính vẫn là sự kém cỏi
trong cách tŕnh bày, hành văn. Bên cạnh đó là sự trung
trực cần thiết phải tuyệt đối tuân
theo. Kỷ niệm không thể hư cấu. Tôi làm thơ
măi măi lẹt đẹt ở phía sau lưng mọi
người v́ thiếu cái ngón nghề này. Đành vậy
thôi. Chị Trần Mộng Tú là một nhà thơ, nhà
văn, nhà báo, một nhà yêu cỏ cây, muông thú…Tôi chợt ao
ước có ngày ḿnh hoá thân thành một con Canadian Goose để lang thang trên đường
trốn tuyết, ghé qua khu vườn vàng hoa cúc, bên
cạnh hồ Sammamish, thong thả lượm hết
những vụn bánh trong ḷng hai bàn tay, biết trân quư thiên
nhiên, vạn vật. Những vết sước chín
hồng sẽ biến vào từng đường vân tay,
như những đường máu ch́m dưới da,
vĩnh viễn về cùng tâm thất. Tôi quờ quạng
muốn thắp sáng ngọn nến muộn màng, để
ngồi đọc thật kỹ câu chuyện của lá
phong, t́m cho ra những cội nguồn từng ḍng tâm
sự của người đàn bà thi sĩ Việt
“Nằm,
rồi bắt chước làm thơ/ đâu cần
phải biết làm thơ làm ǵ/ đôi khi có một đôi
khi/ ngồi không không biết làm ǵ làm thơ/ từ ngu
ngơ tới dật dờ/ từ vu vơ tới vẩn
vơ tối ngày/ nhớ
người làm ngọn gió bay/ nhớ giọt mưa
ướt ngón tay th́nh ĺnh/ chưa yêu đă mộng thất
t́nh/ chưa mơ đă thấy ảnh h́nh giai nhân/ tôi
từ một gă cù lần/ học người làm một
văn nhân không chừng/ dẫu không được phép
dựa lưng/ dựa hơi cũng đủ vui mừng cả
năm/ cảm ơn trời đất, cái tâm của
người”
Sự học đ̣i của tôi, rơ ràng có
đến tám mươi phần trăm thất bại.
Nhưng tôi không buồn khi nhớ ra ở thành phố Issaquah,
không xa chỗ cư ngụ của tôi lắm, có một khu
vườn đầy hoa vàng. Ở đó có một
người biết làm thơ, viết văn, biết
thương nhớ những con ngỗng trời bốn
phương ghé qua cùng những loại chim khác. Ở đó
c̣n có những vụn bánh ấm hương tay, thơm
nồng chất thơ. Tôi chẳng thể nào không là
một con chim trời, dù thiếu đôi cánh. Thơ hay
như mồi ngon, như nắng ấm, như những
giọng gọi t́nh, tôi t́m về vườn hoa vàng là
một lẽ đương nhiên. Về xem cho biết lá phong/ c̣n bao nhiêu chuyện trong
ḷng cần phơi/ về xem cho biết chỗ ngồi/
của ḍng nắng lạc cuối trời nhớ ai/ về xem cho biết
gót hài/ dạo quanh vườn có thở dài hay không/ về
xem để học thuộc ḷng/ những yêu thương
tự nhánh bông trong vườn/ ngắt bớt một chút
sắc hương/ làm thuốc để trị nỗi
buồn vu vơ…
Mùa đông năm nay, cho đến giờ này, 31-01-2007, ở Montréal, ít tuyết, nhưng cái lạnh vẫn đầy. Nói th́ nói vậy, chứ tôi có biết chính xác đâu. Tôi đang ở trong vườn hoa để trốn mùa đông.
Luân Hoán