Vĩnh
Điện,
dấu
lặng giữa ḍng t́nh ca
Luân Hoán
Dùng
tên gọi một vùng đất, một ḍng sông, một
đỉnh núi, một loài hoa, thậm chí một gốc
cây… để làm bút danh, không có ǵ mới lạ. Qua sách báo,
chúng ta từng bắt gặp những quí danh thuần nhất
như An Khê, Biển Hồ, Hương
Thủy, Nông Sơn, Sông Thao, Trường Sa…hoặc ghép
thêm một chữ như: Nguyễn
Đông Ngạc, Nguyễn Đông Giang, Kiên Giang Hà Huy Hà…
Sau 1975, tại hải ngoại, phong trào này có phần gia tăng
theo t́nh thương nhớ quê hương, chúng ta có thêm những Cổ Ngư, Phạm Xuân Đài, Hà Kỳ Lam, Trần Quảng
Nam, Nguyễn Văn Quảng
Ngăi, Vơ Hương An, Phạm
Cây Trâm, Trần Đại Lộc, Tràm Cà Mau… Chính việc sử dụng
và kết hợp dễ thương này, đă làm tôi có một
thời mừng hụt. Thời đó, khi chưa được
nhà thơ Lê Vĩnh Thọ giới thiệu, tôi vẫn
tưởng Vĩnh Điện là con dân của đất
Điện Bàn, Quảng Nam, v́ Vĩnh Điện là tên gọi
một thị trấn của Điện Bàn, miền quê
ngoại thân thương của tôi.
Thật ra Vĩnh Điện
tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Vĩnh Điện,
thuộc ḍng dơi vua chúa nhà Nguyễn. Trong thời ông Nguyễn
Phúc Đảm tức là vua Minh Mạng trị v́, ông có
đặt ra một bài ngũ ngôn tứ tuyệt có tên Đế
Hệ Thi, để chỉ các tôn hiệu dùng cho các đời
tiếp nối ông sau này :
Miên Hồng (Hường) Ứng Bửu Vĩnh
Bảo Quí Định Long Trường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
(vua Minh Mạng)
Tôi nghĩ, mỗi một chữ
của bài Đế Hệ Thi phải là một chữ lót
có lẽ đúng hơn. Nhưng không hiểu sao, một số
chữ lót này, h́nh như đă được xem như một
cái họ mới. Những ông Vĩnh Thụy, Bửu Lộc,
Bảo Long…không rơ trên khai sinh có ghi thêm hai chữ “Nguyễn
Phúc” hay không ? Nhưng dù có dù không các ông cũng đều từ
Nguyễn Phúc Nguyên tức chúa Săi (1613-1635) mà ra. Mỗi một
đời gánh một chữ. Thân phụ của Vĩnh Điện
có tên Bửu Tuệ (Nguyễn Phúc Bửu Tuệ ) như vậy
đến phiên anh, sẽ mang chữ Vĩnh, trong hệ nhánh
“Ninh Thuận Quận Vương” ngang hàng với vua Bảo
Đại. Oai thật.Và các con trai anh sẽ mang chữ Bảo
trước mỗi tên riêng.
Tuy thuộc ḍng hoàng tộc,
nhưng thân mẫu của Vĩnh Điện, bà Nguyễn
Thị Dung, đă cho anh ra đời tại Cam Ranh, tỉnh
Khánh Ḥa vào một ngày trong tháng 8 năm 1940.
Thuở nhỏ Vĩnh Điện
tụng a,b,c và cộng, trừ, nhân, chia… hết bậc tiểu
học ở trường làng, không nằm trong lănh địa
kinh thành Huế.V́ mộ đạo Công Giáo, lúc lên trung học
anh lần lượt có mặt tại trường ḍng
Lasan, rồi Bá Ninh, Tương Lai, Lê Quư Đôn. Năm lên đệ
nhất, anh ngồi ở trường Vơ Tánh, vẫn của
thành phố Nha Trang. Vĩnh Điện biết yêu năm 17
tuổi, có phần chậm hơn tôi rất xa:
Sững sờ nh́n con bạn/ líu lo trên phản cao/ nó
hát ǵ không rơ/ ḷng ta cứ làm sao.
Ta nghe bằng đôi mắt/ ta nh́n bằng tứ
chi/lâng lâng hồn bay bổng/ theo tiếng ai thầm th́.
mấy mươi năm về trước/ lên tám hay
lên mười /ta mất hồn như thế/ chắc chắn
v́ biết yêu ?
(LH
- Đưa Nhau Về Đến Đâu)
Vĩnh Điện khi
đă bén hơi nhi nữ cũng là lúc anh bắt đầu
thích ca hát. Người t́nh đầu đời, ngồi
cùng lớp, là một sức mạnh, đẩy niềm si
mê âm nhạc trong anh cao lên mỗi ngày. Nhờ đó, “T́nh Thu
Trận
mưa tốt lành (Thụy Vũ) vào vườn âm nhạc,
không giàu may mắn nhưng khá suông sẻ. Anh có một cô bạn
học cùng lớp rất đa tài. Cô vừa hát trong ban nhạc
do chính người anh trai thành lập, vừa được
diễn một vai phụ trong phim Hồi Chuông Thiên Mụ,
bên cạnh vai chính, nữ tài tử Kiều Chinh. Vĩnh
Điện qua giới thiệu của cô bạn này đă
được những người đang sinh hoạt tại
ban nhạc cũng như đoàn làm phim hướng dẫn
thêm về căn bản sáng tác. Với chút vốn nhạc
lư b́nh thường như mọi học sinh trung học
khác, cộng với sự giúp đỡ của những
nghệ sĩ có ḷng vừa nêu trên, Vĩnh Điện
hăng hái học hỏi thêm từ sách vở âm nhạc, vốn
không được dồi dào thời bấy giờ ở
Nha Trang. Tuy vậy, ngày giă từ thành phố cát trắng,
Vĩnh Điện đă có trong tay hai ca khúc “Nha Trang Chiều
Thu Xa” và “Trăng Sầu” để ra mắt xứ Huế,
đất cội nguồn của anh và cũng là nơi
dưỡng dục anh trong thời kỳ ăn ngủ cùng
Đại học Huế.
Hai ca khúc “Nha Trang Chiều
Thu Xa” và “Trăng Sầu” đă may mắn được
hai giọng ca nữ thành danh đương thời: Hà
Thanh và Thúy Hồng gởi đến thính giả qua đài
phát thanh Huế. Bước đi đầu của
Vĩnh Điện đến âm nhạc, quả thật
đă mở ra cho anh một con đường khá thuận
tiện. Nhưng không hiểu tại sao anh phát triển
không được sinh động. Có chăng sự thiết
tha với âm nhạc của anh chưa đúng mức ?
Năm 1963, Vĩnh Điện
rời giảng đường Đại học Khoa học,
đi làm công chức. Trước tiên, anh tùng sự tại
Ṭa Đại biểu Chính phủ Huế. Sau biến cố
1 tháng 11 năm 1963, anh được chuyển về Ṭa Hành
chánh tỉnh Thừa Thiên, rồi về làm Quản trị
ban ba Vũ Đại Nội Huế. Vĩnh Điện chắc
chắn không sắm cho ḿnh cái ô dù nào. Nhưng h́nh ảnh “sáng cắp ô đi tối cắp
về” thật sự đă được lặp lại,
và những ḍng nhạc của anh h́nh như cũng tạm
lơ mơ ngủ trong cái êm ả, b́nh lặng của
đời công chức. Sự dễ chịu của một
cuộc sống đủ ăn, đủ mặc càng trở
nên giàu hạnh phúc khi cô nữ sinh lớp đệ nhất
Đồng Khánh, Nguyễn Thị Huệ, chiến thắng
nhiều đối thủ, để đến vĩnh viễn
nằm chung giường với người nhạc sĩ
chưa mấy nổi danh, vào năm 1965.
Là một thanh niên cao lớn,
da thịt hồng hào, nói năng hoạt bát, Vĩnh Điện
được liệt vào hạng đẹp trai. Nét đẹp
trai của Vĩnh Điện sớm có chủ. Nhưng
người chủ của nó đă không thể cầm giữ
cho riêng ḿnh. Tổ quốc cần trưng dụng, nên cô Huệ
đành ngậm ngùi tiễn chồng vào khóa 22 Sĩ quan Trừ
bị Thủ Đức, sau khi cùng anh cho phát hành một tác
phẩm đầu ḷng đầy đủ máu thịt, Bảo
Trân. Sau này, chữ Bảo sau lưng chữ Vĩnh của
Vĩnh Điện c̣n có thêm những Bảo Trường, Bảo
Tŕnh, Bảo Triều và một o con gái Tôn Nữ Thảo Trâm.
Không rơ ḍng dơi hoàng tộc của
Vĩnh Điện có giúp anh được ǵ không ? Với những khả năng nào
anh có đủ yếu tố “con ông cháu cha” (COCC) để
được thụ huấn ngành chuyên môn, được
trọng vọng bậc nhất thời bấy giờ:
Hành chánh Tài chánh ? Đă vậy, khi ra trường Vĩnh
Điện c̣n được đưa về sở Hành
Chánh Tài Chánh số 2, đặt tại thành phố Đà Nẵng.
Ngoài cặp lon mới anh c̣n có hai chữ Thọ to tướng
trên vai áo.
Tôi trực tiếp tham gia bóp
c̣ súng qua cửa ngơ khóa 24 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Chiến cuộc giữa hai bên Bắc
Không c̣n nhớ độ ấm
của hai bàn tay lần đầu tiên nắm nhau ra sao. Nụ
cười ở đôi môi vàng thuốc lá của thằng
nào nở trước. Chúng tôi thân thiết với nhau tức
th́. Phạm Thế Mỹ, Lê
Vĩnh Thọ, Tống Nhạn, Cao Thoại Châu, cùng rất
nhiều khuôn mặt trẻ khác tiếp sức chúng tôi bằng
những hào hứng, chân t́nh. Tôi làm thơ không mệt mỏi.
Cơn nhức của vết thương chưa lành hẳn
bị đẩy sang một bên. Thơ, nhạc, hội họa
và sự giao du bè bạn quả thật là một linh dược,
đă giúp tôi trị liệu những đau xót, tủi nhục,
xấu số của ḿnh. Cũng như Thọ và tôi, trong
giai đoạn này, Vĩnh Điện sáng tác dồi dào nhất.
Tác phẩm của anh đang được trung tâm thu
băng Shotguns của nhạc
sĩ Ngọc Chánh độc quyền thu vào băng dĩa.
Những giọng ca hàng đầu của nền tân nhạc
Việt
Việc in tác phẩm bằng
typo của những người
làm công việc văn học nghệ thuật tại các tỉnh
lẻ thời bấy giờ vô cùng khó khăn. Thực hiện
được những bản ronéo
đă là một nỗ lực đáng khuyến khích. Nhạc
sĩ Phạm Duy đă chọn bài “Tôi Chỉ Muốn Làm
Người” trong tập nhạc này để chính ông tŕnh
diễn tại thành phố hoa lệ Paris của Pháp trong những
năm 1970-1972, một thời điểm đang diễn
ra cuộc ḥa đàm Ba Lê. Theo lời thuật của nhạc
sĩ Phạm Duy, nội dung ca khúc đă giúp giọng hát của
ông không những thu về những tràng pháo tay nồng nàn,
mà c̣n góp nhặt được rất nhiều giọt lệ
của sinh viên và kiều bào đang có mặt tại Pháp. Ca
khúc này sau đó được thu trong băng Jo Marcel 27 với
giọng hát Julie Quang. Cũng từ ca khúc này, Vĩnh Điện
trở lại với cái tên hoàng tộc của ḿnh trong những
sáng tác về sau. Lư do, “trên sân chơi chữ nghĩa” tại
miền Nam Việt
Một
tác phẩm, đánh dấu sự làm việc chung của Vĩnh
Điện, Lê Vĩnh Thọ và tôi là tuyển tập Lục
Bát Ca. Khởi sự cho công việc này có lẽ chỉ là một
sự t́nh cờ. Một hôm Vĩnh Điện mang ra văn
pḥng tiểu đoàn 10 Chiến Tranh Chính Trị của Thọ
bài Dạ Hành. Bài lục bát của Thọ trên tay Vĩnh Điện
đă trở thành một ca khúc. Anh hát cho Thọ nghe. Khoái quá,
Thọ đề nghị Vĩnh Điện phổ thêm một
số bài khác. Tuy đưa ư kiến với Vĩnh Điện,
nhưng Thọ đang say trong chủ đề phản chiến
với những bài thơ tự do thật dài. Anh sử dụng
khá ít thể loại lục bát. Anh nghĩ ngay đến tôi,
một cái kho 6/8 kha khá. Tôi vốn tin thể lục bát, ngoài
bài Ngậm Ngùi của Huy Cận, do Phạm Duy phổ, khó có
bài khác phổ thành công. Nhưng có thơ được phổ
nhạc là điều vô cùng thích thú (miễn là đừng
bỏ tiền để thuê người phổ, rồi
thuê tiếp người hát th́ hơi thiếu tôn trọng chính
ḿnh), tôi đồng ư ngay. Và không cần phải t́m kiếm,
tôi giao liền cho Vĩnh Điện mấy bài. Thật đáng
kinh ngạc chỉ độ một tuần sau, Vĩnh Điện
t́m tôi, rủ theo cả Thọ cùng cây đàn guitar thùng. Vĩnh Điện
say sưa đàn hát một hơi 12 ca khúc. Chuyện h́nh thành
tác phẩm này, Vĩnh Điện đă có kể lại
trong một bài viết, anh dành riêng cho tập Luân Hoán-Một
Đời Thơ, xuất bản năm 2005, nhưng có vài điểm
thiếu sót, nên tôi xin bổ túc thêm:
Toàn tập Lục Bát Ca có 12
ca khúc. Sáu bài của Thọ và sáu bài của tôi. Trong ba đứa,
tôi là người đang nằm dưỡng thương,
có nhiều thời gian, chịu trách nhiệm kẻ ḍng và
chép nốt nhạc. Vừa chép vừa tŕnh bày, tôi hoàn tất
khá nhanh. Sách được in ronéo,
nhưng không phải dùng máy quay ronéo
loại thông dụng. Lê Vĩnh Thọ đang điều hành
tiểu đoàn 10 CTCT, tại đây có loại máy quay của
Mỹ tối tân hơn. Nếu bản thảo ḿnh đẹp,
khi quay ra không thua sút in typo
bao nhiêu. Điều đáng tiếc là cái máy đánh chữ
dùng tŕnh bày lời ca có nét chữ hơi cùn và xưa cũ,
nên không thay h́nh đổi dạng tân tiến là bao nhiêu. Cách
tŕnh bày của tôi rất hợp lư. Mở đầu, lời
giới thiệu với những nhận định chung về
việc phổ thơ, cùng giới thiệu tài năng của
người phổ nhạc, bài này Lê Vĩnh Thọ viết.
Kế tiếp là mục lục những bài thơ
được phổ nhạc của Thọ. Tương
tự như vậy, phần thơ của tôi được
in sau. Ngay sau mỗi phần mục lục là nguyên bản bài
thơ được in trọn vẹn. Tiếp theo là phần
nhạc, được in trên hai mặt chẵn lẻ của
số trang. Với cách này, người đánh đàn khỏi
phải lật trang trong một ca khúc. Giấy in thuộc
loại giấy trắng tốt, đặc biệt chỉ
in một mặt nhưng gấp ở mặt ngoài (thay v́ gấp
ở gáy sách). Khi đóng, chỉ cắt xén ở phần gáy,
nên sách mở ra không có trang để trống. B́a mặt,
ngoài chữ Lục Bát Ca lớn, cắt dán từ các loại
chữ sắc nét của báo Mỹ, c̣n có in h́nh ba khuôn mặt,
sắp xếp theo hàng dọc. Cụ thể: ảnh Lê Vĩnh
Thọ / một đường ngang ngay dưới ảnh
của Thọ / bên phải trên đường ngang này in tên
Lê Vĩnh Thọ. Ảnh của Luân Hoán nằm bên dưới
và tŕnh bày tương tự. Tiếp theo là một khoảng
cách vừa phải, rồi đến ảnh của Vĩnh
Điện cùng những trang trí như trên. Trong ba tác giả
tôi là người xấu trai nhất, nghèo nhất. Nhưng
lại có cái ảnh nh́n nghiêng trông bảnh nhất, rất
có vẻ “dân ăn diện” .Với tấm ảnh do nhà ảnh
Lê Hậu chụp này, Thọ thường nói đùa: “mày nên mang ra cho mấy tiệm hớt
tóc thuê, để treo làm mẫu”. Thật sự, tôi không
cần cho thuê, nhà ảnh cũng đă chưng nó rất ư
đàng hoàng và cuốn Lục Bát Ca bán khá chạy, không chừng
nhờ cái mái tóc, sống mũi…ăn tiền của tôi. Đùa
vậy thôi. Lục Bát Ca gởi đến bạn đọc
khả quan nhờ vào buổi Vĩnh Điện và hai cô Tâm
Nguyên, Trần Thị Hường tŕnh diễn ra mắt tại
hội trường trường Trung học Phan Châu Trinh Đà
Nẵng.
Những ngày sinh hoạt tích
cực của chúng tôi chợt khựng lại, khi tôi đă
chán thời gian
“
29 ngày tái khám” và trở lại với nghề công chức.
Thọ cũng trở lại với nghề đứng trên
bục giảng, xa tận B́nh Dương. Phạm Thế
Mỹ khăn gói vào với Đại học Vạn Hạnh.
Để tránh ca hát một ḿnh, Vĩnh Điện bắt
đầu dành thời gian ăn bớt của quân đội
cho các lớp nhạc ở trường Quốc Gia Nghĩa
Tử. Bên tài sáng tác, Vĩnh Điện có một giọng
hát rất tốt, đủ để trở thành một
ca sĩ ăn khách. Đám học
tṛ của cả thành phố Đà Nẵng ái mộ anh. Tiếng
thơm đồn xa, anh được nhiều nơi mời
đến tŕnh diễn. Hội An, Nha Trang, Huế, Quảng
Ngăi, Sài G̣n…đều có những live
show của Vĩnh Điện.
Năm 1972, t́nh cờ mục
kích được những h́nh ảnh kinh hoàng trên đại
lộ Ái Tử Quảng Trị, Vĩnh Điện hoàn tất
tập trường ca mang tên Con Đường Cho Tiếng
Hát Người T́nh Si, trong 45 ngày, nhằm bày tỏ nỗi
khát khao ḥa b́nh cùng những đau xót mà một dân tộc
nhược tiểu gánh chịu. Trường ca này đă
được tiểu đoàn 10 CTCT Vùng I chiến thuật
thực hiện thành phim trường ca nhạc cảnh với
lời dẫn nhập của Luân Hoán; đă được
tŕnh chiếu trên đài truyền h́nh Huế và đài truyền
h́nh Đà Nẵng năm 1973.
Năm 1974, nhạc sĩ Vĩnh
Điện được thuyên chuyển về quân y viện
Nguyễn Tri Phương, đồn trú tại Huế, vẫn
trong chức năng hành chánh tài chánh. Giai đoạn này tôi rất
ít gặp Vĩnh Điện, nhưng tin về anh vẫn
thường đến tai. Tôi nghe nói, Vĩnh Điện hồi
xuân (dù chưa hết thanh xuân) trong một cuộc t́nh với
cô sinh viên giữa mùa đông xứ Huế. Vị ngọt
ngào của t́nh yêu, nhất là t́nh yêu vụng trộm, đă
đẩy Vĩnh Điện trở lại thời kỳ
lăng mạn trong các ca khúc lứa đôi mà trước đây
gần như anh rất nghèo nàn (chỉ có độc nhất
một Vết Thương Sơi Đá). Có lẽ không có đề
tài nào chóng làm phong phú sự nghiệp cho người sáng tác
hơn t́nh yêu nam nữ. Trong đời thường, ngoài
người vợ thân yêu, tháo vát, Vĩnh Điện vẫn
thường có một vài bóng hồng e ấp nở bên cạnh.
Điều này h́nh nhưng không làm cho hạnh phúc gia đ́nh
anh vơi đi, mà vừa đủ để giúp anh có những
ca khúc mới. “T́nh Khúc Vĩnh Điện” gồm 10 ca khúc
mau chóng có mặt ở trung tâm Shotguns
chờ chọn giọng ca, lên băng. Nhưng những
bước chân di tản chiến thuật của giới
hữu trách của Việt Nam Cộng Ḥa đă bất ngờ
tăng tốc. Mười t́nh khúc ngọt ngào của Vĩnh
Điện hụt chuyến tàu lên đường đến
với giới thưởng ngoạn.
Vĩnh Điện đột
ngột chuyển trở về Đà Nẵng, phục vụ
tại Tổng hành dinh Sư đoàn 3 Bộ binh. Lúc này, mỗi
bên trên hai ve cổ áo anh đă có ba bông mai vàng. Anh vẫn giữ
việc phát lương hàng tháng cho anh em binh sĩ. Vẫn có
xe Jeep để chạy như ngày nào, nhưng trên đầu
anh có thêm một cái nón sắt, bọc lưới hẳn
hoi. Vĩnh Điện chỉ ở với những “hoa hậu
chiến trường” (Bộ binh) vỏn vẹn ba tháng th́
tan hàng trước cả quân lệnh của Đại tướng
hoa lan Dương Văn Minh.
Chín năm tiếp sau ngày 29
tháng ba, thất thủ Đà Nẵng, Vĩnh Điện lặn
lội trong các “trại thui chột ư chí, mài ṃn tri thức”
của những người chưa đánh đă thắng
dựng trên khắp đất nước. Kỳ Sơn,
An Điềm…trùng điệp núi non, dày đặc gian khổ,
bi hận, không làm cho nguồn âm thanh trong trái tim “chỉ muốn làm người” của
Vĩnh Điện hao hụt. Anh âm thầm viết và phổ
biến qua truyền miệng
những “Trên Nhánh Rong Đời” (thơ Hạ Quốc
Huy), “Vạch Mặt” (thơ Nguyễn Điểu), “Nếu
Tôi Câm Đi”, “Hăy Sống Cho Nhau”…Trong thời gian đó, tôi
may mắn hơn, khi được xếp vào loại “cặn bă của xă hội”,
nhưng vẫn được trưng dụng để vắt
nốt một ít nghiệp vụ chuyên môn.
Vào một buổi tối,
không c̣n nhớ rơ thuộc mùa nào của năm 1984, Vĩnh Điện
cùng một người bạn gơ cửa sau nhà tôi. Vừa
kinh ngạc, vừa mừng rỡ, chúng tôi nh́n không rơ mặt
nhau dù bốn cánh tay ôm nhau thân t́nh như kiểu văn minh
hữu nghị Việt Trung. Ngọn đèn dầu thay cho cái
bóng 60w bị rơi vào thời khắc cắt điện tùy
hứng không giúp được chúng tôi nh́n ra những hư
hao, cùn ṃn của nhau. Anh bạn của Vĩnh Điện
gần như cung kính giữ im lặng hoàn toàn. Chung quanh những
người mới ra khỏi “trại cải tạo” cái ǵ
cũng đáng nghi ngại, cần thủ thế. Vĩnh Điện
hối hả hỏi xin vợ tôi hai ổ bánh ḿ thịt. Lư
lách ra cửa nhẹ nhàng như một con mèo, khiến cho Vĩnh
Điện có ư nghĩ vợ tôi đă phải đi mua chịu
!( sau này anh cho biết cảm nghĩ của anh như vậy).
Trong khi tôi để ư và rất tâm đắc với cây đàn
guitar Vĩnh Điện tự
tay đóng trong tù, vào giai đoạn mà ít nhiều lương
tâm của những người anh hùng dép râu lơ mơ thức
tỉnh. Quá hiểu và tin nhau nên trước khi vùn vụt
chia tay, Điện ghé sát tai tôi chia vui: “Viết được nhiều lắm, nhưng
để từ từ ḿnh cho nghe”. Đứng nh́n bóng người
bạn cũ mất dần trên đường, tôi vui nhưng
không ngăn được tiếng thở ra. Rơ ràng bạn
tôi vẫn c̣n khá nhiều lạc quan. Tôi chợt nghiệm
ra, h́nh như những người sáng tác nhạc thường
có niềm lạc quan cao hơn những ai gắn bó với
một bộ môn nghệ thuật khác. Suy nghiệm của
tôi không chắc ǵ đă đúng.
Vĩnh Điện gốc hoàng
tộc Huế, nhưng sinh quán tại Cam Ranh nên anh bị đưa
về quản chế tại đây. Những người
học tṛ thành niên quả thật khó dạy. Dù nhồi sọ
đến đâu cái ‘chân lư’ “V́
trăm năm trồng người” cũng trở thành
tṛ châm biếm mỉa mai, không làm trở ngại Vĩnh Điện
viết tiếp “Sẽ Không Bao Giờ Quên”, “Quê Hương
Tôi Xa Lạ”, “Vô Cùng Cô Đơn”, “Dưới Nấm Mộ
Sâu”…Anh viết để gối đầu, để hát
thầm như những món ăn phụ bồi bổ chất
xám cho chính ḿnh.
Vào thời kỳ chưa sử
dụng máy computer, việc mở
hộp thư mỗi ngày của tôi vô cùng quan trọng. Lúc này
tôi c̣n đang ở ấp (appartement). Hộp thư ở những
cao ốc cho thuê thường có h́nh chữ nhật, nằm
dọc với nhau một hàng ngang, rất gọn gàng, đẹp
mắt. Mỗi gia đ́nh cư ngụ chiếm hữu một
hộp, có ghi rơ những con số trùng hợp với số
pḥng ḿnh ở, và dĩ nhiên,
được giữ ch́a khóa riêng. Gần trên đầu mỗi
hộp thư đều có để hở một khoảng
trống nhỏ, nằm ngang, có thể nhét vào đó những
carte visite, những quảng cáo nhỏ…Nhưng người
đưa thư có ch́a khóa chung và chỉ cần một ổ
khóa, họ mở một lúc tất cả các hộp thư.
Tôi là người giữ ch́a khóa hộp thư của gia đ́nh.
Không ngày nào tôi không nao nức chờ đợi phút giây này.
Nếu đi làm, sau giờ tan sở vội vă ra về và
việc đầu tiên là mở hộp thư. Nếu ở
nhà, tôi ngóng nhân viên sở Bưu điện đến,
thường rất đúng giờ. Tôi không hấp tấp
ra đón thư trên tay họ. Mất thú. Nhưng ngay sau khi
người phát thư quay lưng, tôi có mặt trước
hộp thư. Và rất nhẩn nha nh́n vào khe hở, để
lượng định số thư thu hoạch trong ngày. Rồi
thận trọng tra ch́a khóa vào ổ, nhẹ nhàng nh́n hai ngón
tay xoay…để lóe lên vui mừng hay một thoáng thất vọng
không đâu. Hộp thư của tôi luôn luôn bội thực
v́ sách báo bè bạn nhiều nơi trên thế giới gởi
về cho, cộng thêm những hóa đơn đ̣i nợ,
những cánh bướm quảng cáo đủ loại đủ
cỡ. Thời ở đường Bourret tôi đă phải
dùng một cái bao nylon nhỏ,
có ghi số hộp thư cẩn thận, treo kèm một bên.
Quả nhiên những người đưa thư thông minh,
tử tế, đă thận trọng để vào đó những
tạp chí, những cuốn sách hơi đồ sộ như
bộ “ Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại” (của
Thái Tú Hạp), “Đại Học Máu” (của Hà Thúc Sinh)…
Trong một ngày băo tuyết
cuối năm 1991, tôi thật sự xúc động khi nh́n
bên góc trái một b́ thư hai chữ Vĩnh Điện,
đứng nổi bật trên mấy ḍng ghi địa chỉ. Vĩnh Điện đă cùng gia đ́nh
anh đến Hoa Kỳ theo diện H.O. (Humanitarian Operation).
Chương tŕnh nhân đạo của người Mỹ
quả thật đáng ca ngợi. Qua thư, Vĩnh Điện
cho tôi biết anh cùng gia đ́nh đang cư ngụ tại
thành phố
Trong một thư khác, viết
đêm 21-10-1992, Vĩnh Điện tâm sự:
“…Cảm
ơn đă nhớ đến ḿnh trong sáng tác. Có lẽ bạn
là người duy nhất vẫn c̣n nhớ đến Vĩnh
Điện này. Cũng thấy đời vẫn chưa mất
hết…”
Ngày tháng đầu tiên va chạm
với cuộc sống tại xứ người, Vĩnh Điện
không bị hụt hẫng trong kinh tế, trong môi trường
sinh sống. Anh bất ngờ về những t́nh cảm từ
những người đồng hương. Anh thèm có những
cuốn sách, những tờ báo, dù lá cải, của bạn
bè đang làm phổ biến đều khắp. Rất ít bạn
gởi cho anh những món ăn tinh thần, dù không thiếu
ít nhiều vô duyên ấy. Thân với Vĩnh Điện đương
nhiên tôi đă sớm giúp anh khắc phục ít nhiều những
mặc cảm chậm chân trong những sinh hoạt tại
hải ngoại. Vĩnh Điện đă soạn lại
những ca khúc cũ, viết, phổ thêm một số ca
khúc mới gởi qua cho tôi gọi là “tùy nghi”. V́ sự giao
thiệp của tôi chỉ mặn mà trong vùng địa phương,
nên tôi chỉ giúp được Vĩnh Điện đăng
nhạc trên tạp chí Nắng Mới. Chuyện đăng nhạc trên tạp
chí, xét cho ngay chỉ là một tṛ chơi, hâm lại cái tên tác
giả, vốn đă thất lạc lâu ngày đối với
bạn đọc. Nhưng có vẫn c̣n hơn không. Có lẽ
nhờ vậy, Vĩnh Điện cũng t́m lại
được đôi phần hứng thú. Thơ của tôi
được anh phổ thêm những bài: Truy Niệm, Thu-T́nh
Em, Thức Dậy Cùng Mặt Trời, Chiều Chở Em Đi
Học, Mưa-Vẫn Mưa Ngày Cũ, (ngoài bài Truy Niệm
dùng tên khác và chỉ phổ phần cuối cùng của bài
thơ rất dài Trong Sân Trường Bữa Ấy, những
bài khác dùng tên của bài thơ). Những thi sĩ khác
được Vĩnh Điện chọn: Thái Tú Hạp, Lê
Hân, Du Tử Lê, Hoàng Lộc, Trần Hoài Thư, Phó Ngọc
Văn, Nghiêu Minh, Trường Đinh, Dư Mỹ, Lăm Thúy, Đặng Trần Giáng
Tiên, …(1)
Dù viết bài mới, dù phổ
thơ, sáng tác nào của Vĩnh Điện ra đời cũng
bằng sự thận trọng và hết ḷng. Giá trị nghệ
thuật được đánh giá từ những đâu ?
Làm sao để nhận diện một người viết
nhạc có cân xứng tầm vóc với hai chữ nhạc sĩ
? Sự phổ biến và mức độ đón nhận
có lẽ là những điểm tiên quyết. Nhưng với
môi trường âm nhạc tại hải ngoại hiện
nay, chỉ một việc phổ biến đă là một
chuyện khó khăn. Người viết nhạc khó đủ
khả năng để trả công cho một giọng hát có
uy tín, nhằm giới thiệu ca khúc của ḿnh một cách
rộng răi. Vĩnh Điện là một nhạc sĩ thành danh nhưng có phần hạn
chế giới thưởng ngoạn, nên không thể không gặp
những khó khăn trong thị trường âm nhạc Việt
Mùa hè năm 1993, bắt
chước nhà văn kiêm học giả Hồ Hữu
Tường, tôi cùng gia đ́nh
thực hiện một chuyến “Phi Lạc Sang Hoa Kỳ”. Chuyến đi bằng
xe hơi trong một tuần lễ. Chúng tôi đến
Baltimore M.D, vào khoảng 5 giờ chiều. Vợ chồng Vĩnh
Điện hoàn toàn bất ngờ khi đón những người
khách không hề báo trước. Nhưng anh chị và các cháu
rất nhiệt t́nh và vui vẻ. Anh chị vừa mua lại
một căn nhà tươm tất nằm trên đường
Trước khi ghé thăm
gia đ́nh Vĩnh Điện, chúng tôi đă dùng sớm bữa
tối tại quán ăn Peter Pan, nên không mang nhiều phiền
hà đến cho chủ nhà. Trong thời gian chờ ngả
lưng, cả nhà Vĩnh Điện đưa chúng tôi đi
dạo mát ở hải cảng Inner Habar. Khu phố Vĩnh
Điện cư ngụ thanh vắng như một vùng ngoại
ô, nhưng khu vực hải cảng thật đông đảo. Lề bờ sông lát gạch,
được quét dọn sạch sẽ, đây cũng là
lối đi dạo của cư dân trong vùng và du khách. Những
quán ăn, quán giải khát được dựng liền
nhau, nằm trên một mặt bằng cao hơn bờ sông
chừng một thước. Ánh điện không rực rỡ,
chỉ vừa đủ để cảm nhận sự
thân thiết, hiền ḥa chung quanh. Chúng tôi thả bước
chậm răi trong hơi nước, hơi người. Thật
không có th́ giờ để hồi tưởng, để
nhắc cho nhau những kỷ niệm xưa cũ. Mặt
nước óng ánh những đường ánh sáng, có lẽ
từ nhiều nguồn phát quang hội tụ. Không nh́n trời,
nhưng tôi biết đêm có nhiều sao. Chúng tôi nói với
nhau về những chuyện hôm nay, chuyện ngày mai, linh
tinh nhiều điều. Không đi bảy bước thành
thơ như người xưa, nhưng để cảm
ơn cái tán thưởng: “Mi
làm việc ghê quá !” của Vĩnh Điện. Tôi đọc
cho anh mấy câu:
“Lại
diện kiến nhau, ông H.O
Đàn đâu ? bỏ mất cả ba lô !
Trăng rằm ? không phải, trăng chưa mọc
Thoáng sáng một thời nhạc với thơ”
Một thời đă qua, nhưng
chưa hề mất hết. Dù chẳng gợi lại, vẫn
loáng thoáng bên chúng tôi rất nhiều mảnh đời cũ.
Kỷ niệm không có h́nh dạng, không màu sắc nhưng có
hơi thở thật nồng. Tôi có thể bắt gặp
cả khoảnh sân khiêm nhường, nơi gia đ́nh Vĩnh
Điện từng cư ngụ. Ngọn cây trứng cá mới
vừa một tầm vói tay. Lá thưa không đựng nổi
ánh nắng, làm rớt từng vệt dài xuống nền sân
cát, óng vàng. Những con chim se sẻ chẳng bao giờ biết
hót, chỉ biết ríu rít chuyện tṛ, tâm sự. Chúng nhớn
nhác ḍm tôi, gọi nhau trong bóng chiều. Tôi đă đến
sớm hơn giờ hẹn, Vĩnh Điện c̣n la cà đâu
đó. Sợi dây phơi áo trong sân oằn theo chiều gió dạo.
Tôi muốn quay về nhưng lại ngồi xuống thềm
nhà, nôn nao chờ nghe chính tác giả hát ca khúc mà nhạc sĩ Phạm Duy đă hát ở tận
trời tây:
“
Xin đừng hỏi tôi, xin đừng hỏi tôi, sao không
đầu thai làm con chim nhỏ, sao không đầu thai làm
cây làm cỏ, mà lại sinh ra làm người trong nôi, mà lại
sinh ra làm người đơn côi, mà lại sinh ra làm
người như tôi…”
Vĩnh Điện nện mạnh
gót chân xuống sàn sân khấu, anh gần như gào lên:
… “đừng
hỏi tôi, đừng hỏi tôi, đừng hỏi tôi…tôi
chỉ muốn sinh ra làm người mà thôi, tôi chỉ muốn
sinh ra làm người mà thôi, cho dù lấy đá thay cơm một
đời, và làm người và làm người Việt Nam
thôi…Thôi đừng hỏi tôi, thôi đừng hỏi tôi,
tôi không làm chim để quên đau khổ, tôi không làm cây
để quên bom nổ, để mặc cho tôi làm người
bên nhau, để mặc cho tôi kể chuyện mai sau, để
mặc cho tôi đại diện thương đau…”.
Phong cách tŕnh diễn của
Vĩnh Điện thật sinh động, rất mới
lạ trong thời buổi ấy. Những tiếng vỗ
tay rào rào. Tôi nh́n anh hát hơn là nghe anh hát buổi hôm đó…
Vĩnh Điện đạp
thắng gấp. Chiếc Jeep lùn như giật ḿnh đứng
lại. Tôi đưa tay về phía trước, thủ thế.
Hẻm vào nhà Lê Vĩnh Thọ khá rộng, nhưng người
đi lại bừa băi, vô ư. Tiếng chó sủa từng nhịp
một, thăm ḍ, thách thức…
Tôi vừa đi, vừa nói
chuyện với Vĩnh Điện, vừa t́m thấy những
h́nh ảnh chờn vờn trong trí như trên, trong một không
gian nhộn nhịp nhưng vô cùng êm ả. Một đêm ngắn
ở thành phố
Sáng hôm sau, vợ chồng Vĩnh
Điện theo chúng tôi đi thăm thủ đô Washington của
Hoa Kỳ. Chúng tôi thực hiện được nhiều ảnh
chụp: trước ṭa Bạch ốc, trước ngọn
tháp “bút ch́”, trước tấm đá đen khắc tên những
chiến sĩ Hoa Kỳ đă hy sinh trên con đất h́nh
chữ S, Trước trụ cột Zero Milestone, trước tượng đài The Second Division, trước
nhiều tượng đồng đen người lẫn
ngựa… Ảnh chụp là một nghệ thuật lưu
giữ thực tế trung trực. Thời khắc, nhân dạng
trong khoảnh khắc dừng lại măi măi trên mặt giấy.
Nhiều lúc buồn buồn tôi mở album xem lại. Vợ chồng Vĩnh Điện
đồng phục một màu trắng. Anh trông có vẻ c̣n
phong độ lắm. Tôi lúc này chưa nuôi râu. Trừ Nguyễn
Minh Dũng, LN Thạch Bích, vợ chồng tôi, cùng LN Ḥa B́nh,
LN Quốc Bảo, LN Hoàng Bách đều chơi kính màu đậm
như một đám xă hội đen. Bề ngoài trông tươi
vui như vậy, nhưng trong ḷng, đâu biết ra sao ? Chúng
tôi không nằm trong “khúc ruột
ngàn dặm” của Việt
Năm sau, 1994, Vĩnh Điện
đơn thân độc mă sang thăm tôi trả lễ. Tôi
giới thiệu với anh những người bạn văn
mới Lưu Nguyễn, Vũ Ngọc Hiến, Lê Quang Xuân…Tờ
Nắng Mới đi khá nhiều ca khúc của Vĩnh Điện.
Ông cựu quan ba hành chánh tài chánh ấy vẫn mê hát. Ông đă
đóng kín cửa buồng ngủ để vừa chơi
đàn guitar vừa ca, và bạo
hơn nữa là thu luôn vào cassette
gởi sang cho tôi. Ngày nhận được quà, không ghiền
uống trà, tôi cũng lục lon chè trên bàn thờ, pha đậm
một chén, ngồi lắng ḷng nghe nhạc. Đă. Nhạc
lạ, giọng ấm lẫn tiếng gió thỉnh thoảng
lọt vào khe cửa, giúp tiếng đàn tây ban cầm lả
lướt hơn. Một điều chợt nhận ra, nghe
Vĩnh Điện đàn hát, không thể không nhớ thời
nằm thưởng thức băng nháp những ca khúc Bà Mẹ
Phù Sa, Giọt Mưa Trên Lá… của anh Phạm Duy gởi cho.
Thương quí nhau, nhưng
chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gọi tán dóc năm,
mười phút. Thư từ cũng thưa dần. Vợ
chồng Vĩnh Điện đă tạo được căn
nhà mới. Anh đă cưới vợ, gả chồng cho tất
cả năm đứa con. Lên chức ông nội từ mấy
năm nay, nhưng anh vẫn đi “cày”. Năm 2005, em tôi, Lê
Hân, thực hiện cuốn Luân Hoán-Một Đời Thơ,
Vĩnh Điện góp một bài “Về thời phổ Lục
Bát Ca”. Anh nhớ về quá khứ khá rơ. Anh c̣n gởi cho tôi
ảnh cô bé “tiếng hát học tṛ Tâm Nguyên”. Thói thường,
người đời “nh́n ảnh nhớ người”, nhưng
tôi nh́n ảnh lại nhớ tôi và nhớ cả một thời…khoái
thật. Nên đă viết thêm
cho Vĩnh Điện mấy câu:
ngộ
Vết Thương Sơi Đá
trên bước t́nh lang thang
sao Một Đời Chỉ Muốn
Làm Một Người Việt
đàn hát vốn là thú
của người biết hưởng nhàn
yêu đời chưa hẳn đủ
nếu ngừng cuộc t́nh tang
Vĩnh Điện chưa
ngừng “cuộc t́nh tang” , năm 2001 trong một chuyến
nghỉ phép đi thăm California, anh đă được
một số bằng hữu cũ, những Du Tử Lê, Thái
Tú Hạp, Hạ Quốc Huy, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn
Chí Khả…đứng ra tổ chức cho anh một đêm
“T́nh CaVĩnh Điện” tại hội quán Thùy Dương
của nhạc sĩ Hoàng Trọng Thụy. Đêm nhạc
thành công, đủ cung cấp thứ nhiên liệu hứng
thú cho Vĩnh Điện lần lượt mang tiếng hát,
ngón đàn ghé nhiều tiểu bang của nước cờ
hoa. Anh đă rất hạnh phúc
được hát cho đám bạn cựu tù nghe trong buổi
“Hội Ngộ Bạn Tù Kỳ Sơn, An Điềm” tại
thành phố
Năm 2006, tôi bỏ
đường dây điện thoại viễn liên của
hăng Primus, chỉ dùng phone card để gọi đi
xa khi cần thiết. Mọi giao thiệp với bè bạn
thường qua điện thư. Hộp thư thuê bao từ Videotron của tôi có sức chứa,
và tốc độ chuyển gởi đạt thật tuyệt,
nhưng cái bút hiệu Luân Hoán, một phần của địa
chỉ, không hiểu v́ lư do ǵ thỉnh thoảng cù rũ vài
anh virus tinh nghịch lạc
vào đại náo. Tôi đành phải dùng một vài địa
chỉ khác.Vĩnh Điện và vài bạn văn bị tôi
sơ ư quên thông báo. Chúng tôi mất tin nhau gần 10 tháng, cho
đến ngày anh hỏi mua mấy cuốn sách mới của
tôi từ Lê Hân. Cũng năm 2006, vào tháng 7, qua Thái Tú Hạp,
tôi biết Vĩnh Điện có tên trong sổ phong thần
ung thư. Tuyến tiền liệt
(trái tim thứ hai của người đàn ông) của anh
có vấn đề. Từ
Anh cho biết chính xác anh bị
prostate cancer và đă qua phần phẫu thuật,
đang bước vào giai đoạn xạ trị (dùng tia
x quang năng lượng cao để diệt tế bào
ung thư, được thực hiện bởi thiết
bị tín số 3 chiều của những loại máy gia tốc
synchrotron, cyclotron vv…). “Sinh lăo bệnh
tử” chuyện đương nhiên, thường t́nh của
con người. Ai cũng biết và đều nói vậy,
nhưng mấy ai có thể b́nh thản trước cái tai nạn
của chính ḿnh. Nỗi buồn đau, tôi nghĩ, đều
rất giống nhau, chỉ sự biểu lộ có phần
khác nhau. “Muốn chết mà sợ
chết” đó là điều b́nh thường huống ǵ
không muốn chết mà hy vọng sống c̣n thật mong
manh. Với tâm trạng bi quan này, trên giường bệnh,
đúng vào ngày sinh nhật năm 65 tuổi, Vĩnh Điện
đă gắng viết một ca khúc, mà anh cho là bài t́nh cuối
của anh:
“Mặt
hồ đang lặng yên, viên sỏi nào vô t́nh rơi xuống,
làm xao động hồn ta, trong bóng chiều bao la, tựa
gốc cây thông già, đợi chờ bóng đêm rơi, ta
đang lần đến hạt cuối trong chuỗi
đời tả tơi. Trôi đi trong mê muội, thời
gian lặng lẽ chôn vùi, những kỷ niệm buồn
vui, hạnh phúc và đớn đau, buổi sáng mùa xuân tinh
khôi. Đất trời lung linh mưa bụi, với cây cỏ
lá hoa mọc lên hồn nhiên, buổi trưa đầu mùa hạ,
đáng lẽ rong chơi trên đồi xa, cơn mê nào
đưa người lên đỉnh núi, ác mộng nào xô ta
xuống vực sâu. Chiều thu đang về đây, lá thu
rơi tàn tạ, mới hay đời quá mỏng manh. Tóc
xanh ngày nào nay đă bạc trắng mái đầu. Có đếm
được bao nhiêu sợi tóc đen c̣n lại
vương vấn trần ai…Tựa gốc cây thông già
đợi cơn giá lạnh đêm đông, nước mắt
chảy vào trong. Sống chỉ một đời, sao đớn
đau nhiều kiếp. Trong bóng chiều mênh mông, ta lần
đến hạt cuối cùng trong xâu chuỗi đời lận
đận…”
Có thể Vĩnh Điện
đang lần ngón tay qua từng mắt chuỗi đời,
nhưng tôi vẫn c̣n ít nhiều lạc quan, bạn tôi vẫn
c̣n khá lâu mới lần đến hạt cuối cùng. Cơn
bệnh của anh có thể ngặt nghèo v́ hai tiếng “ung
thư”, nhưng tôi tin, đây chỉ là một dấu lặng
trên ḍng t́nh ca của một người từng biết yêu
thương và tha thiết làm người, nhất là làm
người Việt Nam, giàu lận đận.
Bạn vàng ơi, hăy nghĩ
về cây đàn guitar, hăy nghĩ
về khóa sol cùng những nốt
đen, nốt kép, nốt tṛn. Đô, rê, mi, fa, sol, la, si… Những
âm thanh mềm mại nhưng bền chắc như một
cái vơng, cái nôi... Những dấu lặng, dấu ngắt, dấu
ngừng… bạn từng sử dụng, sai khiến tùy hứng
cơ mà. Tôi muốn nhờ bạn phổ thêm cho tôi một
ca khúc yêu đời nữa.
Gắng nhé. Tiếp tục
cầm đàn lên, tôi tiếp sức:
Đời vui như một bài ca
không cần phải hát cũng bao la t́nh
ngó quanh người đă gặp ḿnh
hoàng hôn đích thực là b́nh minh soi
hăy nh́n cho thật hẳn hoi
hăy nghe cho thấu tiếng ngoài âm trong
mở ra cho hết tấm ḷng
yêu quanh hạnh phúc yêu ṿng đau thương
buồn, xin cứ tự nhiên buồn
viết thêm vài khúc ca… buồn hát chơi
sống lâu, mệt, cứ việc ngồi
hăy ngồi trong trái tim đời an nhiên
(1) Ghi chú: Xin thành thành cảm tạ các nhạc
sĩ, bè bạn: Minh Duy, Phan Ni Tấn ND, Vĩnh Điện,
Vũ Thái Ḥa, Nhật Ngân, Vũ Đ́nh Trường, Mai
Đức Vinh…đă cho thơ tôi có cơ hội sống
cùng với âm nhạc. Rất tiếc tôi đă không dám biến
những ca khúc phổ từ ḷng thương quí của các
bạn, thành phụ bản trong các tập thơ đă in,
v́ ngại đồng hóa với phong trào khá thịnh hành. Những
tác phẩm này, trong tương lai, hy vọng sẽ
được tập trung giới thiệu trong một tuyển
tập hẳn hoi. Đa tạ. LH
Luân Hoán