Châu Văn Tùng,
người độc giả
thứ hai
Luân Hoán
Độc
giả là người bạn đường của
người viết. Trong giai đoạn tôi tập tễnh
bước vào cuộc chơi thơ văn, Châu Văn Tùng
là độc giả thứ hai của tôi. Không dành cho anh vị
trí thứ nhất, bởi v́ chính tôi giữ vai tṛ này. Dù thật
sự, sau khi làm được một bài thơ, tôi chỉ
đọc lại qua loa, thay đổi vài chữ hoặc
không, tôi cũng t́m ngay đến Tùng để khoe.
Tùng và tôi đă gặp và sớm
thân nhau từ khu nhà lá của lớp Đệ Ngũ 3
trường trung học Phan
Châu Trinh Đà Nẵng, niên khóa 1957-1958, sau khi tôi từ
trường trung học Trần Cao Vân Tam Kỳ chuyển
ra trung học Trần Quư Cáp Hội An, rồi chuyển tiếp
về Phan Châu Trinh. Lớp Ngũ 3 của chúng tôi gồm toàn
những học sinh có trang bị súng cá nhân. Những thằng
cu này khá tinh nghịch và đă rậm lông, dày cánh lắm rồi.
Cả lớp có chừng năm mươi tên, ngồi
đầy hai dăy bàn trong một căn pḥng thoáng mát. Phía
trước mặt, bàn ghế của thầy, cô giáo nằm
trên một bục cao, kế bên là tấm bảng xanh to rộng.
Cánh cửa ra vào thứ nhất đứng không xa tấm bảng.
Xóm nhà lá gồm bốn bàn, nằm cả hai dăy. Tôi và Tùng ngồi
sát vai nhau, gần cửa ra vào thứ hai, tiếp cận
ngay hành lang. Sân trường rộng, mặt cát. Năm bảy
cây xanh tận lề đường Lê Lợi, mới
được trồng, vừa đủ cao ngang đầu
một học sinh tầm thấp. Tùng được cho vào
xóm nhà lá có lẽ do vóc xác cao lớn của anh. Tôi được
bổ sung quân số cho xóm này, có thể do đôi kính quá dày
của thầy Trần Tấn, nh́n không ra sự hiền lành
lẫn nhút nhát của tôi, trong lần đầu cầm giấy
giới thiệu từ văn pḥng xuống lớp. Âu cũng
may. Định mệnh an bài không chừng. V́ nếu tôi không
là dân xóm nhà lá, mà là dân xóm trên, ngồi cạnh một người
không luôn tay vẽ vời trong giờ học, th́ cái nguồn
thơ của tôi có thể đă sớm cạn, và cuộc
đời tôi biết đâu đă chuyển sang một ngành
nghề khác, không phải thơ thẩn. Hên, xui thật sự
đến bây giờ tôi cũng chưa xác định rơ. Nhưng
tôi đă thực sự vui mừng, hạnh phúc, khi có
được một người bạn tốt, và cũng
đă chọn cho ḿnh một thú chơi không tệ.
T́nh bạn
học giữa tôi và Tùng phát triển mau lẹ nhờ vào
nhiều món giải trí giống nhau. Đứng đầu
là môn đọc sách. Từ những lăng mạn cổ điển
của Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính…chúng tôi chuyển qua tả chân, hiện
thực Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nguyễn Tuân…Những Dế Mèn Phiêu Phiêu Lưu Kư, Xóm
Giếng Ngày Xưa, Quê Ngoại, Bỉ Vỏ, Những Ngày
Thơ Ấu… đến cả Tâm Hồn Cao Thượng,
Jack London…cù rũ chúng tôi cả ngày. Dù đọc chỉ
để đọc, không biết để làm ǵ. Tùng vẫn
thích phác họa khuôn mặt thiếu nữ. Nét vẽ của
anh có non yếu hơn họa sĩ Ngọc Dũng chút ít,
nhưng vẫn mang đầy đủ chất nghệ
thuật và sáng tạo, rất tiếc thành phố Đà Nẵng,
thời điểm này không có nổi một tờ báo đúng
nghĩa. C̣n tôi, th́ vẫn làm“con
cóc nhảy ra”, nhưng con cóc “không
ngồi đó…” mà nó nhảy vào các trang của tuần báo
thiếu nhi Tuổi Xanh ở số 380 đường Da Bà
Bàu Chợ Lớn.
- Mày làm bài
thơ này được lắm - Bài này, tao thấy có mấy
chữ mày dùng c̣n vẻ hơi cải
lương, mày xem đổi
lại đi - Bài này dài quá, tao thấy nên cắt ra làm hai,
thành hai bài được, nếu mày sửa lại một
chút…
Thường thường sau
những góp ư đại khái như trên của Tùng, tôi đều
xem lại bài viết. Có thể có thay đổi chút đỉnh
hoặc không. Những bài thơ trong sáng, ngây ngô của giai đoạn
này, tôi đều loại bỏ, không chọn lại khi có
dịp in thành tập sau này, dù trong số đó có bài đă được
một nhóm soạn sách giáo khoa ở Sài G̣n, chọn làm bài học
thuộc ḷng, in trong sách Việt ngữ lớp nh́, lớp
nhất. Việc này, một dạo đă làm lỗ mũi tôi
lớn gần bằng hai ống thở của ông Ngưu
Ma Vương, chồng Ngọc Diện Công chúa trong Tây Du Kư.
V́ em trai tôi, Lê Hân cũng làm
thơ, làm ô chữ cho Tuổi Xanh, nên để khỏi trùng
địa chỉ nhận báo tặng, tôi mượn địa
chỉ nhà của Châu Văn Tùng. Lúc bấy giờ căn nhà
ngói gổm nhiều pḥng của ba mạ Tùng, mang số 66 nằm
trên đường Triệu Nữ Vương, một con
đường tương đối ngắn, nối từ
rạp chiếu bóng Chợ Cồn đến đồn cảnh
sát Hoàng Diệu. Tôi vẫn thường hiện diện
trong ngôi nhà này. Nếu t́nh ư thêm một chút, đào hoa hơn
một chút, có thể tôi đă trở thành em rể của
Tùng. V́ anh có hai cô em gái, Châu Thị Hồng, rất sắc sảo,
Châu Thị Đào mũm mĩm như một con búp bê Nhật.
Ba mạ Tùng đăi ngộ tôi như con. Bác trai, Châu Văn
Chỉ, xuất thân từ cái
nôi giáo dục của người Pháp, từng giữ chức
Phó Thị Trưởng thành phố Đà Nẵng, rồi Tổng
Giám Đốc Quỹ Bù Trừ Pháp toàn cơi Trung Việt cho
đến ngày hồi hưu. Ông gốc Quảng
Châu Văn Tùng ra đời
tại quê nội, Hải Châu Đà Nẵng, vào năm 1942, theo
khai sinh. Đúng ra anh cũng cầm tinh con rồng như tôi,
nhưng không biết khúc đầu hay đoạn đuôi.
Dù đầu hay đuôi, hễ đă là rồng đều
là rồng lộn cả, nên cuộc đời đứa
nào cũng không thiếu long đong, bầm dập. Ngoài hai
cô em gái, Tùng c̣n có một ông anh, tốt nghiệp bác sĩ,
anh Châu Văn Thạch (bạn học cùng nhà thơ Tạ Kư)
làm việc tại Sài G̣n. Bà chị Châu Thị Lan, phu nhân của
một nhà thầu, kiêm thương gia giàu có nổi tiếng
của Đà Nẵng. Một bà chị khác dịu dàng, hiền
thục trong nghề làm cô giáo, chị Châu Thị Mai, lớn
hơn chúng tôi chừng hai tuổi. Nh́n chung, Tùng có nhiều điều
kiện để theo đuổi thú chơi thơ văn,
hội họa… hơn tôi, nhưng không hiểu sao, anh không
chọn con đường vinh hoa, thiếu phú quí này. Ngoài
chuyện vẽ vời, mua sách làm tủ sách gia đ́nh, Châu
Văn Tùng c̣n say mê sưu tập thơ. Anh chép gần đầy
đủ những thi tập tiền chiến vào trong các cuốn
sổ đóng sẵn, b́a cứng, có gáy như sách. Có cuốn
dày đến 500 trang. Chữ viết của Tùng khá đẹp.
Chép thơ cũng là cơ hội cho các bản vẽ thiếu
nữ của Tùng có chỗ trang trí nghiêm túc. Tôi cũng bắt
chước Tùng làm công việc này một thời gian. Tùng cũng
là một người sưu tập và chơi tem có hạng
trong thành phố. Anh sắm những cuốn album đặc
biệt, đắt tiền cho thú chơi trưởng giả
và có vẻ trí thức này. Biết ḿnh không có khả năng,
tôi không mấy hứng thú với tem c̣. Nhưng Tùng quyết
tâm chia xẻ cùng tôi, anh tặng album, tặng tem dư, tặng
luôn cả kính lúp. Rất tiếc, chỉ một thời
gian ngắn, tôi phụ kỳ vọng của anh để
nuôi cá kiểng, một tṛ chơi Tùng không mấy thích. Thật
ra việc chơi cá kiểng của tôi cũng bắt nguồn
từ hồ cá, như một cái ảng lớn trong sân nhà
của Tùng. Tôi khoái những con cá tàu đỏ, ba đuôi, đài
các. Tôi thích những rễ cây nhỏ nhắn ăn bám vào mặt
đá, một nửa ngấm nước, một nửa phơi
nắng cả ngày. Tôi thích những cọng rêu, những cánh
bèo rất ít khi được chao động. Cá kiểng đă
làm bạn với tôi qua nhiều chặng đời. Sau này,
vào thập niên 80, tôi chuyển hẳn tay qua nghề chơi
chim. Hiện nay, tại hải ngoại, tôi trở lại
với cá kiểng, dù không rườm rà, cầu kỳ như
ngày xưa.
Nhắc lại kỷ niệm
thời trung học với Châu Văn Tùng không phải là
chuyện khó. Rất nhiều h́nh ảnh, rất nhiều câu
đối thoại xa xưa vẫn c̣n rất đậm
trong ḷng tôi, chỉ cần nhắm mắt lại trong giây lát,
tôi có thể đưa lên mặt giấy bộn bề một
thời quá khứ. Nhưng chẳng lẽ làm phiền quá
nhiều bạn đọc, tôi chỉ xin làm sống lại
đây đôi điều chợt chạm đến trí nhớ.
Từ nhà, 66 Triệu Nữ
Vương, Châu Văn Tùng có thể theo vài ngă phố khác
nhau để đến trường Phan Châu Trinh, nằm
trên đường Lê Lợi. Nhưng anh đă chọn ngă đi
ngang qua nhà tôi. Với lối đi này, Tùng phải tiến
qua gốc cây đa, qua luôn một ngôi chùa của Thiên Tiên Thánh
Mẫu, (nơi vẫn thường phát ra những điệu
rất “kích động”, tôi rất mê) để đến
ngă ba Hùng Vương, Triệu Nữ Vương. Rồi Tùng
phải đi ngang tiệm thuốc lào Quỳnh Lâm, pḥng mạch
bác sĩ Thái Can (ông “anh biết
em đi chẳng trở về”), nhà may mui nệm Nguyễn
Niệm…đến đầu tường bệnh viện
Pháp vừa giao lại cho Việt Nam, Tùng rẽ trái qua Đông
Kinh Nghĩa Thục. Sau khi qua ngă ba Pasteur, cửa sân vận
động Chi Lăng, chắc Tùng đă sẵn sàng tiếng
gọi:
- Châu ơi…
Tôi đă
phục kích âm thanh này, và tức th́ phóng xe ra đi. Cả
hai thằng quẹo phải ở Thống Nhất, chỉ
cách đó chừng 100 mét. Tôi cưỡi xe đạp đầm,
Tùng khệnh khạng trên xe đạp dàn ngang. Anh vốn
cao lớn hơn tôi gần nửa cái đầu. Chúng tôi
qua trụ sở Nghiệp đoàn Lao động với cái
đầu trâu to tướng, đen thùi dựng trước
sân, qua chân một g̣ đất cao, sau này là trường nữ
trung học Hồng Đức, để đến Lê Lợi,
để làm môn đệ gián tiếp của nhà cách mạng
Phan Châu Trinh. Bạn học của chúng tôi thằng nào cũng
dễ thương. Nhưng đáng nhớ đời là những
tên đại tinh nghịch, đại xuất sắc, như
Trần Hữu Chí, Trần Lục, Trương Văn Phương,
Nguyễn Văn Thơ, Phan Quảng…Sau giờ học, chúng
tôi thường đảo một ṿng Đồng Khánh, Trần
Hưng Đạo, rồi chia tay ở ngă tư đường
Hùng Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục.
Không có cuối tuần nào,
chúng tôi không bát phố. Hôm nay tôi tạt lại nhà Tùng để
cùng thong dong, hôm sau Tùng ghé nhà tôi để tiếp tục
chuyến đi khống khứ của ngày hôm trước.
Tính chung, Tùng ghé đến tôi nhiều hơn, v́ nhà tôi ở,
đến những nơi thường đến gần
hơn. Dĩ nhiên những ngày cuối tuần chúng tôi chỉ
lội bộ. Những con đường để chúng tôi
“bát” của thành phố Đà Nẵng thời bấy giờ
không nhiều. Chung qui cũng chỉ là khu vực thương
mại sầm uất loanh quanh chợ Hàn. Ở tọa
độ này, chúng tôi có một số điểm đến
gần như cố định: Quán sách Lam Sơn, quán sách
Sông Đà, (cả hai đều nằm trên đường
Độc Lập), Ty Thông Tin (ở góc hai đường
Đồng Khánh, Yên Báy). Và quán trà Thành Kư, nằm đối
diện chênh chếch với “nhà thờ Con gà” Đà Nẵng.
Quán sách Lam Sơn và Sông Đà
có hai ông chủ trung niên, không được cởi mở
lắm. Có lẽ v́ công việc buôn bán làm cho cả hai ông có
vẻ trầm tư một cách khó tính. Ở quán sách Sông Đà
có một căn gác, nhà văn Lưu Nghi đă từng tạm
trú một thời gian rất ngắn ở đây. Nhà văn
Trang Thế Hy h́nh như cũng từng ghé đến. Tùng
và tôi không hiểu đă v́ lẽ ǵ, đă có lần leo lên gác
này thăm ông Lưu Nghi, nghe nói dóc hết cả một buổi
chiều. Ông thầy giáo dạy Việt văn của chúng
tôi, Trần Ngọc Quế, cũng rất thường hiện
diện trong quán sách Sông Đà. Nhưng chúng tôi t́m thấy sự
thoải mái nhiều hơn ở quán sách Lam Sơn. Ông chủ
Lam Sơn vốn thường mặc áo len, dáng người
hơi thấp. Ông biết cười nhiều hơn ông Sông
Đà, đối thủ của ông. Chúng tôi nạp tiền
cho ông này nhiều hơn ông kia gấp bội. Những dịp
Giáng Sinh, cuối năm đông đảo, ánh mắt ông có
vẻ ít xốn hơn khi thấy chúng tôi chiếm chỗ xớ
rớ. Ty Thông Tin Đà Nẵng, nằm trên hai mặt
đường Đồng Khánh, Yên Báy. Sau ngày cụ Diệm
lên ngôi, cơ sở này được sửa lại khang
trang, rộng răi hơn trước. Đây cũng là một
trạm chúng tôi thường ghé vào để nghỉ chân, lật
lật những tờ báo khổ lớn, được kẹp
cứng trong hai thanh gỗ ở phần gáy, để khỏi bị cầm nhầm. Ty
thông tin thường hay trưng bày ảnh thời sự có
tính cách thông tin. Chúng tôi từng nh́n thấy ảnh các tướng
Trịnh Minh Thế, Tôn Thất Đính…ở đây. Tiệm
trà Thành Kư khá khiêm nhường, chỉ có chiều sâu, chiều
ngang khá hẹp. Rất ít khi chúng tôi ngồi bàn trong nhà. Tiệm
chuyên bán cà phê, ca cao, trà cúc, bánh ngọt,bánh paté chaud. Cô chủ là một người Trung Hoa,
chắc chắn lớn hơn chúng tôi vài ba tuổi. Cô có một
khuôn mặt xinh xinh, mặn mà, duyên dáng như minh tinh Miêu Khả
Tú và một vóc dáng gợi mở như nữ diễn viên Đinh
Phối. Sự phát triển thân thể của cô đang ở
trong giai đoạn tuyệt vời nhất của người
phụ nữ. Tôi nhiều lần nh́n trộm cô qua rất
nhiều phần bắt mắt trên cơ thể. Những
ǵ tiên sinh Nguyễn Du vẽ trong truyện Kiều tôi đều
lén tham quan. Con mắt của tôi đương nhiên có phần
vô phép, nó nồng nàn không thua sút hơi thơ của thi sĩ
Bích Khê. Mỗi lần nh́n trộm, tôi phát hiện có nhiều
thao thức kỳ thú trong ḷng, khác hẳn với khi ngắm
nh́n một bạn nữ sinh. Nhiều đêm c̣n nằm mơ
cùng cô hàng hoan lạc nữa. Những giấc mơ rất
ư là Liêu Trai Chí Dị. Không giỏi môn địa lư, nhưng
tôi cũng rất thường hay “vẽ bản đồ”
trong thời kỳ này.
Những chuyến bát phố
của lứa tuổi học sinh choai choai chúng tôi, thường
được xem là những chuyến đi thưởng
ngoạn nhan sắc thanh xuân của thiếu nữ, nói bộc
trực hơn là đi “nghễ gái” Đối tượng của chúng
tôi chủ yếu là đám nữ sinh. Họ thường
tha thướt trong các chiếc áo dài trắng từng nhóm vài
ba người. Cũng có một số cá biệt, ăn mặc
theo đúng thời trang và lượn xe qua phố trong phong
thái lả lướt linh động hơn. Những h́nh ảnh
này tôi đă giữ lại tiêu biểu trong ít vần lục
bát:
“vào chiều, mặc jupe-serrée/ mang giày gót nhọn
lượn xe, vói người/ sợi t́nh thả lỏng
chân vui/ cho ngọn gió đủ thơm người đứng
hong/ vai nghiêng theo nhánh đường ṿng/ đôi găng lụa
bạch bềnh bồng nắng chao
nguồn hương thuốc lá cơi nào/ mon men rủ
đến cúi chào ngón hoa/ chờn vờn, lấp ló, la cà/ nằn
ń trồng ngọn thi ca sống cùng
dịu dàng chiều đẩy sau lưng/ bềnh bồng
ngọn tóc thanh xuân bên trời/ ṿng solex lướt thảnh
thơi/ vô t́nh dẫm chiếc bóng ngồi ngóng theo
phố chiều vướng hạt bụi treo…”
(Chiều Phố, Trôi Sông)
Nói cho ngay, tôi và Châu Văn Tùng
không đặt nặng vấn đề đi ngắm mặt
mũi, dáng đi, dáng đứng của các em. Chúng tôi bát phố
như một thói quen của một giai đoạn trong
đời sống. Hơn nữa ngoài những bóng hồng
ra, chúng tôi c̣n rất thích thú với cảnh sinh hoạt nhộn
nhịp, đông vui của phố phường. Sự lặp
lại trong sinh hoạt của mỗi ngày nơi đô thị,
mới nh́n qua, tưởng na ná như nhau, nhưng thật
ra có sự khác biệt từng phút, nếu chúng ta có ḷng quan
sát, chiêm nghiệm. Về cái tội ngắm gái đối với
tôi, có lẽ c̣n có, nhưng đối với Tùng, th́ oan cho
anh. Thích vẽ người đẹp, nhưng anh rất ít
khi nhắc đến bóng hồng này, nhan sắc kia, hay có một
ánh nh́n bất ngờ dành cho một người đẹp
nào đó qua đường. Đây có lẽ là một nghịch
lư mà tôi không giải thích được. Biết bạn ḿnh
không nhiều hào hứng với loài hoa biết nói, nên tôi đă
cô đơn một ḿnh, trong những lần qua các ngơ nhà mỹ
nhân: Minh Xuân, Như Thoa, Trân Châu, Lâm An, Lâm Vui, Bích Quân, Thu Hà,
Thu Liên, Quỳnh Chi, Quỳnh Cư, Quỳnh Diên, Thúy Oanh, Ái
Cầm, Diệu Minh, Quư Phẩm, Thạch Trúc, Bích Hà, Hồ
Hồng, Huỳnh Phú…hay âm thầm Nghiêng Chào Đà Nẵng
Tiểu Thư Quỳnh Như, Ngọc Lan, Bích Hà…Hoặc:
“…một
ḿnh qua phố chiều mưa/ tôi cong lưng đạp
đi mua t́nh người/ lượm thầm từng vụn
tin vui/ chắt chiu ủ kín đọt cười chớm
xanh…
tôi đi lững thững bên
trời/ porte-bagages nặng vốn lời nhân sinh/ thầm
thương cho nhúm thơ t́nh/ em chưa chịu thả chân
linh hiển vào…”
Tôi lăng mạn, tôi đa t́nh
cũng chỉ v́ thơ thôi. Vừa đạp xe, vừa làm
thơ là chuyện b́nh thường. Nếu không làm thơ,
th́ giờ đâu để viết nữa, bởi “Lang thang đi dạo cả ngày,
con đường nhẵn gót, ngọn cây nhẵn mày…”.
Tùng cũng đi nhiều, nhưng kém xa tôi. Hơn nữa,
h́nh như anh không bao giờ làm người độc hành.
Anh cũng thiếu vắng những bay bướm cần
thiết. Khuôn mặt sáng sủa, đẹp trai, thân h́nh cân
đối, cao lớn, nhưng anh là một người thuộc
loại “nhát gái” đáng nể. Trong suốt thời kỳ
thư sinh, Tùng gần như không quen biết, hoặc để
ư đến một người nữ nào. Nếu tôi từng
biết hương vị của thất t́nh là ǵ, th́ Tùng gần
như suốt đời anh, không hề được chạm
đến “cái thú đau thương” này.
Kỷ niệm đánh dấu
cụ thể sự trưởng thành của chúng tôi nằm
vào hai đôi giày. Vào những ngày cận Tết, không c̣n nhớ
chính xác năm nào, tôi và Tùng đều cảm thấy ḿnh đă
lớn lắm rồi, nên trang bị cho thân thể những
phục sức đàng hoàng hơn, chỉnh tề hơn.
Chúng tôi cùng đồng ư loại bỏ loại sandale vẫn mang hằng ngày bằng
loại soulier à lacet. Hai thằng
hớn hở dạo một ṿng phố, ghé không sót một
hiệu bán giày nào, cuối cùng vào cửa tiệm Á Châu của
chị Bành Nhă Quyên (một người Hoa, về sau là
đồng nghiệp của chúng tôi), chọn mỗi đứa
một đôi giày da đen, đế cứng có cả “con
đỉa” đóng dưới đế. Chia tay nhau mỗi đứa về
nhà ḿnh tập làm người lớn. Ngày hôm sau, thằng nào
cũng bị phồng đỏ cả hai bàn chân v́ chưa
quen với sự cọ xát hơi cứng của da giày. Chúng
tôi đă chia tay ngay với món quà của chính ḿnh đi mua sắm
cho ḿnh lần đầu tiên.
Trong giai đoạn thi hành
nghĩa vụ quân sự, chúng tôi cùng được đào
tạo trong một ḷ bộ binh Thủ Đức. Cùng nhau
vào trại nhập ngũ số 1, ngoài đường Đống
Đa, cùng cân đo ở Tổng Y viện Duy Tân, nhưng Tùng
không ngồi C130 vào Tân Sơn Nhất cùng tôi. Anh rất lè phè,
nhẩn nha. Phần thưởng dành cho những “đơn
giản hoá” sự việc của anh là 3 tháng căn bản
quân sự tại quân trường Quang Trung. Tôi chưa biết
mặt mũi trung tâm huấn luyện này như thế nào.Nhưng
nó rất nổi tiếng. Trong thơ, trong nhạc của
nửa nước Việt
Tôi gặp Tùng trong giai đoạn
2 ở Thủ Đức, rồi cùng tốt nghiệp, rủ
nhau về Trung đoàn 4 sư đoàn 2 Bộ Binh, cùng hai bạn
học, cũng là đồng đội khác, Nguyễn Văn
Pháp và Trần Mỹ Lộc. Nếu không có Tùng, Pháp, Lộc,
chắn chắn tôi không về với rừng núi Trà Bồng,
Thiên Ấn. Và biết chừng đâu tôi khỏi phải mất
một bàn chân, hoặc chỉ phải mất một cái mạng,
ai mà biết trước được. Sau ngày 10 tháng 11 năm 1967, Lộc
hy sinh sớm ở Xuân Phổ. Chúng tôi có tiếp một trận
đánh khốc liệt ở gần đồi Lâm Lộc.
Mặt trận này làm đại đội của Tùng “rách
áo” chừng một phần ba. Tùng an toàn, và ngay sau đó, anh được
thuyên chuyển về Trung đoàn Đặc biệt 51, cũng
thuộc binh chủng bộ binh.
Đă mang xác ra chỗ “đạn tránh người, chứ
người không tránh đạn”, Trước sau ǵ ngực
áo cũng nặng “chiến
thương bội tinh” . Tôi sưu tập được
ba cái loại dễ kiếm này. Tùng tệ hơn, anh chỉ
t́m được một cái, nhưng vừa đủ để
được xếp loại 2.
… “
Tùng thân mến,
Tao đang nằm ở bệnh viện I dă chiến
nhận tin mày
không khóc, không than thở
nước mắt có giúp được ǵ chúng ta ?
mày đă đứt gân máu ở bắp đùi trái
đă găy một khúc xương
đă mất một cánh tay
hay một con mắt ?
nhưng chắc vẫn c̣n trái tim
tao cũng vậy.
Này vết thương,
Chúng tôi có lời cảm ơn…”
(Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu)
Bài thơ gởi cho Tùng không
lâu, tôi lại ngă ngựa. Mặt trận Quảng Ngăi mà. Chúng
tôi cùng rời quân ngũ. Cùng làm người lính của Bộ
Cựu Chiến Binh, Nha Hưu Bổng và Sở Cấp Dưỡng
đến suốt đời. Không yên với đồng lương
tùy theo cấp độ tàn phế, chúng tôi trở lại với
nghề chuyên môn của ḿnh. Châu Văn Tùng làm việc tại
Việt Nam Công Thương, một ngân hàng lớn vốn có
từ thời Pháp thuộc. Tôi đi đi về về với
Việt Nam Thương Tín, một ngân hàng trẻ và bề
thế vào bậc nhất thời bấy giờ. Cuộc sống
công chức của cả hai vô cùng ổn định. Lương
của ngành ngân hàng khá cao. Thằng nào cũng vợ con
đề huề. Chị Trương Thị Hinh, vợ của
Tùng cũng làm cùng nhiệm sở với chồng. Anh chị
có với nhau một trai một gái. Không biết nếu
người đẹp, ḍng dơi Trương Công Huynh Đệ,
ngày ngày không cùng một mái sở, th́ bạn tôi đến
bao giờ mới có bạn gái, dù khả năng viếng thăm
những Ngă Ba Chú Ía, hẻm Ḥa Hưng …thời theo học làm
quan ở Thủ Đức của anh không tệ. H́nh ảnh
trong mấy câu lục bát sau đây, trong một dịp, tôi xong
việc, ngồi đợi Tùng hoàn thành tốt nhiệm vụ
cho chính anh:
“hỡi
em G̣ Vấp An Nhơn
chút gia tài cũ méo tṛn ra răng
c̣n khi mô nhớ lăng nhăng
tiếng thẻ bài chạm leng keng cổ chàng
lên chừng mực xuống vội vàng
gừng cay muối mặn đàng hoàng đăi nhau
đang ngang ngửa xáp hiệp đầu”…
(Cẳm Ơn Đất Đá
Trổ Thơ. Ḷng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài)
Sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, chúng
tôi vẫn được gặp nhau ở nhiều điểm.
Chuyện cũ kể hoài cũng chán. Nhưng không kể e bỏ
sót một nhánh thời gian của cuộc đời đă
sống. Tôi khuyên tôi quên đi chuyện tŕnh diện ở sân
chùa Hải Châu, chuyện ngồi lết gỡ ḿn quanh ṿng đai
Quân đoàn I, chuyện khai lư lịch, chuyện “học tập”…
Chỉ xin trích một phần của một bài thơ, có tôi
và có Tùng, bạn tôi trong những ngày đầu bước
vào một đoạn đời mới, dưới một
màu cờ mới:
…
“ mày có nhớ những h́nh ảnh nào đă đến/ ngày
đầu tiên chúng ta đến Đông Phương (tên
một ngân hàng)/ nắng tháng
tư sao vàng úa buồn buồn/ rơi trên áo người
phong trần, lỡ vận/ Chúng ta đó những người
từng tham trận/ không ra hàng mà ngượng ngập bao
nhiêu/ trong hồn ta đựng hết cả buổi chiều/
chúng ta đứng đợi đong từng kư gạo/
đời chó đẻ nên vẫn cần cơm áo/ không
đi xin mà tay đă ngửa ra/ tao bậm môi giữ lại
tiếng khóc ̣a/ bởi tao nhớ vợ con tao đang đợi/
bởi mày cũng vợ con và cơn đói/ sẽ diễn
hành mai mốt có xa đâu/ sát vai nhau, đầu cúi sát bên
đầu/ chúng ta vẫn là chúng ta bằng hữu/ t́nh cảm
đó nuôi chúng ta từng bữa/ dựa vai nhau tập nhẫn
nhục, âu lo/ mong chóng qua, mong chóng hết vai tṛ/ rất hèn
mọn của một đời phù phiếm/
Lư lịch xấu, ba
đời đều thiếu điểm/ c̣n tạm xài
khai thác nghiệp chuyên môn/ qua một ngày giàu thêm một cô
đơn/ sống thường trực cùng âu lo run rẩy/
cây muốn lặng, gió từng giây đưa đẩy/
đời chúng ta rồi trôi nổi ra sao/ mày nổi trôi
cùng kinh rạch đang đào/ tao ở lại ngân hàng cùng
chữ số/ thơ của tao có phải là cuốn sổ/
đoạn trường không, khi mày được gọi
tên/ thương mến mày, tao nghĩ cũng không nên…/
nhưng đâu dễ quên tên mày cho được/ ta đă
viết và đă từng nghĩ trước/ sẽ không sao
v́ tao chẳng in ra/ viết gọi là thay tiếng thở
ra/ ai lỡ đọc hẳn bỏ qua tha thứ/
Sầu một chút cho vơi
dần tư lự/ thương Việt
(tặng
CVT, Hơi Thở Việt
Rất may, Châu Văn Tùng chỉ
đi lao động ở kênh đào Phú Ninh một thời
gian rồi cũng được “điều” về Ngân hàng,
nhưng anh vẫn bị đày một thời gian lên “miền
cao, miền xa” thuộc nhiều chi nhánh. Măi đến khi tôi
gần xuất ngoại anh mới được về làm
việc tại Ty Ngân Khố, nơi một thời ba tôi đă
làm việc. Trong hồ sơ xuất cảnh của tôi có “Giấy
xác nhận không thiếu nợ ngân hàng thuộc chế
độ cũ trong phạm vi tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng”,
do chính Châu Văn Tùng kư ngày
9-10-1984 trong vai tṛ Cán bộ theo dơi thanh lư, bên cạnh vị
kiểm soát và giám đốc ngân hàng, ông Phan Minh
Châu Văn Tùng không có số
xuất ngoại, dù anh có ông anh ở Hoa Kỳ, bà chị định
cư tại
Sau bảy
năm ở xứ người, tôi nhận được
thư hồi âm của Tùng viết ngày 11 tháng 02 năm 1992.
Lời buồn trong nét chữ quen trên ba trang pelure mỏng mảnh, nhẹ
nhơm nhưng nặng đầy kỷ niệm.
Tôi không siêng viết thư
cho Tùng, nhưng trong tập Cỏ Hoa Gối Đầu, tôi
đă dành hai bài, tặng anh. Bài Hai Đoạn Lục Bát Cho
Châu Văn Tùng (trang 71-74) và bài
Phúc Thư Châu Văn Tùng Đà Nẵng như sau:
“Tao
sẽ chưa về thăm mày được/ bởi v́,
giản dị, thiếu tiền thôi/ sáu con bốn chín (một
loại vé số của
đâu phải tao thèm mang áo gấm/ vểnh mày giữa
đói rách bà con/ túi quần, tệ lắm vài trăm bạc/
trả tiền nhậu nhẹt, trả tiền hôn
chẳng lẽ để mày bao tất cả/ như
thời mang súng được hay sao/ dù ǵ tao cũng hai quốc
tịch/ mất mặt Việt kiều, thảm biết
bao
mang tiếng đi cày gần trọn giáp/ về
thăm, xơ xác, nghĩ sao cam/ ngửa tay giữa chợ
c̣n coi được/ ăn chực người thân măi, dị
̣m
cảm ơn mày hứa
lo tất cả/ suy đi, tính lại, thôi, Tùng ơi/ quê
hương, bè bạn trong ḷng cả/
tao ngó ḷng tao, tạm đủ
rồi
nói dóc, nói đùa hay nói láo/ vẫn tin mày hiểu cái tâm
tao/ trái tim c̣n đập, c̣n thương nhớ/ đợi
mươi năm nữa có là bao
năm nay tao mới năm
tư tuổi/ truyền thống ông cha thọ rất cao/ gắng
sống chờ tao lên chín chục/ hồi hương, cụng
chén, tán tào lao
quên mất, nhờ mày thêm một việc/ rao dùm trên
báo mẩu tin vui:/ các em kiều nữ mê Châu cũ/ ta vẫn
c̣n thương nhớ các người ...
(Cỏ Hoa Gối Đầu)
Tôi quên nói: thời đi học
cũng như thời đi lính, Châu Văn Tùng rất hào phóng.
Anh là người luôn luôn chi trả tiền cà phê, thuốc
lá, tiền ăn nhậu, chơi bời cho tôi, mười
lần như một. Đây là sự thật trăm phần
trăm như cái chân lư “sông có
thể cạn, núi có thể ṃn, nhưng tiền Châu tiêu
Tùng trả” là điều đương nhiên. Anh chẳng
nợ ǵ tôi, ngoại trừ một nỗi trắc ẩn,
tội nghiệp và thương cho một thằng bạn
nghèo mà thôi. Rất may, trong đời sống, tôi không biết
ghiền một thứ nào. Cà phê uống cũng được,
đen, đá ǵ cũng xong, nhưng không uống cũng không
sao, không ngáp vặt. Thuốc lá ph́ phà ra khói lỗ mũi, lỗ
miệng ǵ cũng được, nhưng không có cũng chẳng
lạt lưỡi, chảy nước dăi…Ăn nhậu không
nhiều, bia, rượu vừa đủ làm duyên xă giao. Chơi
bời chẳng mấy khi, chỉ gọi là cho biết với
đời. Tùng th́ khác, ngoài ăn nhậu, chơi bời, y
hệt như tôi. Anh ghiền cà phê và thuốc lá ở mức
độ nặng. Anh không khoái thuốc có đầu lọc
như
17 năm lưu lạc, hơn
cô Thúy Kiều của cụ Tiên Điền Nguyễn Du
đến những hai năm, quê nhà Đà Nẵng hiện
ra trước mắt tôi với rất nhiều vẻ lạ.
Nhà cửa đường phố thay đổi, trong khuôn
mặt, vóc dáng nghênh ngang hơn nhiều. Cái “phồn hoa giả tạo” trước 1975
được lặp lại rất kỹ. Những cây cầu
thi nhau bắc qua một đoạn sông, nhiều đến
mức hơi thừa thăi. Rất may, người bạn của
tôi, anh Châu Văn Tùng vẫn trắng trẻo, rất thư
sinh như ngày nào. C̣n tôi đă có thể thay anh trả tiền
vài bữa nhậu, nhưng Châu Văn Tùng vẫn dành cái thú
vị này. Anh đưa tôi đi thăm những thằng bạn
chung như Nguyễn Văn Pháp, Hoàng Oanh, Nguyễn Hữu
Nuối, Đặng Văn Hải…Anh đưa tôi đến
sân chùa Hải Châu, quán Ngọc Anh và nhiều quán cà phê mới
mọc, dĩ nhiên không sót vài quán bia ôm. Chúng tôi chả ôm ai,
chỉ “đi thực tế”
bằng cách ngồi ngó cho biết lấy thảo. Tùng đă
về hưu, nhưng anh vẫn tiếp tục đi làm
cho một ngân hàng tư, đời sống không mấy khó
khăn. Căn nhà của anh vẫn cổ kính như xưa,
dù số nhà đă thay đổi, từ con số 66 lên con số
72. Hai con của anh chị đều đă trưởng thành.
Cô bé đă lập gia đ́nh. Cậu Châu Văn Trung th́ vẫn
c̣n bên lưng bố mẹ, dù đă chọn cho ḿnh một
nhiệm sở để đi đi về về.
Ngồi trong nhà Tùng, đúng
tại chỗ ḿnh vẫn ngồi bao nhiêu năm, một niềm
nhung nhớ đâu đâu cứ đột nhập vào ḷng tôi.
Cây vú sữa ngoài sân đă mất. Nhưng cây mai vẫn c̣n,
tiếc là không phải mùa hoa, để thấy lại những
nụ vàng óng, cao sang. Cái ảng nuôi cá chỉ c̣n một khoảnh
trống, lơ mơ vài chiếc lá vô danh nằm đợi
hóa thân. Bậc thềm, mái hiên, chẳng có ǵ thay đổi.
Cả những con se sẻ vẫn như vậy, dù chúng chắc
chắn chỉ là cháu chít của cái thời dĩ văng xa xưa.
Hồng đă theo chồng. Đào đă có một ngôi nhà riêng
đứng một bên góc sân. Đào vắng nhà. Tôi ngó cánh cửa
khóa trái và ngẫm nghĩ, và tra vấn ḷng ḿnh. Trước
khi Đào về với Trần Mỹ Lộc, người
bạn nhỏ đă quá cố của tôi, đă có lần nào
tôi ao ước được hôn môi Đào một cái ? Có
lẽ là chưa. Tôi vẫn như Tùng, là “anh của đám đàn em nhỏ”. C̣n bác trai ? đâu
rồi sự quở trách: “mấy
cậu bây giờ học Pháp văn sao dở quá…Đưa
cho Châu coi cái này đi Tùng” Cái này là một đoạn ǵ đó
trong Paris Match, tờ báo bác
Chỉ mua dài hạn. C̣n bác gái: “Xuống
ăn cơm luôn con, Châu, hôm nay có món dưa giá con thích…,
Đào ơi, lấy cho anh Châu mi ly nước” Đă từ
bao giờ, tôi vô t́nh được hiểu ngầm là một
thành viên trong gia đ́nh một người bạn ? Tôi ứa
nước mắt đứng trước dăy bàn thờ uy
nghiêm. Lẳng lặng ngước nh́n ba mẹ Tùng qua hai tấm
ảnh thờ. Tôi thắp nhang. Khói chính là những lời
cầu nguyện, thăm hỏi của tôi dâng lên hai bậc
tôi từng kính thương. Tôi dạo mắt quanh pḥng, nhận
bắt, t́m kiếm lại những ǵ c̣n mất. Trí nhớ
của tôi không cùn ṃn lắm. Từng đầu đinh từ
ngày nào vẫn c̣n nằm đấy, nhưng những tấm
lịch vẫn măi thay đổi hằng năm. Mùi mát lạnh
của toàn gian nhà vẫn như xưa. Chỗ Tùng đang nằm
trước khi tôi gơ cửa bước vào, chính là nơi ba
anh đă từng nằm, nơi tôi từng ghé sát đến
bên ông trong giai đoạn ông đă hơi nặng
tai.
Tôi bước ra hành lang, xuống
nhà dưới, mỗi bước chân tôi ấm lại những
h́nh ảnh chưa mờ nhạt. “Tôi đi từ chỗ sẽ về/ tôi về lại
chỗ chưa hề ra đi/ đi, về cũng có
đôi khi/ b́nh thân một chỗ, đă đi, đă về”…(CHGĐ).
Có thể tôi chưa đi đâu thật, dù xa cách nơi này
đến những 17 năm.
Người
bạn tôi bước theo ngay sau lưng. Anh nói: “để hôm nào tao soạn lại
cho mày những tấm ảnh cũ…”. Cảm ơn Tùng
biết bao nhiêu. Chúng ta đă chưa hề cho nhau sự khách
sáo nào. Nhưng lời cảm ơn của tao đây rất
cần nên có, hỡi ông độc giả thứ hai ngày nào
của tao. Tối nay, tao có thể gọi thăm mày, để
xin ư kiến về cuốn Dựa Hơi Bè Bạn tập
1, mà mày vừa nhận cùng cuốn Quá Khứ Trước Mặt,
con tao, Lê Ngọc Quốc Bảo đă mang về cho mày. Tao
tin mày vẫn có nhận xét chân thật như ngày nào. Tùng ơi,
tao bỏ hút thuốc đă lâu, nhưng chợt thèm khói
Luân Hoán
24-10-2006