Những Cuộc Chạm Súng Tiêu Biểu

Cùng Những Giọt Máu Tôi

 

 

 

          Sau cuộc hành quân thứ nhất trong đời binh nghiệp, với tổn thất riêng, một người đồng đội thân t́nh “đi phép dài hạn”, tôi tưởng chừng như mất đến chín mươi phần trăm nghị lực và ư chí chiến đấu. Nhưng rồi tôi đă chế ngự sự sợ hăi, nỗi chán nản để trở lại chỗ đứng hiện tại của ḿnh. Là một sĩ quan có cấp bậc thấp nhất, cận kề trước cái chết không khác ǵ một khinh binh, tôi nh́n thấy, va chạm từng giờ những tai họa của cuộc chiến, nên tôi đă có những nhận xét không tốt đẹp về chiến tranh. Không hẳn là một người phản chiến, nhưng trong suốt chặng đời binh nghiệp ngắn ngủi của ḿnh, tôi đă viết những bài thơ có lẽ không có lợi cho hàng ngũ chúng tôi. Rất may, tài năng của ḿnh c̣n thấp kém, nỗi bi quan nhờ vậy không lây lan đến ai. Và tôi không ân hận về những cảm nhận rất chân thật của ḿnh. Mỗi lần có dịp đọc lại, tôi không những chỉ gặp lại tôi, mà c̣n thấy được những đồng đội cũ, những hoạt cảnh sinh động một thời. Trong cái thời thật khổ nhọc, rực rỡ đó, tôi được là:

 

          anh bây giờ là tên lính mù

          chỉ huy một trung đội điếc

          với chiếc c̣i trên môi

          và hàng trăm câu chửi tục

          ...

          dù c̣n đủ tâm hồn

          anh cũng sẽ đốt nhà

          cũng bắn trâu ḅ, bắt gà vịt

          không hổ ngươi

          như lính của anh

          phải sống

          phải ăn

          phải tàn bạo nữa

          đó là điều cần trong cuộc hành quân

          ...

 

          Kể từ ngày 10 tháng 11 năm 1967, ngày tôi hiện diện trực tiếp ngoài mặt trận, đến ngày 11 tháng 02 năm 1969, ngày tôi vĩnh biệt một bàn chân trái của ḿnh, thời gian không là bao. Những trong cái chiều dài khiêm nhường ấy, tôi đă tham dự rất nhiều cuộc hành quân, từ Quyết Thắng đến Liên Kết, thường trực được tổ chức mỗi tuần. Tùy theo tính chất của từng mục tiêu, tùy theo cấp số đối phương, những cuộc hành quân có mức độ và lực lượng điều động khác nhau. Nhưng mục đích chính vẫn là t́m và tiêu diệt địch. Trong thời điểm 1967 đến 1969 và về sau t́nh h́nh chiến sự tại miền Nam Việt Nam mỗi ngày một khốc liệt hơn. Bộ Binh là chủ lực quân của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Từng được mệnh danh là Hoa Hậu Chiến Trường, nhưng măi đến cuối năm 1967 sự trang bị vũ khí vẫn quá thô sơ, so với địch quân cũng như những lực lượng trừ bị khác của miền Nam. Dù vậy, chúng tôi đă tham chiến dũng cảm, hết tinh thần. Mười trận đánh có thể thắng tám một cách thuyết phục. Trong hàng ngũ của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 4 thuộc Sư đoàn 2 Bộ Binh, tôi đă có mặt tại Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Nghĩa Hành, Nghĩa Hưng, Đức Phụng, Đức Hải, Núi Tṛn, Núi Ngang, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Quảng Tín, Văn Bâng, B́nh Đê, An Mô, Lâm Lộc, Sơn Kim, Phú Sơn... cùng những địa danh không biết tên, không nhớ hết. Mỗi một nơi có nhiều mục tiêu cần phải thanh toán. Mỗi mục tiêu không phải chỉ viếng thăm một lần, mà phải lặp đi lặp lại, đổ máu nhiều lần khác nhau. Những ngọn cây, chồi cỏ, những chơm đất, mô đá ...các nơi này thắm đượm t́nh người nhờ ngấm máu của cả hai phe tham chiến.

      

          Tôi cùng đơn vị tiến chiếm Sơn Kim, một b́nh địa vừa được một đơn vị Đại Hàn bỏ lại. Không c̣n một nóc gia nào đứng vững trên những nền đất ngổn ngang phên, mái tan nát. Không c̣n giếng nước nào có thể sử dụng được. Những anh lính Củ Sâm đă ném xuống đó những độc dược trước khi rút đi. Chúng tôi đă trải qua ba ngày lặn lội chưa gặp dấu đối phương. Những con mồi của chúng tôi thừa khôn khéo và nham hiểm, vẫn đang ẩn núp chực chờ đâu đó, ngay cả dưới mặt đất. Nhưng mục tiêu Sơn Kim hôm ấy suốt nửa ngày vẫn yên tĩnh. Cá nhân tôi thu lượm được một bài Sáu Chữ, “Bữa Cơm Trên Sơn Kim”. Bài thơ này, nhà văn Hoàng Khởi Phong khi viết về thơ tôi có đề cập và trích dẫn. Tôi nhắc lại việc này v́ tác giả Cây Tùng Trước Băo, Quán Ven Sông vv...cho rằng  câu: “và t́m mượn lưỡi dao” tối nghĩa. H́nh ảnh tôi dùng hơi cường điệu, nhưng cần thiết để vẽ đậm nét sự khô đắng của một bữa ăn, cần phải cắt lấy chút máu của ḿnh làm gia vị. Có thể tôi vụng về:

          nắm cơm nhem nhuốc bùn

          chợt vui trên tay đói

          tôi nghĩ đến máu ḿnh

          vị mặn nồng thân thiết

          và t́m mượn lưỡi dao

          (VĐCNTD)

 

          Chúng tôi được lệnh rời Sơn Kim tiến chiếm một ngọn đồi sau khi băng qua một cánh đồng hoang. Rồi từ ngọn đồi, Đại đội 2 của chúng tôi, do Thiếu úy Hảo chỉ huy, xuống đồi tiến về một “xóm mồ côi”. “Con cái” của riêng tôi di chuyển đúng chiến thuật. Cấp số đạn chưa hao hụt. Tôi không bị cảnh sắc chi phối mất cảnh giác. Bởi cuộc hành quân liên kết này không đơn giản như những chuyến lục soát quanh khu vực đồn trú, hoặc những cuộc hành quân thường xuyên vào hai ngày cuối tuần, nhằm mục đích tạo khoảng cách an toàn cho tướng “Tư lệnh” và một số sĩ quan trực thuộc sư đoàn nhảy đầm, uống whisky. Ở cuộc hành quân này tôi không thể nhởn nhơ, “Súng lận lưng quần cho có chuyện, / mắt đầy cỏ lá hồn đầy thơ” (CƠĐĐTT...), mà súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng chiến đấu đàng hoàng. Dù khẩu carbin lỗi thời, tôi chưa thử bóp c̣ lần nào.

          Sau ba ngày thiếu chất tươi, “xóm mồ côi” trước mặt thật là một mục tiêu hấp dẫn đối với mọi binh sĩ. Không con gà, con vịt, ít ra cũng có trái bầu, ngọn rau...tươi xanh đang chờ đợi. Đại đội nào cũng muốn thanh toán mục tiêu này. Đại đội chúng tôi đang dàn hàng ngang để vượt qua một cánh đồng trống cuối cùng, giáp với b́a làng. Nhưng thật không may, lệnh của “đại bàng” bắt nằm lại yểm trợ, cho “thằng 3” của Trung úy Thiện thực thi nhiệm vụ. Có nhiều tiếng chửi thề trong đám “con cái” tôi. Một thoáng ngờ vực vị Tiểu đoàn trưởng trong công việc chia phân nhiệm vụ đến với tôi. Đại đội 3 của Trung úy Thiện, người Nam, h́nh như thường được “đại bàng”, người Nam, dành

cho những miếng thịt nạc, thoáng mát. Trái lại Đại đội 2 của Thiếu úy Hảo, người Trung, thường phải húc đầu vào những cơi âm u, kỳ bí. Tôi chẳng có giờ để suy nghĩ lâu, bởi Đại úy Tiểu đoàn trưởng đă cùng vị Đại úy cố vấn người Mỹ, đến ngay chỗ đám “con cái” tôi bố trí. Ông cùng viên sĩ quan Mỹ dùng ống ḍm để thị sát cái “xóm mồ côi” trước mặt.

          Lúc này Đại đội 3 đă tiến chiếm xong mục tiêu. Ánh nắng khoảng 4 giờ chiều dịu dàng. Lệnh chuẩn bị bữa ăn cuối ngày cũng đă bắt đầu. Giữa lúc hai vị sĩ quan Việt, Mỹ nắm vận mệnh tiểu đoàn, đang cùng nhau trao đổi ư kiến, th́ âm thanh của AK nở rộ từ “xóm mồ côi”. Tôi nằm sát mặt đất, đảo mắt nh́n đám “con cái” trong tư thế sẵn sàng tác chiến, rất vững bụng. Ông “đại bàng” của chúng tôi chợt vỗ cánh. Vị sĩ quan người Mỹ vội chụp lấy một cánh tay ông “đại bàng”, rối rít nói bằng tiếng Việt: “Đừng chạy, đừng chạy...”. Tôi hơi bàng hoàng, nhưng chợt đoán ra ư định của vị Tiểu đoàn trưởng. Có lẽ ông muốn trở về ngay bộ chỉ huy và đại đội vũ khí nặng cùng đại đội 1, lực lượng yểm trợ, đang bố trí phía sau chúng tôi.

          Đạn không ngớt nổ trong “xóm mồ côi”, nhưng không có đường đạn nào qua hướng chúng tôi đang bố trí. Chúng tôi chưa khai hỏa yểm trợ v́ đồng đội và địch quân cùng có mặt trong một mục tiêu. Sau chừng bảy phút chạm súng, chúng tôi thấy nhiều binh sĩ xuất hiện ở b́a xóm. Họ chạy về hướng chúng tôi. Đó là những khinh binh của Đại đội 3 và cả một số cán binh Việt Cộng. Để ngăn ngừa sự lợi dụng của địch nhằm mở rộng mặt trận, chúng tôi được lệnh khai hỏa. Tôi linh động cho binh sĩ bắn xuống mặt ruộng thay v́ trực diện tác xạ. Đám binh sĩ của Đại đội 3 không dám trở về với tiểu đoàn, Việt cộng do đó cũng không dám theo đuôi. Chừng năm phút sau, Đại đội 2, được lệnh xung phong tiến chiếm mục tiêu và cứu bạn. Nhiệm vụ của chúng tôi được thực hiện hoàn hảo. Quân số của địch không đáng kể, nhưng nhờ lợi thế bất ngờ do lối đánh độn thổ, từ ḷng đất chun lên, nên đă gây một số tổn thất đáng kể cho Đại đội 3. Rất may, kế hoạch chờ ban đêm khởi đánh của địch, bất ngờ bị một binh sĩ ta phát hiện nên cuộc chạm súng diễn ra sớm hơn. Một số địch tử trận, một số thoát chạy qua một “xóm mồ côi” kế cận. Chúng tôi không có lệnh truy kích mà phải rút lên một ngọn đồi cách mục tiêu vừa thanh toán không xa.

          Cơn mưa nặng hạt bất chợt đến cùng với cái chạng vạng, bám sát lưng chúng tôi lên đồi. Súng lại nổ vang dội từ một góc trời. Đơn vị bạn của tiểu đoàn chúng tôi chạm địch. Mặt trận này được nh́n nhận rất rộng. T́nh báo đă rất chính xác về sự hiện diện qui mô của địch. Đơn vị chính qui Bắc Việt h́nh như thuộc Sư đoàn 2 Sao Vàng.

          Sau khi ổn định ṿng đai bố trí, tôi ngửi thấy một mùi  ngai ngái khó chịu. Hóa ra trong ba lô của An, người tà lọt của tôi, c̣n cất một con gà, không biết hắn bắt được lúc nào, trong khi xung phong vào “xóm mồ côi”. V́ thời gian không cho phép, An không kịp làm thịt, sẵn nhà cháy, hắn nướng con gà luôn cả lông. Gà chưa chín đă phải zoulou (di chuyển), gặp mưa lớn, lông chưa cháy hết bốc mùi hôi. Đêm hôm đó ba thầy tṛ nhịn đói, nằm bên đồng đội, chờ tác xạ.

 

 

                                            

 

          Vào giờ G ta ra mặt trận

          ngồi trước ca-bin ngủ gật ngủ gà

          một chút nhớ em, một chút nhớ

          cái thằng nào đó giống y ta

 

          xe bỏ “mắt mèo” qua Châu Ổ

          chờn vờn trước mắt bóng ma trơi

          nh́n lâu lại hóa thành đom đóm

          buồn bă bay khan ở cuối trời

 

          ếch nhái ve nhau, loạn thiên hát

          lạnh lùng hơi đất cuộn hơi sương

          che tay ngồi kéo dài hơi thuốc

          nhớ cái...lưng em thật dễ thương

 

          nhét cái bản đồ trong áo giáp

          khẩu colt ngủ mỏi một bên đùi

          câu thơ chợt đến chợt đi mất

          mặt trận từ ta nối tới người

          (CƠĐDTT, LTHBVVBH)

 

          H́nh ảnh nhiều cuộc hành quân tôi tham dự, được lặp lại nhiều lần như mấy đoạn thơ trên. Đó là những cuộc hành quân thường mở ra các mặt trận ở Sơn Tịnh, Sơn Mỹ, Núi Ngang...

hoặc xa hơn, ở nhiều nơi trong địa bàn tỉnh Quảng Tín (thuộc Quảng Nam).

          Sơn Tịnh là một huyện của tỉnh Quảng Ngăi, gồm một thị trấn và nhiều xă, trên một mặt bằng chừng 321 cây số vuông, với g̣, đồi ở phía tây, và cồn cát phía đông. Ngày tôi đến Sơn Tịnh lần đầu tiên trong mùa mưa. Không có cuộc chạm súng nào trong cuộc hành quân hôm đó. Nhưng cái lạnh trên ngọn đồi chúng tôi dừng quân, đă mang lại cho tôi cơn bệnh cảm lạnh đầu tiên tại Quảng Ngăi. Tôi c̣n trở lại với Sơn Tịnh nhiều lần trong các cuộc hành quân về sau, nhưng con đất lành này không gây cho tôi một thương tích nào. Tiếc rằng không có duyên gặp một đôi mắt nào để nhớ nhung

          nửa đêm qua thành phố

          nhà cửa ngủ, rập ŕnh

          xe chạy về Sơn Tịnh

          không lạnh mà rùng ḿnh

          (CƠĐĐTT,LTHBVVBH)

 

          Sơn Mỹ nằm trong huyện Sơn Tịnh, tôi cũng từng đặt chân  tới vạt đất cách thị xă Quảng Ngăi chừng 13 cây số về hướng đông bắc này. Dĩ nhiên những lần hiện diện của tôi cũng không để viếng thăm và cũng không hề bắn phá. Bởi làng xóm này c̣n rất an ninh, ruộng đồng xanh tốt, cây lá tươi mượt, dân cư khá đông so với những nơi khác. Không hiểu v́ cái chết của một người bạn hay v́ tính cuồng sát, trung úy William Calley thuộc Lữ đoàn 11 Hoa Kỳ, đă tạo ở nơi này một vụ thảm sát rất dă man vào ngày 16 tháng 3 năm 1968.

 

                                               

 

          Núi Ngang, là tên gọi thời chúng tôi thường hành quân, không rơ núi này c̣n tên gọi nào khác không. Từ quốc lộ 1, nơi đoàn xe GMC đổ quân, nh́n vào, ngọn núi có h́nh dáng nằm ngang, gần song song với quốc lộ. Ngoài đôi lần đuổi hươu, đuổi vượn trên sườn núi, chúng tôi thường tảo thanh các cḥi nhà ở sát chân núi. Khoảng cách giữa điểm xuất phát đến những vùng ghi đỏ trên bản đồ hành quân khá xa và trống trải, nên chúng tôi thường phải khởi hành từ nửa đêm hoặc 3, 4 giờ sáng. Một lần sau khi vào đến mục tiêu, trung đội tôi có nhiệm vụ mở đầu cuộc lục soát. Khi tạm dừng quân, tôi vào một nhà dân, gặp một người đàn bà trạc tuổi 40 và hai đứa nhỏ. Người đàn bà tỏ ra rất b́nh tĩnh, nhưng tôi vẫn đọc thấy nỗi lo lắng trong đôi mắt bà. Tôi đi một ṿng quanh nhà, dừng một phút trước một cái bàn thờ đầy bụi bặm. Bất cứ nhà dân nào ở những vùng chúng tôi hành quân, dù nghèo đến đâu cũng dành một nơi để thờ phụng. Và nếu hỏi thăm về người đàn ông trong gia đ́nh, đều được trả lời họ đă quá văng. Hôm đó tôi cũng có hỏi và được đáp như vậy. Nhưng khi tôi bước trở ra, rất t́nh cờ tôi bắt gặp một cuốn vở học tṛ, gấp làm đôi, dắt trên đầu cửa. Tôi lấy cuốn vở bỏ gọn vào túi quần trên ống chân tôi, trước sự bối rối của người đàn bà. Sau khi đi một ṿng chu vi căn nhà, tôi mở vở đọc. Những trang giấy học tṛ ghi rơ ràng danh sách những người quyên đóng một số tiền cho một công tác, được điều động bởi những người chống đối chế độ Quốc gia. Căn cứ ḍng cuối cùng ghi rơ ngày tháng, tôi biết sự việc thu góp mới vừa cách qua đêm. Dĩ nhiên ở vùng nào phải thờ thổ địa vùng đó, tôi hoàn toàn thông cảm. Mười lăm, hai mươi phút sau, tôi được lệnh tiến thêm, lục soát tiếp xóm nhà khác. Trước khi đi tôi đưa trả cuốn vở cho người đàn bà và không quên căn dặn nên cất giữ cho cẩn thận. Chỉ chừng mười phút sau, tôi thấy khói, rồi lửa bốc lên từ căn nhà tôi vừa dời chân. Chẳng cách xa bao nhiêu, nên tôi quay trở lại xem nguyên nhân. Hóa ra Trung đội 1 của Lập t́m thấy cuốn vở tôi vừa giao lại và phóng hỏa. Tôi bất lực đứng nh́n người đàn bà hốt hoảng, lăng xăng chữa cháy một cách tuyệt vọng. Hai chị em con bé, không giúp mẹ chúng được ǵ. Con chị đặt hai tay lên hai vai em. Cả hai cùng đứng nh́n lửa cháy thật b́nh thản. Tôi tiến lại gần chúng, nhỏ nhẹ hỏi.

          - Các em có biết ǵ không ?

Con chị thản nhiên nói hai chữ “nhà cháy”, mắt nó không rời ngọn lửa, không biểu hiện một xúc cảm nào. Chúng c̣n quá bé. Tôi bần thần trở về trung đội của ḿnh, tự trách phải chi đừng trả lại cuốn vở cho người đàn bà vùng xôi đậu kia. Cuộc hành quân lần đó của chúng tôi không thu được một chiến lợi phẩm nào, cũng không tổn thất. Riêng tôi thỉnh thoảng vẫn như thấy ngọn lửa ngày hôm ấy, cùng đôi mắt và giọng nói vô tư của con bé xa lạ, ở sát một chân núi.

 

          Một trong những cuộc hành quân trên vùng đất Quảng Tín, tôi c̣n nhớ là cuộc hành quân Liên Kết. Đây là một cuộc hành quân có qui mô lớn với sự tham chiến của nhiều đơn vị. Trung đoàn 4 Bộ Binh, Chi đoàn ba, Chi đoàn 4 Thiết Giáp và một biệt đội trừ bị Biệt Động Quân. Trong cuộc hành quân này, tôi có hai người bạn học cũ, thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Lê Văn Nghĩa, Chi đoàn trưởng Chi đoàn 4 Thiết giáp và Phan Quảng Chi đoàn trưởng Chi đoàn 3 Thiết giáp. Chúng tôi gặp nhau ngoài mặt trận, cũng rất t́nh cờ. Với Phan Quảng, địa thế của vùng hành quân khá quen thuộc, nên bất ngờ găp tôi, hắn đùa:

          - Nếu có chạy, mày nhớ chạy ra hướng này, tao sẽ bốc.

Tôi cũng không quên ba lơn:

          - Tao sẽ chẳng bao giờ đi Tam Quan đâu, mày yên tâm. Có cần tao tặng một bài thơ thay lá bùa để dán lên xe của mày không ?

          Chúng tôi vui vẻ chia tay, trong cuộc gặp mặt chớp nhoáng bên b́a rừng. (Tam Quan là vùng trồng nhiều dừa, thuộc B́nh Định. Hai chữ Tam Quan dùng để nói lóng, rất thông dụng trong binh sĩ vùng I chiến thuật, có nghĩa là tháo chạy chỉ mang được một cái “đầu máu” như cái gáo dừa).

          Ngay sau đó, một chiếc trực thăng chở đến cho chúng tôi một viên hồi chánh. Cuộc hành quân này được tổ chức để tiếp thu một kho súng đạn lớn Việt Cộng cất giấu trên một đoạn núi  thuộc dăy Trường Sơn. Rất xui, trung đội tôi bị chỉ định áp dẫn người hồi chánh cấp cao, mở đường đến mục tiêu. Tôi cẩn thận cho một khinh binh đi trước người hồi chánh, và sau lưng ông ta, chúng tôi di chuyển hàng một trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Viên hồi chánh dẫn chúng tôi qua một số cơ sở của Việt Cộng, khéo léo xây dựng trên sườn núi. Ngoài những địa điểm quan sát, ụ chiến đấu, tôi c̣n mục kích một căn cứ học tập được đào sâu dưới đất có mái che bằng lá, ngụy trang rất tinh vi. Một số bàn ghế thô sơ được đặt trên một sàn cây. Sàn được h́nh thành bởi nhiều thân cây rắn chắc, suôn thẳng, ghép sát lại với nhau. Sàn cây này được treo tḥng dưới ḷng hầm đất lớn, có bắc thang để lên xuống. Khi đi qua vài “kiến trúc” như thế, tôi cảm thấy yên tâm, bớt sợ bị lừa, đồng thời cũng nghĩ ra một câu vè, rủa thầm trong bụng. Thằng cha này quả thật là thứ: “ăn cơm Cộng sản, bỏ đảng thờ Quốc gia”.

          Leo núi không phải chuyện dễ dàng với ba lô súng đạn cồng kềnh. Nhưng cuối cùng cũng đến. Viên hồi chánh chỉ một đường luồn nhỏ để lên điểm cao cuối cùng. Kho súng đạn được cất giấu trên đó. Một linh tính chẳng lành đến với tôi, khi nhận thấy đường luồn này chỉ có thể ḅ lên, không đi khom người được. Thay v́ cả trung đội leo hàng một theo ông ta như đă đi. Tôi chỉ cho hai khinh binh, để lại ba lô cho đồng đội, một ḅ trước ông ta, một ḅ ngay phía sau. Số binh sĩ c̣n lại, tôi cho bố trí, chĩa họng súng ra chung quanh điểm đứng của chúng tôi. Tiên liệu của tôi thật chính xác. Người khinh binh thứ nhất ḅ vừa khỏi mút đường luồn, chưa kịp đứng thẳng người, đă bị viên hồi chánh phía sau, xô té nhào. Ông ta bỏ chạy, người khinh binh phía sau, chưa thẳng lưng đă nổ súng về hướng chạy của tên Việt Cộng, nhưng không c̣n kịp. Rừng núi đă dung nạp ông ta. Tôi lập tức cho khai hỏa để yểm trợ hai binh sĩ của ḿnh trở về. Sau đó tôi ra lệnh tác xạ đều bốn phía dù không thấy bóng địch quân nào. Vừa bắn chúng tôi vừa vội vă xuống núi, không cần xin lệnh của thẩm quyền tôi. Khi bắt gặp lại đại đội, chúng tôi được tiếp tục xuống vị trí an toàn hơn. Cao điểm bao giờ cũng lợi thế, nhưng không hiểu sao buổi chiều hôm ấy và suốt đêm kế tiếp, Việt Cộng im re, không một tiếng AK nào trả lễ.

 

 

          Rạng sáng ngày hôm sau, một tiểu đoàn khác thay chúng tôi lên núi lục soát. Chúng tôi nằm bố trí chờ tiếp viện sát b́a rừng. Cuộc chạm súng ác liệt đă thực sự bắt đầu vào lúc xế chiều. Cho đến chạng vạng súng không ngớt nổ, đồng đội thay chúng tôi cũng trở thành lực lượng cầm chân địch, chờ đơn vị Biệt Động Quân thanh toán chiến trường. Những anh hùng mang đầu cọp làm tắt tiếng AK nhưng kho súng đạn hoàn toàn vô căn cứ. “Đồng chí hồi chánh viên” thật giả chẳng biết về đâu. 

 

                                                

 

          Mặt trận phía tây thị xă Quảng Ngăi, tôi khó quên nằm trên cao điểm Sơn Hà. Đi lùng giặc trong rừng núi trùng trùng điệp điệp cây lá âm u thật nguy hiểm, nhưng cũng rất thú vị. Tiếng suối, tiếng chim, tiếng cây lá và hàng trăm thứ tiếng lạ tai khác tạo thành một thứ âm thanh của núi rừng thật kỳ bí, vừa quyến rũ, vừa nham hiểm. Len lỏi qua từng gốc cây, tảng đá, tôi có cảm tưởng như được trở về với đất trời Tiên Phước thuở nào. Tôi mong nh́n thấy một con mang, một con nai hay một con chồn vớ vẩn nào đi lạc. Nhưng tuyệt nhiên không gặp. Đang vừa đi vừa suy nghĩ, hồi tưởng, tôi chợt nghe tiếng suối thân mật vỗ vào vách đá thật gần, ngay trước hướng tiến quân của chúng tôi. Không chậm chân, tôi vượt qua người khinh binh đi dầu. Chẳng mấy chốc, tôi phát hiện ḍng suối phía dưới chân núi. Một thoáng bàng hoàng khi tôi nh́n thấy ba người lính đang b́nh yên đứng rửa chân. Đơn vị nào đến trước chúng tôi, khi chính chúng tôi có nhiệm vụ mở đường ? Trong hồi hộp, tôi quan sát kỹ, và giật ḿnh khi thấy một trong ba người có choàng trên vai một tấm vải màu hoa dù. Tôi lập tức báo cáo lên Đại đội trưởng. Chúng tôi được lệnh dừng tại chỗ, tiếp tục quan sát. Ba anh lính “cụ Hồ” không hề hay biết sự hiện diện của chúng tôi. Họ rời ḍng suối, từ từ từng người một, đi về hướng một mái cḥi nằm trên một vạt đất trống, cách sườn núi không xa. Giữa núi rừng, đất trời vắng lặng, tôi nh́n theo dáng đi từng người, tự dưng cảm thấy thương xót vớ vẩn. Trời đất buồn bă quá. Rừng núi thê lương quá. Sao họ có thể lạc lơng ở nơi thâm u này. Họ là người miền nào của đất nước, lưu lạc đến đây đă bao lâu. “Sinh bắc tử nam” có đúng là mục đích chính của mỗi cá nhân tự do chọn lựa. Thú thật lúc bấy giờ, tôi c̣n rất mù mờ về Cộng sản. Sự độc tài, đảng trị có thể có thật như một số sách báo tôi đă đọc. Nhưng chủ trương đánh đuổi ngoại xâm, thật hay giả của họ cũng rất đáng suy ngẫm. Đang miên man suy nghĩ linh tinh, tôi được lệnh, chuẩn bị tiếp tay với một nhóm binh sĩ của Chuẩn úy Bảy, đang kín đáo ḅ về hướng mái cḥi. Không hiểu những cán binh Việt Cộng làm ǵ trong thời khắc ấy. Họ hoàn toàn mất cảnh giác giữa địa bàn hoạt động của họ. Tự tin hay thiu thiu ngủ để đến nổi sau một tiếng lựu đạn vang trời, kéo theo những tiếng AR 15, chỉ có một dáng người nhào ra khỏi cḥi, một đoạn ngắn. Tôi và binh sĩ của tôi chạy băng xuống sườn núi. Chỉ với khẩu colt trên tay, tôi chạy thật nhanh. Khi đă đến chỗ người cán binh ngă nằm, không hiểu sao, tôi đá anh ta một cái rơ mạnh. Cú đá làm chính tôi giật ḿnh, ngó lại. Hóa ra anh ta chưa chết. Điều kỳ lạ hơn, anh không bị dính một vết thương nào. Ân hận v́ cái đá, có lẽ vậy, tôi hỏi anh ta đau ở đâu. Anh chỉ rên mà không trả lời. Tiếng rên thật xót ḷng. Những người lính của tôi xúm lại. Tôi bảo một người lật anh ta qua lại, t́m vết thương, hoàn toàn không có. Nhưng rơ ràng anh kiệt sức. Tôi đề nghị thẩm quyền bắt anh theo. Lời đề nghị được chấp thuận. Nhưng người cán binh chưa đến mười tám tuổi này ĺ lợm nằm rên. Tôi cho hai người lính khiêng, anh ta tŕ lại. Dằng co kéo dài đến mấy phút. Đại úy tiểu đoàn trưởng quan sát bằng ống ḍm, bực ḿnh chửi tôi qua ống liên hợp. Ông ra lệnh bắn bỏ và tức khắc lên núi. Tôi thi hành nửa khẩu lệnh của ông: lập tức trở lên núi . Những binh sĩ của tôi cũng rất nhân đạo. Một tràng AR 15 xoáy trực tiếp xuống mặt đất cho ông tiểu đoàn trưởng yên tâm. Tiếng rên của người cán binh nhỏ dần, đồng đội của anh có tất cả 4 người đều đă bỏ mạng. Anh sẽ về đâu khi chúng tôi tiếp tục cuộc hành quân. Đây không phải lần đầu tiên tôi tha quân địch. Hồi vào An Mô Đức Hải, chúng tôi tóm được đến ba chàng du kích. Tôi không báo cho đại đội trưởng và thả họ đi khi chúng tôi di chuyển. Trong chuyến quay trở về, ngang qua An Mô, chúng tôi nhận được nhiều tràng đạn, rất may không ai “rách áo” hoặc “đi phép”. Ai đă bắn chúng tôi, ngoài ba người du kích tôi đă thả ? V́ mạng sống của chính ḿnh, của đồng đội, tôi tự nhủ không nên ba lơn, lớ ngớ ngoài mặt trận. Nhưng quả thật tôi chưa hề bắn một ai. Nhiều lần tôi tự hỏi ḿnh đă là kẻ sát nhân chưa ? Có thể lắm, những lần gọi pháo binh dọn trước một chỗ sẽ đến, hay làm ấm một ổ nằm, đă chắc ǵ  không có ai tổn thương bỏ mạng?

 

                                                 

 

          Vùng đất Tư Nghĩa, nơi sản sinh cảnh sắc Thiên Bút Phê Vân, không xa thị xă Quảng Ngăi bao nhiêu, nhưng không thiếu bóng dáng những người tự cho ḿnh cái bổn phận “giải phóng miền Nam’, dù miền tự do này không có ǵ cần giải phóng. Đă có hơi thở của “mặt trận” là cần có những cuộc hành quân tảo thanh, b́nh định. Tôi có mặt trong vài lần hành quân lục soát ở khu vực này. Thật ra chẳng có ǵ đáng nhắc nếu không có một bữa kích đêm, suưt phạm tội.

          Đêm hôm đó trung đội chúng tôi có nhiệm vụ nằm tại một trong những xóm nhà dân để giăng một mẻ lưới, bắt vài con cá nhỏ theo tin t́nh báo. Các xóm nhà dân lụp xụp thường qui tụ năm ba cái lại với nhau một cụm. V́ tính chất một cuộc kích đêm, với quân số ít, điểm nằm nên linh động thay đổi. Trước 4 giờ chiều tôi đă chọn điểm nằm chính, nhưng hơn 6 giờ chúng tôi vẫn lởn vởn ở một điểm phụ. Phần lớn dân trong xóm đều có thân nhân hoạt động cho địch. Đêm tối là thời điểm thuận lợi cho họ trở về sum họp với nhau. Khi có chúng tôi, những chủ nhà thường t́m cách kín đáo thắp lên một ngọn đèn nhỏ trong giây lát để báo hiệu cho người thân của ḿnh đừng xuất hiện.

          Sau khi bố trí binh sĩ nằm quanh một khu vườn hẹp, tôi theo người lính đàn em vào nơi nghỉ đêm, qua sự sắp xếp trước của cậu ta. Căn nhà quá hẹp, ngoài bộ bàn để sát cửa ra vào, chỗ c̣n lại chỉ đủ cho hai cái chơng tre, đặt song song và cách nhau vừa một cánh tay vói. Hiện diện trong nhà chỉ hai chị em. Cô chị chưa tới 30. Cô em nhỏ hơn ít tuổi. Trong ánh sáng lờ mờ, tôi không nh́n rơ nhan sắc của hai người con gái. Nhưng ánh mắt của cô em chợt giúp tôi nh́n ra một sự chờ đợi rất lăng mạn.

          Tôi nằm trằn trọc không chợp mắt sớm được như thói quen. Mùi da thịt đàn bà cứ ngấm vào thân thể tôi không những bằng mũi mà c̣n qua nhiều cơ quan khác. Lâu ngày xa vợ cứ làm tôi thao thức lưỡng lự. Tôi biết rơ cô chị nằm mé ngoài chơng tre. Mặt mày cô này rơ ràng nghiêm nghị, không nên đụng vào. Cô em với đôi mắt và nụ cười mỉm vừa qua như hẹn ḥ là cả một cơ hội. Tôi suy tính và phát hiện cả hai cô đều c̣n thức. Nhất là cô chị có vẻ bồn chồn. Tôi có thể đoán biết nỗi bận tâm của cô, nên thử tạo cơ hội.

          - H́nh như có tiếng động ǵ lạ dưới bếp, cô nào có thể xuống thử coi.

          Tôi nói trổng trong bóng tối. Cô chị chỉ chờ có vậy, lật đật ṃ xuống bếp. Không bỏ lỡ thời cơ, tôi vói tay qua. Rất bất ngờ, cô em đă lăn sẵn ra mé ngoài. Khi chạm tay tôi, cô nắm lấy và cho tay tôi luồn ngay vào áo. Cặp nhũ hoa của cô bé thật săn chắc, tôi xoa nắn nhẹ nhàng vài ṿng rồi rút tay về với ư định t́m đến mục tiêu chính. Cũng rất bất ngờ, cô bé quyết liệt đẩy ra. Nhưng cô tiếp tục cho tay tôi lên cặp nhũ hoa. Thật t́nh, đây là lần đầu tiên, tôi có những hành động sàm sỡ bất chính, nhưng không dẹp được những lo sợ của ḿnh, nhờ vậy mọi háo hức của tôi lắng dịu mau lẹ. Tôi thử cố gắng vươn đến mục tiêu chính vài lần nữa nhưng cô gái vẫn tŕ kéo, giữ tay tôi cho tự do trên vú của ḿnh. Cô chị đă thắp vội ngọn đèn trong giây lát rồi lặng lẽ trở lên. Tôi hoàn hồn nằm trở xuống. Đêm thanh vắng đắp kín tôi bằng một màn đen tối dày đặc. Tôi tự xấu hổ với chính ḿnh, nhưng không bớt băn khoăn. Rơ ràng cô gái có sự kích thích ham muốn. Hai vú cô săn cứng nhưng sao lại từ chối một bàn tay đặt vào vị trí trọng yếu như vậy. Tôi đồ chừng cô trong giai đoạn treo cờ đỏ hoặc là một ngọn đồi trọc, đúng như lời nhiều người nói về một số cô gái. Giả thuyết đầu có lẽ hợp lư hơn. Cứ nằm lư giải vu vơ như vậy, tôi thiếp vào giấc ngủ. Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, không nh́n lại hai cô gái lần nào nữa.

 

 

                                                

 

          Rừng Lăng nằm gần doanh trại bộ chỉ huy Trung 4 Bộ Binh của trung tá Nguyễn Văn Lăm, người miền Nam. Một trận đánh rất khốc liệt đă diễn ra trong ṿng đai thường xuyên tảo thanh, lục soát của các tiểu đoàn 1, 2, 3, 4, khi thay nhau về nằm ứng chiến. Cũng nhờ cuộc chạm súng này, tôi xác định được, việc xích chân xạ thủ bên ổ súng, để chiến đấu đến cùng của Cộng quân là có thật. Không phải chỉ là tin đồn miệng. Nhưng tôi sẽ không nhắc lại diễn tiến trận đánh, bởi riêng tôi, không lượm lại được một kỷ niệm đáng quí nào. Nhớ lại Rừng Lăng, nhắc đến bộ chỉ huy Trung đoàn 4  chỉ để hồi tưởng cái lần tôi phải đổ máu đầu tiên.

 

          Chúng tôi được lệnh cắm trại trăm phần trăm để chuẩn bị một cuộc hành quân. Tiểu đoàn 1 của chúng tôi do Đại úy Cẩn chỉ huy, hiện đang được nằm ứng chiến cho trung đoàn. Doanh trại dă chiến của chúng tôi nằm ngay sau lưng doanh trại trung đoàn. Với vài ṿng rào kẽm gai lỏng lẻo, hờ hững, doanh trại này quả thật rất dễ bị xóa bỏ, nếu có cuộc tấn công.  Từ buổi trưa đoàn xe GMC mười mấy chiếc đă vào sân doanh trại. Nhưng chúng tôi chưa được lệnh xuất phát. Kế hoạch hành quân h́nh như có sự thay đổi. Đoàn xe ra về không mang theo một anh lính bộ binh nào. Nhưng lệnh cắm trại vẫn được duy tŕ.

          Mỗi một lần trước khi hành quân, lệnh bảo mật được dặn kỹ, nhưng thật khó thực hiện. Khi có lệnh cắm trại, binh sĩ đương nhiên biết sắp có hành quân. Họ thường lăng xăng lo nhiều việc lỉnh kỉnh và không ít người ra khu gia binh tạm bợ ngay bên ngoài ṿng đai doanh trại. T́nh báo địch do đó sẽ nắm chắc được đơn vị có tham dự hành quân hay không. Thậm chí c̣n có thể biết được những nơi quân Quốc gia sẽ viếng.  Riêng tôi trước mỗi cuộc hành quân thường có ít phút buồn buồn. “Xanh cỏ đỏ ngực”, “Sống lâu lên lăo làng” là những câu thường được nghe binh sĩ truyền miệng. Với tôi, những mục tiêu trên không mấy quan trọng. Từ nhỏ tôi đă không có cảm t́nh với bói toán, nhưng tôi lại rất tin ḿnh sẽ có một số tuổi đời đáng kể, sau nhiều lần thoát chết trong gang tấc. Tôi vẫn thường nhớ lại những tai họa ḿnh đă vượt qua. Một lần ngộ độc v́ bánh xèo, may nhà gần bệnh viện, súc ruột kịp thời. Một lần, ngày đoan ngọ, về quê ăn mùng Năm cùng anh chín Hiển, xe đ̣ bị lật sát bên đầu cầu Đỏ. Hơn 15 người bỏ mạng. Anh tôi phải nằm viện hơn 3 tháng. Phần tôi, với vết thương ngay trên đầu, vẫn c̣n được đóng dấu chứng nhận hẳn hoi bằng một cục sẹo tṛn tṛn. Gần đây nhất, trái ḿn ba râu (loại ḿn rất mạnh) bên một con lạch ở Đức Hải, x́ khói mờ mịt dưới một bàn chân tôi nhưng không chịu nổ. Ông địa của vùng giàu ḿn, lựu đạn này đă không mỉm cười với tôi. Chân thành đa tạ. ...”Nhà thơ mà vác súng đi lơ ngơ vào vùng sấm sét, e rằng không khá được” Đây là nhận xét của nhà văn Lâm Chương. Đồng t́nh với ư nghĩ này, ông bạn tôi, Lê Vĩnh Thọ, một nhà thơ phản chiến, vẫn đinh ninh chuyện tôi sẽ tử trận là điều chắc như đinh đóng, không thể tránh được. Anh nảy ra cái ư viết đưa đám tôi bằng một bài thơ, để tôi có dịp đọc trước khi thực sự vĩnh biệt sân chơi thế gian. Bài thơ quá dài, đến 222 câu,  tôi xin phép trích ghi tiêu biểu:

 

          mày đă chết

          hỡi Thiếu úy Lê Ngọc Châu

          hỡi Luân Hoán

          mày đă ngă xuống

          mày đă anh dũng đền nợ nước

          người ta nói thế

          tao cũng tin thế chăng

          anh dũng đền nợ nước

          tổ quốc ghi ơn

          nhưng vợ mày chắc oán

          vợ mày với đứa con trong bụng

          đứa con sắp ra đời, mùa xuân sắp tới

          ...

          và đứa con sắp ra đời không có cha bên cạnh

          măi măi không có cha

          có cần xin lỗi gia đ́nh mày

          có cần xin lỗi vợ mày

          ôi người vợ rất hiền rất trẻ rất ngây thơ bẽn lẽn

          tuổi vợ mày chưa bằng tuổi chiến tranh

          người vợ mày thường gọi tên trong những bài thơ

          dĩ nhiên không phải thơ t́nh

          ...

          được tin mày chết

          tao chẳng ngạc nhiên

          việc phải đến đă đến

          cần ǵ phải tiên tri

          trong thâm tao vẫn đợi

          ḥa b́nh ơi hăy đến

          trước khi mày ra đi

          sớm muộn ǵ cũng chết

          trở về có mấy khi

          không khóc bằng nước mắt

          khóc mày một bài thơ

          có thể tao tàn ác

          khi tin mày sẽ chết

          trong cuộc chiến hôm nay

          ...

          hỡi Luân Hoán

          tao đâu muốn đùa dai

          tao đâu muốn tàn ác

          tao tưởng tượng mày đă chết

          mày c̣n sống khác chi

          ...

          thương mày tôi c̣n  nỗi niềm tin

          trái tim mày bất diệt

          trái tim sẽ kết tinh

          mà nước mắt vợ hiền

          mà nước mắt bạn thân

          không làm tan thành nước

          chỉ có giọt lệ thơ

          và giọt lệ quê hương

          mới làm mày xúc động

          hỡi Luân Hoán

          tao đă khóc mày khá dài

          mày có khôn thiêng về đọc bài thơ này

          ô hô

          (Lê Vĩnh Thọ, 21-01-1969 trích NHCBCT)

 

         Không rơ bài thơ chân t́nh của Thọ có là một nỗi ám ảnh ? Buồn buồn là chuyện có thật trước mỗi cuộc hành quân tôi tham dự. Hôm đó cũng vậy. Nằm bên cạnh một người lính gác, tôi vẩn vơ nhớ đến vợ, đến cha, đến em trai, đến bè bạn rồi ngủ quên. Khi tôi thức dậy, trời tối như mực. Tôi lên tiếng hỏi

          - Đứa nào gác đó ?

          - Dạ em, thẩm quyền.

Người lính không xưng tên, nhưng tôi đă biết. Che tay bấm đèn pin, tôi lần ṃ đi thăm ṿng đai một lần. Mặt trung đội tôi bố trí hướng ra một vạt đất trống ngay sau lưng trung đoàn. Trời có sương lạnh lạnh. Tôi vẫn mặc áo giáp thay áo ấm, ngay khi ngủ. Tôi dặn ḍ người lính gác cẩn thận, đồng thời cũng bày tỏ cái linh tính khác thường của ḿnh. Tôi tin đêm nay sẽ có xảy ra một chuyện ǵ đó. Tôi nằm trở xuống. Nhưng đầu chưa kịp chạm đất, tôi đă giật ḿnh ngồi dựng dậy, v́ một tiếng nổ của trái hỏa châu, từ vọng gác bên trung đoàn bắn lên trời. Tôi lầu bầu chửi thề, chẳng thèm ngó quanh, khi ánh sáng đủ để quan sát. Đêm thanh vắng tịch mịch trở lại. Biết không c̣n ngủ được tôi lim dim làm thơ trong đầu. Cả trăm đoạn thơ con cóc như sau đă được tượng h́nh từ nhiều lần thức, ngủ lơ mơ như thế:


          yêu em yêu biết mấy

          biết cất giữ chỗ nào

          mang theo với súng đạn

          với mấy ngày lương khô

 

          giữa trời ngồi ỉa vất

          lên ngọn cỏ Thu Xà

          trên tay cầm khẩu súng

          chĩa mũi gờm bóng ma

 

          đêm choàng hơi đá núi

          sương ướt đẫm poncho

          chợp mắt mơ chăn gối

          ọc sữa tự bao giờ

 

          ba năm đeo lủng lẳng

          một khẩu colt 45

          khóa an toàn mở sẵn

          viên đạn vẫn trong ḷng....

 

          Thơ thẩn là chuyện không cùng với tôi. Đáng tiếc thay đêm hôm đó...Tiếng hỏa châu thứ hai kéo theo tiếng la lớn của người lính gác, ngay dưới chân tôi: Việt Cộng. Trong tí tắc những tràng đạn AR15 thi nhau nổ. Tưởng chừng như đă hẹn ḥ trước, những quả đạn súng cối từ đơn vị pháo binh, ào ào chụp xuống ngay sát bên ngoài ṿng đai an toàn của chúng tôi. Trời sáng rực rỡ. Tôi đă có mặt hàng ngang với binh sĩ. Bên tôi là Tám, mang máy truyền tin và An, người lính đàn em. Tôi không thấy một bóng giặc nào, ngoài những đường đạn bắn ra. Cũng không có đường đạn nào của địch quân. Cuộc tác xạ một chiều như một cuộc chơi, h́nh như ai cũng b́nh tĩnh bóp c̣ cho thoả thích. Năm bảy phút văi đạn qua nhanh. Những trái hỏa châu nối đuôi nhau treo lưng lửng giữa trời những ngọn đèn sáng rực. Tôi cầm ống liên hợp, nhận lệnh từ Đại đội trưởng. Truy kích địch, đương nhiên. Sau tiếng hô xung phong của tôi. Binh sĩ vừa bắn vừa nhào ra. Tôi cầm khẩu colt vượt hàng ngang với lính. Một rồi hai rồi ba rồi bốn...tên Việt Cộng vùng dậy chạy. Hóa ra những tên đặc công có nhiệm vụ đi trước cắt bỏ dây rào thép, chướng ngại vật đă nằm trong ṿng an toàn của chúng tôi, nên đạn pháo binh không làm họ sứt mẻ. Đạn tránh người, người không tránh đạn có thể là như vậy. Một tên nữa vùng đứng lên chỉ cách tôi mươi bước. Thằng An dương súng, tôi hô lớn “Đừng bắn!”. Liền đó tôi nghe như ai đấm mạnh vào ngực trái của ḿnh. Tôi ngă vật xuống, lơ mơ bên tai một tiếng nổ lớn. Tôi b́nh tĩnh lại nhanh chóng trong tiếng đạn không ngớt nổ chung quanh. Đưa tay ḷn vào ngực áo, tôi ṃ t́m vết thương, không thấy. Đẩy sâu bàn tay ra sau lưng, tôi cảm nhận cái ươn ướt...Tôi ḅ vào chỗ nằm cũ. Trái lựu đạn Việt Nam từ tay người tôi không cho lính bắn đă trả ơn tôi bằng một hành động thiết thực khi tham chiến. Không giết người, người giết ḿnh. Không nên có sự nương tay, khi hai bên cùng sử dụng vũ khí. Những người đặc công đêm ấy, không có súng, Họ chỉ có lựu đạn, có lẽ để tự sát hơn dùng trong việc cận chiến. Tôi được đưa về bệnh viện Dă Chiến Quảng Ngăi. Cảm ơn Sương Sông Vệ đă ghé thăm.

 

                                    

          

          Cũng đôi lúc tôi tiếc đă không ghi lại nhật kư. Những cuộc hành quân tại Núi Tṛn, đèo B́nh Đê, Minh Long...do đó chẳng nhớ ra những đặc điểm nào. Hành quân là một công việc tay phải của những người lính, được đặt trong thành phần chủ lực như chúng tôi. Chuyện tham dự hành quân trở thành b́nh thường như những chuyện ăn, ngủ, làm t́nh. Và những cuộc hành quân thường na ná giống nhau. Cắm trại. Tập họp. Kiểm tra quân số, đạn dược, lương khô...Rồi im lặng vô tuyến, rồi khai hỏa, tiến chiếm mục tiêu, lục soát, pḥng ngự, truy kích, tải thương, báo cáo...cứ đều đều lặp lại như vậy. Riêng tôi may mắn c̣n có thêm vài phụ mục: ngắm cảnh, nghêu ngao ca hát, làm thơ. Đă giống nhau như vậy, nên tôi xin dành những trang sau cho cái thời lẩn quẩn ở Núi Dẹp, Quán Lác, Thi Phổ, Mỏ Cày, Đức Phụng, Đức Phổ...mỗi nơi một vài nét gọi là một chút tri ân

          Núi Dẹp, Quán Lác, Mỏ Cày, Văn Bâng liền nhau. Với những địa điểm này tôi nhớ nhất là con rắn lục có bầu, bị chính tay tôi bắn chết khi đột kích lên đồi Văn Bâng.

          Từ mờ sáng chúng tôi đă lọt vào mục tiêu, không phải bắn một viên đạn nào. Mặt bằng Văn Bâng có nhiều đường hầm chạy loanh quanh. Đây là cao điểm kéo dài đến Mơ Cày, nơi nổi tiếng bắn tỉa của Việt Cộng. Cuộc đột kích của chúng tôi lên Văn Bâng đă không túm được một anh chị du kích rắn mắt nào. Nằm chờ lệnh rút quân trong ánh nắng gắt, tôi chui vào một bụi lá vừa đủ che từ ngực đến mặt. Cơn gió hiu hiu kéo hai mí mắt tôi lại gần với nhau. Chập chờn. Chợt trong một ánh nh́n, tôi phát hiện, ngay gần sát mặt, bụng một con rắn lục bất động. Hoảng hốt tôi lăn ra khỏi bụi. Vài ba người lính chạy tới hỏi dồn: “Ǵ vậy, ǵ vậy chuẩn úy?”. Tôi thất sắc đáp gọn: “Rắn...rắn lục!”. Những đôi mắt lập tức xuyên vào các nhành lá theo tay tôi chỉ. Lạ, chẳng anh lính nào t́m ra. Họ về lại vị trí. Tôi băn khoăn, chẳng lẽ ḿnh loạn thị và tại sao sợ rắn đến quá như vậy. Có lẽ do phát hiện bất ngờ và sự cận kề quá sát với con thú có nọc độc. Tôi không chịu bỏ qua. Ḍm bên này, ngắm bên kia cuối cùng những ngụy trang khéo léo của con rắn cũng bị tôi phát hiện. Tôi gọi vài binh sĩ nhưng chẳng ông nào chịu nổ súng. Lưỡng lự vài

giây, tôi lấy cây AR15 của An, kê gần sát thân con rắn, bắn một viên một. Tiếng nổ giúp ông Đại đội trưởng gọi máy hỏi thăm. Đây chính là lư do những người lính không dám khi không nổ súng. Con rắn chết, đám binh sĩ kéo xác ra ngắm và “báo cáo” con rắn có mang. Tôi nghe trống ngực đập th́nh thịch. Nhớ ra hôm nay là ngày rằm tôi càng ân hận, lo sợ. Tôi nhờ An đào một cái lỗ chôn con rắn. Nằm gác tay lên trán vẩn vơ. Tôi nhớ đến chuyện con rắn trả báo cụ Nguyễn Trăi thời xưa. Tôi h́nh dung ra cả chuyện thanh xà bạch xà. Lại nghĩ đến chuyện cấm sát sanh, nhất là ngày rằm, mùng một. Tôi lo sợ vẩn vơ, rồi tự bào chữa. Sát sanh mang tội, nhưng giết một con vật ác lại là một việc thiện. Thiện ác thật ra lẫn lộn vô cùng. Dù sao tôi cũng đă vái thầm trong bụng cho mẹ con con rắn sớm siêu thoát. Tôi buồn và lẩn thẩn có đến vài ngày hôm sau.

          Núi Dẹp c̣n để cho tôi vài chuyện không vui khác. Tôi được lệnh chọn một tiểu đội của ḿnh, để đột kích vào một xóm dân. Qua tin t́nh báo, có một nữ du kích về tổ chức mừng ngày sinh của “cụ Hồ”. Tiểu đội của Hạ sĩ nhất Tư lănh nhiệm vụ này. Họ được tôi cho Tám mang máy truyền tin theo. Nằm trong hầm cát tại núi Dẹp tôi không yên ḷng về những đàn em của ḿnh. Cuối cùng tôi nhận tin tốt đẹp. Cuộc đột kích thành công. Cô nữ du kích chết tại chỗ. Tôi cũng được cho biết cô gái không may ấy tên Tuất, c̣n rất trẻ. Chẳng hiểu sao tôi cảm thấy nao nao buồn.

          Chuyện không vui thứ hai với Núi Dẹp vào tết Mậu Thân. Lần đó tôi bỏ đơn vị về Đà Nẵng. Khi trở vào tôi được biết Chuẩn úy Âu, khóa đàn em của tôi, được đổi về tiểu đoàn chúng tôi. Anh đă không có cơ hội ăn cơm nhà binh lâu dài, khi phải thay tôi tạm nắm Trung đội 2 khi tôi vắng mặt Anh ra đi ngay trong căn hầm tôi thường nằm. Cái chết của anh không trực tiếp do tôi gây ra, nhưng rơ ràng có một liên đới. Buồn cho anh, mừng cho tôi, tôi càng trở nên vật vờ hơn trước. Thần chết kêu ai nấy dạ. Biết đâu tôi có mặt nhưng không nằm trong hầm cát ấy, một nỗi nhớ nhung nào đó rủ tôi ra ngoài chẳng hạn. Đùa vậy thôi, những trận đánh trong chiến dịch Mậu Thân của Việt Cộng đâu có giờ để vẩn vơ, họa may tôi bị đày nằm đêm ngoài Mỏ Cày.

 

          Địa bàn hoạt động của Bộ chỉ huy tiểu đoàn ở Quán Lát vươn đến Đức Phụng, Đức Hải và  nhiều vùng khác. Riêng hai địa danh đẹp này thỉnh thoảng lại gọi một vài binh sĩ đi đầu thai v́ ḿn và lựu đạn. Chẳng có cuộc chạm súng ra hồn tại Đức Phụng lẫn Đức Hải, ngoại trừ một lần dành tặng cho Chuẩn úy Nam. Cũng là một người đứng ra gánh bổn mạng tôi, khi anh thay tôi chỉ huy Trung đội 2 vào những ngày tôi nghỉ phép.

          Tiền đồn Đức Hải nằm trên một băi cát, sát biển. Một đại đội thay phiên nhau đồn trú ở đây trong ṿng mười lăm ngày. Nếu không phải đây là vùng kiểm soát của địch, th́ cuộc đóng quân hết sức lư thú. Biển trời mênh mông, không khí trong lành. Hơi thở của người lẫn thú rất khiêm nhường. Công việc hàng ngày của binh sĩ là bung ra lục soát cái xóm nhà chỉ mươi nóc gia lân cận. Rồi tha hồ đóng quân ngủ tại chỗ suốt cả ngày. Trong cái cảnh thảnh thơi thanh b́nh ấy, tôi t́m được một căn nhà khá khang trang, nhất là có một cô bé hay cười, mủm mỉm rất dễ thương. Ngày nào tôi cũng qua mắc vơng nằm chơi bên sự quấn quít của cô bé chưa quá 16 này. Chuẩn úy Nam, người Sài G̣n, lon chưa phai bớt màu vàng đă không may thay tạm tôi “bảy  ngày về phép”. Nam là một thanh niên đẹp trai vui vẻ, hôm tôi đi phép, chính anh nắm trung đội mở đường. Anh đă vô t́nh lặp lại những thói quen của tôi. Căn nhà có con bé xinh xắn từng theo tôi về thị xă Quảng Ngăi, đă trở thành cứ điểm cuối cùng của Nam nh́n thấy cuộc đời. Khi tôi trở về đơn vị, xót xa có thêm một bài thơ:

 

          Từ đồn Đức Hải ta về phép

          bạn thế chân ta kích xóm bên

          cḥm xóm tiêu điều năm mái rạ

          cây cụt đầu ngang ngọn cỏ mềm

 

          đâu có chỗ nào vừa mắc vơng

          nằm hoài cũng mỏi cái lênh đênh

          bạn bắt chước ta vào chái bếp

          nhà “con ḅ lạc” của anh em

 

          hôm đó nghe đâu trời nóng lắm

          nắng tràn bốn phía nắng bao vây

          lâu lâu gió biển vung roi quất

          muối xác thâm đen cả mặt mày

 

          bạn mới ngả lưng lim dim mộng

          carbin bảy-chín lẫn AK

          trời xanh thăm thẳm hồn nhiên quá

          phận số dành riêng mỗi chúng ta ?

 

          ta trở lại đồn qua xóm cũ

          rút colt bắn lẫy cái lu sành

          nước tràn lu vỡ, trời, ta khóc

          bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh

 

          ô hô mới cách mười lăm bữa

          mà nắng tan hoang vữa cả trời

          quà mang tặng bạn chia cho lính

          c̣n b́nh đông rượu bạn và ta

 

          uống đi em út sao buồn vậy

          hớp này đăi bạn, hớp phạt ta

          mực khô dai nhách ? ồ, ngón út

          máu rỉ hay là mắt ta hoa

 

          Nam ơi, Đức Hải trưa nay vắng

          biển lặng ngồi không xót phận mày

          ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng

          đến lượt ta hay đứa nào đây ?

          (CƠĐĐTT.LTHBVVBH)

 

                                                    

 

 

          Trong những ngày đồn trú tại Núi Dẹp, trung đội tôi được thay phiên nằm giữ những yếu điểm trên quốc lộ 1 như cầu Sông Vệ, nằm phía Bắc Núi Dẹp, tiền đồn Thi Phổ, nằm phía Nam Núi Dẹp.

          Đóng quân giữ Cầu Sông Vệ là thời gian thư giăn lư thú nhất. T́nh h́nh an ninh khá khả quan. Từ bảy giờ sáng  đến 4 giờ chiều tấp nập đông vui. Xe lam, xe đ̣ qua lại thông suốt. Đêm đến có phần nặng nề, nhưng chưa có ǵ đáng tiếc xảy ra trong suốt gian đoạn tôi có mặt tại Quảng Ngăi. Với nhiều lạc quan, tôi thường xuyên theo lính lội vào chợ, không mang ư đồ “trai khôn t́m vợ chợ đông” (ca dao). Người và hàng hóa thật sự giúp tôi vui mắt, vui ḷng. Được nh́n, được nghe cảnh sinh hoạt hàng ngày của đồng bào ḿnh trong thanh b́nh cũng là một hạnh phúc. Ước mong khiêm nhường của tôi đâu ngờ được tặng thưởng một cách xứng đáng. Tôi có một bóng hồng biết thỉnh thoảng ghé hầm cát thăm chơi. Tôi có một nhân vật để vài bài thơ đậm thêm chút duyên sắc.

          Đóng quân trấn giữ tiền đồn Thi Phổ là đặt ḿnh vào hoàn cảnh trái ngược hẳn với cầu Sông Vệ. Tiền đồn Thi Phổ cũng nằm sát bên quốc lộ 1. Đây lại là giao điểm liên lạc, tiếp tế của Việt Cộng. Tiền đồn Thi Phổ có đầy đủ công sự chiến đấu, hầm cát chỉ huy, dày đặc ṿng rào kẽm gai, cùng ḿn bẫy. Có cả trụ cờ.  Để cho cái yết hầu của ḿnh thông thương, Việt Cộng bằng mọi cách phải nhổ cái chốt Thi Phổ. Trước tôi đă có nhiều đơn vị bị bứng đi. Đồn bỏ trống một thời gian khá lâu th́ đến phiên tôi tái trấn giữ. Chỉ qua đêm thứ ba, trung đội của tôi bị tấn công. Hỏa lực của địch rất mạnh. Bằng những quả súng cối 60, đặt hàng ngang trên mặt quốc lộ, họ khai hỏa trực chỉ. “Cái chết hạnh phúc”(chữ dùng sau này của nhà văn Nguyễn Sao Mai) đang cận kề, tôi cùng binh sĩ nằm sát đất bắn trả đũa cầm chừng. Thẩm quyền trực tiếp của chúng tôi chắc đă chọn phương án hy sinh đồng đội, để giết một ít địch quân. Chúng tôi được pháo binh tiếp viện. Nhưng những quả đạn được điều chỉnh rơi ngay vào tiền đồn. Rất may quyết định liều lĩnh, hơi thiếu t́nh nghĩa “huynh đệ chi binh” của ông Tiểu đoàn trưởng đă cứu chúng tôi. Việt Cộng chỉ cẩn nhổ đồn, không cần tịch thu vũ khí, xác người. Chúng bỏ đi để mặc cấp trên tàn sát cấp dưới. Một phép lạ đă giúp chúng tôi. Tàn trận với ba binh sĩ hy sinh. Mười người khác bị thương, có nặng, có nhẹ. Riêng tôi hoàn toàn vô sự. Rất buồn trước những cái chết của binh sĩ, trong đó có Thị, B́nh Định giỏi vơ, có Thế, mập mạp luôn được cô vợ rất đẹp lên thăm, nhưng lại mắc chứng kinh phong khá nặng. Xin thắp cho các em những nén hương muộn màng.

 

          Từ Núi Dẹp chúng tôi c̣n tham dự trận đánh ở Nghĩa Hưng. Đây là một trận đánh không thua nhưng chúng tôi đă bỏ chạy một khoảng đường có đến mấy cây số. Mục tiêu là một liên xóm c̣n rất nhiều cây cao bóng cả. Ranh giới giữa chúng tôi và quân địch chỉ là một bờ đất cao quá đầu người. Không sử dụng được súng. Cả hai bên đều dùng lựu đạn. Chúng tôi chiến thắng nhờ chất lượng của những trái na Mỹ quốc. Khi đă biết Việt cộng rút lui, tôi cho xung phong vượt qua bờ đất. Rất có thể Việt cộng nhử cho chúng tôi “quá giang” thật sâu để làm thịt. Nhưng tôi vẫn c̣n đủ b́nh tĩnh khi đọc thấy cái im lặng bất thường của phe địch. Tôi cho lệnh rút quân ngay sau khi vượt qua bờ cát phía địch không quá mười thước. Về lại vị trí chiến đấu cũ, qua liên lạc vô tuyến, tôi chưng hửng biết trung đội ḿnh bị cố t́nh bỏ lại để lập đầu cầu an toàn, tiểu đoàn và cả đại đội trực tiếp của ḿnh đă rút khá xa. Lập tức, tôi cho lệnh rút, đúng vào lúc ấy có tiếng AK tiễn chân.. Cuộc chạy việt dă của chúng tôi bắt đầu. Vừa mệt vừa tức, Nếu chặng đường không đủ dài giúp tôi b́nh tĩnh có thể tôi đă phạm tội khi gặp lại đại đơn vị. Tôi có chút ít ba gai, lè phè trong những ngày phép, nhưng rất hết ḷng trong các cuộc hành quân. Tôi không bị kư phạt ngày nào, kể cả thời bỏ ngũ trong dịp Mậu Thân, nhưng tôi luôn được hưởng những t́nh huống khó giữ mạng, nếu không nhờ may mắn và những đấng vô h́nh nào đó che chở.

                                              

 

          Cuộc hành quân khép lại đời binh nghiệp của tôi rất khốc liệt. Ghi lại diễn tiến những cuộc chạm súng nối nhau trong sáu ngày liền sẽ rất dài ḍng và có thể nhàm chán. Trái ḿn thứ hai tôi dẫm phải trong đời lính, không thể không nổ. Âm thanh của khối vô giác này, tôi c̣n được nghe rơ nên tôi vẫn c̣n trong cuộc sống. Bốn hay ba giờ chiều ngày 11 tháng 2 năm 1969, con đất Thi Phổ một lần nữa nâng đỡ tôi phần nào. Tôi được đưa đến bệnh viện dă chiến của người Hoa Kỳ trên một ngọn đồi ở Đức Phổ. Bậc sinh thành đưa tôi vào đời với một thân thể lành lặn b́nh thường. Nay hai chân đă mất một, tôi ghi thế nào về những cảm xúc của ḿnh ? Những ngày nằm điều trị là thời điểm Tết nguyên đán, tôi ứa nước mắt nhận gói mứt bánh cùng những lời chúc mừng từ những người bạn đồng minh da trắng. Buồn bă nghĩ về người cha già. Xót xa, nhói buốt nhớ đến vợ và đứa con đầu ḷng sắp ra đời. Tin ngă ngựa của tôi vẫn c̣n được giữ kín. Nằm cùng những thương binh Mỹ, tôi lo tính những ǵ cần phải thực hiện khi gặp lại gia đ́nh. Một ca khúc xa xưa của nhạc sĩ Phạm Duy, không ai hát mà vang vọng trong tôi những năo nùng. Chẳng có ǵ gối đầu để tịnh tâm hơn câu “Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni Phật”, tôi lặp lại câu kinh linh hiển này trong đầu.

          Bệnh viện Dă chiến Hoa kỳ tại Đức Phổ chỉ có duy nhất một người Việt Nam, cô Phúc, chuyên lo về vệ sinh pḥng trại. Phúc c̣n trẻ lắm, chắc chừng hai mươi. Phúc đă nhiều lần giúp tôi tập đứng dậy bằng một cặp nạng gỗ. Chỉ đứng im một chỗ cho quen. Cô cũng không e ngại giúp tôi làm vệ sinh thân thể nhiều lần. Cô bé có đôi mắt thật buồn và giàu ḷng tử tế này không biết bây giờ ra sao ? Em có phải “đi học tập” sau 1975 v́ đă làm cho Mỹ. Dễ ǵ không được khen tặng mấy chữ CIA. Trong lúc điều trị tại Bệnh viện Dă chiến Đức Phổ, tôi c̣n có một kỷ niệm hay hay. Dù có học Anh ngữ, tiếng Mỹ của tôi rất là ú ớ, lại không quen sử dụng thủ thuật, tôi gặp khá nhiều khó khăn. Rất may trong đám bác sĩ chăm sóc tôi, có một người chịu chấp nhận hiểu tôi qua chút ít Pháp ngữ cũng rất què quặt. Không ngờ một đêm, đang chập chờn ngủ, tôi được một binh sĩ Hoa Kỳ  bồng xuống một căn pḥng với cả dây chuyền cùng chai nước biển. Căn pḥng rộng vang dậy tiếng rên la của một người đàn bà. Đó là một nữ cán binh. Bà ta oằn oại với cái bụng thật lớn của ḿnh. Không hiểu cơ duyên nào trực thăng Mỹ lại bốc người nữ địch quân, bụng mang dạ chửa này đến đây trong đêm hôm khuya khoắt. Mấy vị bác sĩ không chuyên về sản khoa cần tôi để biết người đàn bà đă ‘mang nặng’ bao lâu, đă đến ngày khai hoa nở nhụy chưa, và t́nh trạng đau đớn như thế nào. Sau đó tôi được bồng trở về pḥng, chờ sáng hôm sau được biết, có một bé trai ra đời. Từ đó đến nay, đă ba mươi lăm năm qua. Không rơ mẹ con người đàn bà năm ấy ra sao ? Dù ở chiến tuyến nào, bà cũng là một người mẹ Việt Nam khốn khổ. Hy vọng thời gian qua bà đă vượt được mọi khó khăn trong cuộc sống, và cậu bé, ngày nay đă rất trưởng thành. Biết đâu cậu đă rơ hoàn cảnh ra đời của ḿnh và t́nh cờ đọc được những nhắc kể lẩm cẩm của tôi. Một lá thư như trường hợp một người bạn trẻ, Nguyễn Hùng Phi, ở Tiên Phước lại đến, không chừng.

 

                                                    

 

          Tưởng đă có thể dứt điểm đoạn hồi thuật lẩm cẩm này, th́ chợt nhớ ra chưa giải thích nguyên nhân có hai câu: suưt phá đời em du kích nhỏ,/ giữa gian đại tự Phạm Văn Đồng... trong một bài thơ nhớ về Thi Phổ,  tôi xin tḥng thêm một chút lẩm cẩm nữa.

          Cụ Phạm Văn Đồng ra đời ngày 01 tháng 3 năm 1906 tại Quảng Ngăi. Không rơ quá tŕnh đầu thai của cụ ra sao, mà cuộc đời “làm quan” của cụ rất bằng phẳng. Giữ chức Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa từ năm 1955, kéo lê đến 1975, rồi qua luôn giai đoạn đất nước về một mối, cho đến năm 1987. Có lẽ cụ là vị Thủ Tướng dài lâu nhất thế giới.Không biết những khả năng khác của cụ có được lâu bền như vậy ? Nhà ở trong thời ấu thơ của cụ Phạm thuộc xă Đức Tân, huyện Mộ Đức, nằm trong địa bàn hoạt động của tiểu đoàn chúng tôi, khi đến phiên dưỡng quân tại Núi Dẹp. Chuyện mang quân lục soát khu vực làng cụ là chuyện b́nh thường. Chúng tôi phải thực hiện để giữ ṿng đai an toàn cho bộ chỉ huy tiểu đoàn. Những cuộc hành quân bỏ túi này không mấy khi đụng trận. Nhà của cụ Phạm không cách xa đường cái quan bao nhiêu, nên mức độ an toàn càng cao. Có một điều khá lạ, so với những căn nhà khác, cùng làng, nhà của cụ Thủ tướng, giữ được vẻ lành lặn rất khả quan. Đó là một căn nhà ngói, không lớn lắm, nhưng khá khang trang và chắc rất bề thế vào những năm nó được dựng lên. Nhà không có ai ở. Ngoài bệ thờ, gần như không có vật dụng, kể cả ghế, giường. Thật ra tôi chỉ được biết đây là nhà của thân sinh cụ Phạm, sau khi vào mục tiêu, và dùng căn nhà này cho nhóm dẫn dắt trung đội dừng chân. Thông tin về sở hữu chủ căn nhà do vài người lính có gốc ở địa phương cho biết. Sai đúng ra sao, đến ngày nay tôi cũng chưa kiểm chứng. Dù có là nhà của cụ Phạm thủ tướng hay không, căn nhà rơ ràng được sự nương tay của cả hai bên đối địch trong vùng xôi đậu.

          Sau khi ḍm suốt ḷng ruột căn nhà, tôi ra vườn. Vườn có lẽ thuộc loại vườn của cụ Nguyễn Khuyến ngày xưa. Chỉ khác, ở đây không có hàng rào và cũng không có con gà nào để đuổi. Cây lá tự do xanh tốt nhưng không bừa băi, mọc loạn, điều này cho biết có bàn tay ngầm săn sóc. Đang lắng ḷng nghe một tiếng chim lạ, tôi bị dồn dập vào lỗ tai âm thanh cố t́nh quyết liệt của một giọng nữ. Hóa ra một anh lính của tôi đang tán tỉnh một cô gái và gặp sự phản đối. Rất ngạc nhiên sự có mặt của con bé. Tôi hỏi qua loa người lính, rồi đưa cô ta vào nhà...cụ Phạm.

          Qua câu chuyện, kể như trả lời thẩm vấn, tôi được biết cô là học sinh của trường Nữ Trung học Quảng Ngăi, về đây thăm bà con. Nh́n vóc dáng, nét mặt, không có ǵ đáng nghi ngờ. Nhưng chuyện thăm bà con có lẽ không chính xác, bởi xóm làng chẳng c̣n người nào cư ngụ. Tôi thân mật hỏi cô có biết thầy Đồng không. Cô bảo biết. Tôi thăm ḍ tiếp,  thầy Đồng lúc này ra sao. Cô cũng cho tin rất chính xác. Đồng là tên thật của nhà thơ Hà Nguyên Thạch, dạy trường Nữ trung học Quảng Ngăi. Trong câu chuyện, cô cũng khôn khéo hỏi sự quan hệ giữa tôi cùng thầy Đồng và nhất là không quên nịnh tôi: “Trông...chú giống như là ông thầy hơn là ông lính”. Cô quên rằng tôi là “ông thầy” thứ thiệt được đám binh sĩ của tôi gọi “ông thầy” hàng ngày. Cô học sinh Nữ trung học Quảng Ngăi, không thể là một du kích, nhưng cô đảm nhiệm một công việc ǵ đó cho phe địch của tôi, chắc chắn có thật. Không nịnh đầm, không dại gái, nhưng tôi bảo một anh binh nh́ đưa cô nữ sinh ra mặt lộ, đón xe cho cô về Quảng Ngăi. Chuyện “Suưt phá đời em du kích nhỏ...” đúng là chuyện phịa của tôi cho đoạn thơ thêm h́nh ảnh. Dựa vào sự xuất hiện có thật của một cô gái trong lần tôi hành quân, nghỉ chân tại nhà cụ Phạm thủ tướng.

          Vấn đề quấy nhiễu t́nh dục, nôm na là cưỡng hiếp, ở đâu th́ tôi không rơ, nhưng tại đơn vị tôi, hoàn toàn không hề xảy ra, trong giai đoạn tôi có mặt trong tập thể ô liu của ḿnh. Lính của tôi ít ỏi trên dưới ba mươi người, nhưng không thiếu những anh đa t́nh, kể cả đa dâm nữa, nhưng tôi biết họ rất đàng hoàng, không vượt qua quân kỷ và luân lư đời thường. Một anh hạ sĩ Tư, trung niên, béo mập, có nụ cười làm những con mắt của mấy bà sồn sồn ở một vài cḥi tranh có giây phút ánh lên một chút tinh nghịch nào đó rồi thôi. Một trung sĩ Đặng Ngọc Châu, trẻ trung, đẹp trai như kịch sĩ Vân Hùng không thể không làm cho mấy em nông thôn, mấy em sơn cước của những vùng chúng tôi đi qua, có vài giây tơ tưởng. Đặng Ngọc Châu, ông Trung đội phó trẻ tuổi sau này của tôi luôn luôn hồn nhiên với câu hát thường trực trên môi “ người yêu tôi...tôi mới quen hồi hôm”. Câu hát của người viết nhiều nhạc về lính, Trần Thiện Thanh, cũng được một vài binh sĩ của tôi, dung tục hơn: “ người yêu tôi...tôi mới chơi hồi hôm”. Cái  quá đà trong ngôn ngữ của họ cốt để mua vui, làm nhẹ đi phần nào cái nặng nề cuộc sống luôn cận kề với tử thần. Sẽ khó quên khi trên đường hành quân trở về, ngang qua một vạt ruộng có nhiều bóng dáng đàn bà, trong đám lính tráng không thiếu anh bạo miệng dặn ḍ, thật lớn, thật công khai và cũng thật vu vơ.

          - Tối nay anh về em nhé. Em không cần nấu cơm, kho cá...anh không ăn đâu, nhưng nhớ phải tắm rửa kỹ đấy , giữ sức nằm chờ anh, anh cho lănh “ráp bênh”...chết luôn..

          Câu dặn ḍ của họ sống động, linh hoạt hơn câu tôi nhớ và ghi lại rất nhiều. Chữ dùng đi từ cái hồn nhiên, vui tính bẩm sinh ấy mà. Những người bạn lính của tôi đều như vậy. Đó là những anh lính chủ lực quân của Sư đoàn 2 nói riêng, của binh chủng Bộ Binh nói chung. Họ không được mặc quân phục rằn ri hùng dũng. Không mấy anh dám xâm tay “ xa gia đ́nh nhớ chị dâu” vv...Họ thường là những người mở trận, thăm ḍ địch, cầm chân địch, dĩ nhiên cũng không bỏ sót nhiệm vụ thanh toán mục tiêu. Kỹ thuật và căn bản tác chiến giữa người lính bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa có lẽ hơi khác biệt với binh sĩ đồng minh Hoa Kỳ trong một vài điểm. Để vào mục tiêu, người lính bộ binh thường phải lấy thân ḿnh cùng hỏa lực cá nhân để xung phong, đôi khi được chiến xa yểm trợ từ phía sau lưng. Trong lúc đó, chiến xa của Hoa Kỳ thường uy hiếp mục tiêu trước, và bộ binh dựa vào chiến xa để tiến vào. Lúc rút, bộ binh của Việt Nam Cộng Ḥa phải nằm lại cho những chiếc xe bọc thép ra trước nhằm bảo vệ quân dụng, trong khi Hoa Kỳ th́ ngược lại. Trọng lượng thân thể của một người Việt vốn nhẹ hơn người Mỹ khá nhiều. Nhận xét này của tôi chỉ căn cứ vào những cuộc hành quân liên kết tôi có tham dự. Có thể hoàn toàn nhầm lẫn, mong quí vị đàn anh có thẩm quyền, quí vị giàu có chiến tích bỏ lỗi cho những nhận xét non kém trên. Chữ nghĩa Việt dành cho cuộc chiến Việt Nam có lẽ đă khá nhiều, từ truyện ngắn, truyện dài, thơ của những anh hào Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, Bảo Ninh, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn...đến những phóng sự rồi hồi kư...kể khó hết. Nhưng cái dốt của tôi do đọc không được nhiều đề tài này, nên kể chuyện về những cuộc hành quân đă tham dự thiếu hẳn tính chất hấp dẫn lôi cuốn, cần thiết. Máu cũng không thay màu chữ tôi, làm sao hơn, khi bản thân tôi chưa đi đến đâu trong cuộc chiến buồn thảm của tổ quốc ḿnh. Sao chợt nhớ mặt trận quá thế này

 

          mờ sáng quân vào hết mục tiêu

          tầm tă mưa vây đời hắt hiu

          đứng nh́n đồng đội bung lục soát

          mưa tạt lạnh ḷng mắt đăm chiêu

 

          gác súng lên đùi nghĩ vẩn vơ

          đầu đêm qua ngủ, nhớ c̣n mơ

          mắt em đưa đẩy hai đầu vơng

          ta ngủ giữa ḷng em với thơ

 

          trời sáng dần dần trong lưới mưa

          trơ bên nền cháy gốc cây dừa

          ở đây cây cỏ đều sống thật

          chỉ có riêng ta có vẻ thừa

 

          dựng cổ áo ngăn gió buốt da

          đi quanh thềm cỏ ngỡ như là

          có người chống cửa chào thân mật

          úng cả không gian tiếng thở ra

 

          bỗng thấy b́nh an một đóa hoa

          vàng nghiêng trước gió mở ḷng ra

          hiển linh thay đóa hoa vạn thọ

          một thoáng ta đang ở tại nhà

 

          bát ngát trời thơm hương sắc xuân

          bỗng quên đang lặn lội hành quân

          ta ngồi huưt sáo mừng cây cỏ

          hứng giọt mưa trong thế rượu mừng...

           (CƠĐĐTT, LTHBVVBH)