Những
Ngày Đầu Quân
Và
Thời Ở KBC 4100
1.
Tuổi mười tám đă lặng lẽ
đến với tôi. Tôi thật t́nh không nhớ những
xúc cảm của ḿnh khi được đón cái tuổi
này. Cái tuổi mà đa số những người từng
bước qua, cho rằng đẹp nhất của
đời người. Tôi đă t́m đọc nhiều
thơ văn viết về tuổi mười tám,
nhưng rất tiếc, chưa t́m được những
ǵ ḿnh mong đợi.
Tuổi mười tám của tôi rơi vào
năm 1959, sau hai năm má tôi qua đời. Năm 1959
cũng là năm t́nh h́nh quân sự của miền Nam có
những dấu hiệu bất ổn. Chính phủ miền
Bắc bắt đầu phát động chiến dịch
đánh du kích nhiều nơi, để chuẩn bị khai
sinh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào tháng 12 năm
1960.
Trong túi
áo lúc bấy giờ, ngoài thẻ học sinh, tôi vừa có
thêm thẻ căn cước. Gót chân (căn) tôi đă
cứng, ống chân (cước) tôi đă vững. Tôi
đă thành một người có thể tự đứng,
tự đi, tự bước vào thế giới
người lớn. Cuộc chiến trên quê hương
giúp tôi sớm trưởng thành qua việc tham dự
trưng binh quân dịch. Đây là một nghĩa vụ
của một người con trai, sau 17 năm vui chơi
với đời, phải thực hiện trong ṿng hai
năm.
Vào
mười giờ sáng một ngày đẹp trời,
từ nhà trên đường Đông Kinh Nghĩa Thục
Đà Nẵng (nay là Ngô Gia Tự), tôi lặng lẽ ra
đi. Chỉ trong khoảng cách 250 thước,
bước chân ngần ngại của tôi đă dừng
trước cửa trụ sở Nghiệp Đoàn Lao
Động Việt Nam trên đường Thống
Nhất (Lê Duẩn bây giờ). Nơi văn pḥng trưng
binh quân dịch tạm thời làm việc. Địa
điểm này cách đây sáu năm, tôi từng có đôi
lần ṭ ṃ liếc mắt vào. Đó là cái bordel lớn nhất của thành phố Tourane. Dù
lưỡng lự, cuối cùng tôi cũng thành
“người khách hàng” đầu tiên của văn pḥng
trưng binh quân dịch hôm ấy.
Tôi
được niềm nở cân đo và khám tổng quát.
Tuy không cố t́nh nhịn đói, nhưng không hiểu sao
đêm hôm trước tôi không muốn ăn, sáng hôm sau
cũng không lót dạ. Với sức nặng 39 kư
rưỡi trên một mét sáu chiều cao, tôi
được xếp vào thành phần phụ dịch, dù
t́nh trạng sức khoẻ b́nh thường. Kết
quả tốt này đă giúp tôi chậm bước trong
việc thi hành nghĩa vụ quân dịch. Tôi phơi
phới ra về v́ cái cái tên Lê Ngọc Châu, sinh năm 1941,
đă có một số quân, để đời: 61/203.905.
Năm
1964, khi đang tập làm công chức tại Ṭa Thị Chính
Đà Nẵng, tôi nhận được lệnh
động viên.
Bỏ lệnh gọi
trong túi quần
tôi đi qua từng con
phố
không biết phải làm ǵ
tôi trở về rửa
mặt
quyết định
ngủ một ngày
thản nhiên không mơ
mộng
....
bỏ lệnh gọi trong
túi quần
cứ làm thơ cái đă
không biết để làm
ǵ
tôi dán trên vách cửa
...
(Viên Đạn Cho Người
Yêu Dấu)
Dù
ngủ, dù làm thơ, dù thắp hương cho mẹ, dù
lục soạn ǵ đó trong các ngăn tủ... tôi cũng
không thể không tŕnh diện tại Quân Vụ Thị
Trấn. Rồi cánh cửa trại Nhập Ngũ Số 1
đă giữ tôi từ sáng sớm đến chiều
tối trong hơn hai tuần lễ.
Trại
Nhập Ngũ Số 1 thuộc vùng I Chiến Thuật,
tọa lạc trên một vùng đất rộng gần
đường Đống Đa, Đà Nẵng. Đây là
nơi tập trung những thanh niên, nằm trong hạn
tuổi phải thi hành nghĩa vụ quân sự,
trước khi được gởi tới các trung tâm
huấn luyện tùy theo điều kiện. Tôi
được chuẩn bị để gởi theo
học khóa 21 trường Bộ Binh Thủ Đức,
cùng với người bạn học, Phan-C- Dinh.
Trong
hơn hai tuần, ngoài những giờ nằm chơi trong
các dăy nhà tôn mang tên A1, A2...chúng tôi được đưa
lên Tổng Y Viện Duy Tân để khám sức khoẻ
theo lịch tŕnh. Có khá nhiều bạn tự ư nhịn
ăn trong giai đoạn này. Cũng lắm kẻ giả
vờ mắt kém, chịu tiếp nhận một dung
dịch ǵ đó vào mắt, để rồi than thở con
ngươi xốn nhức, nhưng không đạt
được kết quả ǵ. Vào ngày khám sức khoẻ
cuối cùng, Dinh không vào trại. Và cũng từ đó,
bạn ấy không chấp nhận ăn cơm nhà binh
của Việt Nam Cộng Ḥa, dù vẫn “ăn cơm
Quốc Gia” để “thờ ma Cộng sản” trong
nhiều năm nữa.
Giữa
lúc tôi đang được trung sĩ Lê Hữu Yến,
một người chú thúc bá làm việc tại trại
nhập ngũ, “bồi dưỡng” tinh thần để
chờ lên đường, th́ được lệnh hoăn
dịch tạm thời cho tất cả những
người có năm sinh 1941, v́ lư do “thặng dư tài
nguyên”. Tôi hớn hở trở về, bỏ ngang việc
đi làm công chức, sống lè phè với vài buổi kèm
trẻ tư gia. Học tṛ của tôi lúc này có Lê Thị
Ngọc Bảo, mặn mà lắm, con một thiếu tá
ở cư xá Thống Nhất Đà Nẵng.
Tháng 6
năm 1966, quân Bắc Việt vượt vỹ tuyến
17 xâm nhập vào vùng phi quân sự (Demilitairized zone). Hai trung đoàn cộng quân đă
có mặt trên phần đất chủ quyền của
miền Nam trong tháng 7 năm 1966. Trước sự bành
trướng này, đại diện của bộ Tham
mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cùng đại
tướng William Westmoreland ra Đà Nẵng, bàn kế
hoạch với Thiếu tướng Hoàng Xuân Lăm, tư
lệnh Quân đoàn I, vùng 1 chiến thuật VNCH và Trung
tướng Lewis Walt, tư lệnh Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam. Cuộc chiến
đă vô cùng sôi động. Chiến dịch Lam Sơn 289,
hay Hastings, theo người Mỹ, là mặt trận lớn
nhất trên địa bàn Quảng Trị với sự
tham chiến của liên quân Việt Mỹ đă gây tổn
thất nặng nề cho sư đoàn 324B và Lữ Đoàn
Giới Tuyến Việt Cộng, trong suốt 19 ngày liên
tục. Nhiều phi vụ B 52 từ đảo Guam đă
dội bom theo chiều dài 13 km, dọc bờ sông Bến
Hải trong ngày 30-6-1966. Lệnh động viên tất
cả các thành phần hội đủ điều
kiện làm sĩ quan, đang được hoăn dịch
phải nhập ngũ khóa 24. Tôi ra tŕnh diện cùng các bạn
thân như Châu Văn Tùng, Nguyễn Văn Pháp, Trần
Mỹ Lộc...
Trại
nhập ngũ số 1 lúc bấy giờ rất đông. Sau
giai đoạn khám sức khoẻ tại Tổng y
viện Duy Tân. Tất
cả bị “cấm
trại”, không c̣n được mỗi tối về nhà
như trước. Khu thăm viếng của trại do
đó ban ngày đông hẳn
lên. Nằm chờ lên đường, tôi viết chơi
đôi bài lục bát:
Nửa tờ nhật báo
ôm lưng
đầu gối
dép-nhật trông chừng dáng em
mắt buồn kiếm
hiệp lười xem
nắng vây gió phủ chênh
vênh nỗi chờ
...
không thằng nào tán
chuyện chơi
nằm thẳng kỳ
đất khơi khơi góc pḥng
nghe chân chú rệp thong dong
bơi trên thân thể
sắp bong nắng đời
...
(Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu)
Thi hành
nghĩa vụ quân sự, góp tay bảo vệ sự
vẹn toàn lănh thổ, bảo vệ tự do, nhân quyền
là bổn phận của mọi người công dân.
Với thanh niên bổn phận này càng phải
được nghiêm chỉnh chấp hành, nhất là khi
đă biết ít nhiều về đời sống, xă
hội miền Bắc qua các phong trào Cải Cách Ruộng
Đất trong thời gian 1953 đến 1958, phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm năm 1956. Những cuộc pháo kích
bừa băi vào những thành phố đông dân cư,
những cuộc đặt ḿn phá hoại các tuyến
đường, gây chết chóc, hoang mang, hoảng sợ
cho dân lành, càng làm tăng ư chí phục vụ chính thể Quốc gia. Tuy
vậy cá nhân tôi không thiếu những âu lo, bịn rịn
khi nhập ngũ. Nguyên nhân thật riêng tư: tôi đang có
người yêu.
Cuộc
t́nh của chúng tôi có ít nhiều không b́nh thường,
lẽ ra tôi phải ra trước vành móng ngựa và đi
tù sau đó. Nhưng may mắn, tôi có một người cha
vừa thương con, vừa đủ kinh nghiệm
để giúp chúng tôi vượt qua những trở
ngại. Tôi xin được phép chêm vào đây một
đoạn về biến cố trọng đại riêng
này:
Mọi
chuyện bắt đầu từ một t́nh cờ. Vào
một hôm tôi ghé thăm anh Lê Lữ, người bà con chú
bác thúc bá, có thời ở cùng tôi tại quê nội, Liêm
Lạc. Lữ hiện là học hoc sinh Phan Châu Trinh Đà
Nẵng, anh muốn thường gặp tôi để
đôi khi hỏi về bài vở. Cuối cùng, qua rủ rê
của Lữ, tôi đến thuê pḥng tại nhà ba mẹ
Trần Thị Lư. Rồi từ người ở trọ,
qua người dạy kèm, người cố vấn ăn
mặc...đến người t́nh... 16 năm sau, một chiều mưa tôi ghi lại
diễn biến của t́nh yêu chúng tôi bằng một bài
thơ trích dưới đây:
Chiều mưa
mừng sinh nhật
thứ 32 của Lư
ta đến trọ nhà em từ
thuở
em chưa qua hết
tuổi mười ba
bút mực thơm từng
ngọn tóc đuôi gà
miệng liếng thoắng
vụng về như con sáo
hoa cỏ dại mọc
đầy trong túi áo
gót chân hồng không mệt
mỏi nhảy giây
trái mù u chuyền thẻ
chạy quanh tay
cười với hát,
ăn quà, ṿi vĩnh mẹ
chừng nấy việc
dắt d́u em nhè nhẹ
dạo ṿng ṿng trong thế
giới ngây thơ
mắt vô tư nh́n ta
đến...không ngờ
chàng lăng tử của gió
mây đă lại
pḥng ta trọ âm thầm và
trống trải
chiếc bàn vuông, cái ghế
vải nhà binh
cán bút khô cắm giữa
ruột lục b́nh
tàn thuốc lá chất
buồn cao thành núi
những buổi sáng cúi
đầu đi thui thủi
những chiều về
nằm chờ đợi vu vơ
đời hắt hiu
đậu xuống mấy gịng thơ
nặng trang báo gởi t́nh
đi trăm ngă
một buổi sáng trời
mưa buồn chi lạ
bâng khuâng nh́n em vọc
nước ngoài hiên
gió mùa thu đùa trong tóc
nghiêng nghiêng
bay lên má...nhận ra em
đă lớn
trong khoảnh khắc ḷng
dịu dàng mơn trớn
buồn vu vơ theo
thương nhớ miên man
mắt em xanh cũng
bối rối hoang mang
le lói thắp nỗi t́nh ta
ngơ ngác
từ bữa đó hồn
ta đầy âm nhạc
nhận lời kèm em
học Pháp văn
bài vỡ ḷng bát ngát ánh
trăng
em khờ dại hay chính ta
vụng dại
thơ trời nắng
trời mưa dài ra măi
tóc em xanh cũng vừa xơa
ngang vai
ta đưa em chọn hàng
mẫu áo dài
ôi chiếc áo đầu
tiên em tập làm thiếu nữ
ta ngơ ngẩn nhưng em
cùng một thứ
bởi v́ ta vừa mới
biết yêu nhau
áo hẹn ḥ ta chọn có sai
màu
thơ ta đă sum xuê
lời bào chữa
ở chung nhà nhưng
tương tư từng bữa
càng giận hờn càng tha
thiết yêu thương
càng yêu thương càng cao
nỗi u buồn
t́nh vụng dại nuôi xanh
mầm sợ hăi
mẹ em bảo: biết
được ruồi đực cái
vừa bay ngang, huống chi
chuyện t́nh yêu
càng giấu quanh, càng
bại lộ thêm nhiều
mẹ em đă răn
dạy em to nhỏ
cửa pḥng ta mon men lời bóng gió
đẩy ta buồn
nối dài bước lang thang
ánh mắt em thao thức
nỗi bàng hoàng
mở trang sách em úp
đầu ngồi khóc
t́nh yêu t́nh yêu mệt nhoài,
khổ nhọc
em bằng ḷng chịu
đựng để yêu thương
những là thư tha
thiết nỗi vui buồn
em kín đáo giấu trong
ḷng máng xối
ta len lén lấy nhanh và
đọc vội
mua cau trầu mai mối
chuyện trăm năm
t́nh keo sơn cha mẹ
phải bằng ḷng
thơ ta đă vắng bóng
em từ đó...
mười sáu năm qua
đời dừng trong ga nhỏ
chiều hôm nay ngồi
vơ vẩn trông mưa
em ngoài hiên, lại vọc
nước như xưa
ta bỗng thấy em
vẫn c̣n con gái
em có biết em vẫn c̣n
trẻ măi
bởi v́ ta c̣n măi măi yêu em
nối tay nhau đan
từng sợi vơng mềm
ta kính cẩn mời em yêu
ngă xuống
chiều bát ngát mưa ngoài
hiên phiêu lăng...
(Đưa Nhau Về
Đến Đâu)
Lư sinh
ngày 03 tháng 01 năm 1951. Năm tôi đầu quân, Lư
được 15 tuổi, nữ sinh trường trung
học Tây Hồ. Để tôi an tâm đi nghĩa vụ,
ba tôi khuyên cuộc t́nh phải chuyển qua giai đoạn
hôn nhân. Ông đă vô cùng khó khăn mới thuyết phục
gia đ́nh nhà gái. Sau khi được sự chấp
nhận, ông lo làm khai sinh lại cho Lư. Con số 1951
được thay bằng 1949. Và ông cũng không quên
lập tờ hôn thú, với lư do, nếu để sau ngày
tôi đă trở thành sĩ quan, an ninh quân đội sẽ
điều tra lư lịch bên vợ làm chậm trễ
nhiều việc, cụ thể là việc trợ cấp
gia đ́nh. Hôn thú của chúng tôi được kư ngày 30
tháng 11 năm 1966 trước hơn một năm dài, Lư
chính thức được mặc áo cô dâu.
2.
Chúng tôi rời trại Nhập ngũ số
1 rất bất ngờ. Quá ba giờ chiều, hơn hai
trăm thanh niên được đưa lên phi
trường Đà Nẵng, không ai gặp được
thân nhân. Khi xe GMC chạy qua đường Trưng Nữ
Vương nỗi nhớ nhung đă bắt đầu nhoi
nhói. Bạn thân đồng hành với tôi có Pháp, có Lộc
nhưng Châu Văn Tùng xin ra phép đột xuất đă
lỡ chuyến đi.
Phi
trường Đà Nẵng là một căn cứ quân
sự quan trọng lúc bấy giờ. Chiếc C 130 ruột
rỗng, không có ghế, chúng tôi ngồi bệt trên mặt
sàn thép cứng, lúc nhúc như một đàn súc vật.
Phần đông cố giữ im lặng. Nhưng cũng có
một số nói cười với những mẩu
chuyện tiếu lâm không phải lúc. Buổi lên
đường của chúng tôi không có những bàn tay
đưa tiễn, không có biểu ngữ, ṿng hoa, không có
những ca khúc cổ động, ngợi ca đời lính
“Anh Đi Chiến Dịch”(Phạm Đ́nh Chương),
“Huynh Đệ Chi Binh” (Anh Bằng)...Một cuộc ra
đi lặng lẽ trong ánh nắng chiều đang loăng
màu. Thời gian bay cũng không lâu lắm. Điểm
dừng đầu tiên của chúng tôi là một phần
thịt da thân thiết của thủ đô Sài G̣n: phi
trường Tân Sơn Nhất.
C.130 đổ xuống
Tân Sơn Nhất
Sài G̣n dàn chào một cơn
mưa
may mắn cho những
thằng đang khóc
vừa đi vừa tự
nhiên vuốt mặt
một áo, một quần,
một tờ lá cải
lội bộ theo tôi ra
Lăng Cha Cả
nhá nhem đèn đêm
đợi xe GMC
đốt điếu
thuốc
môi nhạt thèm một
nụ hôn
đảo mắt ṿng ṿng
trên những đỉnh vú
tự nhiên thấy tiếc
vu vơ
xe chạy, gió, dằn xóc
thùng xe, lưng chống
lưng
tay, tay x̣e chống mưa
có đứa cười
có đứa tiếp
tục khóc
...
(Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu)
Mưa
suốt con đường từ Lăng Cha Cả
đến trường Bộ Binh Thủ Đức.Tôi
không nhận được mặt mũi cổng số 1
dù vừa biết xe mới lọt vào. Sân Liên đoàn là băi
đậu của đoàn GMC đêm hôm ấy. Ngay giây phút
chúng tôi xuống xe đă được tiếp đón
một cách rất nhà binh. Tập họp. Điều này
đương nhiên và không quá khó, chúng tôi đă thực
tập ở trại nhập ngũ. Nghe huấn lệnh,
cũng không lấy ǵ làm lạ. Nhưng mỗi
người trong chúng tôi đều mang một tâm trạng
lo sợ và thủ thế hay đúng hơn là gắng
giữ ḿnh. Viên sĩ quan trực tại liên đoàn hôm
đó là Thiếu Úy Thám, một người đang
độ 40, giọng Bắc, không quá nghiêm khắc,
nhưng cũng đă lạnh lùng tặng cho vài bạn láu
táu mấy chục cái hít đất làm duyên ra mắt.
Thành
phần đón tiếp không chính thức c̣n có năm,
bảy vị hạ sĩ quan, binh sĩ. Họ lảng
vảng bám sát chúng tôi, ân cần thăm hỏi, gợi
chuyện. Một trong những người này, về sau
nhận sửa quân phục và giặt ủi áo quần cho
tôi suốt khóa học. Ánh sáng của sân liên đoàn hôm
ấy không đủ để nhận ra cảnh sắc
chung quanh mà thật ra tôi cũng không dám nh́n quanh, mất
tập trung. Chẳng bao lâu, thiếu úy Thám đưa chúng
tôi về sân một doanh trại khác. Khi đă nghiêm
chỉnh đứng trong hàng 5, tôi mới nh́n lên bảng hiệu
treo trên đầu cửa một căn pḥng. Hàng chữ in
sắc nét, đậm đà cho biết đây là “Văn
Pḥng Đại Đội 10”. Mấy chữ “Khóa 24”
cũng bằng chữ in được viết nhỏ
hơn, nằm bên dưới.
Ngay
đêm hôm đó, thiếu úy Thám đă cẩn thận
điểm danh nhiều lần, xong đi duyệt qua
từng hàng. Ông gọi những sinh viên có mang kính cận,
đứng riêng ra một góc. Nguyễn Văn Pháp, bạn
tôi, anh thầy giáo của trường Sao Mai, Đà
Nẵng, có cặp mắt kính khá bảnh được
mời ra. Số bạn phải ra riêng không nhiều. Tôi nghĩ
thầm những bạn này chắc sẽ được
ưu tiên ǵ đấy. Nhưng không, họ được
tức th́ chuyển qua một đại đội khác.
Hóa ra thiếu úy Thám có chút ít tính toán, lợi dụng
trực liên đoàn, đón nhận tân binh, ông chọn cho
đại đội ông những thành viên ít khuyết
điểm, nhằm bảo đảm những kết
quả thi đua giữa các đại đội sau này.
Trong hơn hai trăm người, đa số
được ở lại đại đội 10, được
chia thành 4 trung đội: 37, 38, 39, 40. Tôi và Trần Mỹ
Lộc lọt vào trung đội 40.
Bấy
giờ có lẽ chưa đến giờ đi ngủ.
Thiếu úy Thám cho thực hiện ngay cuộc b́nh bầu
những sinh viên đại diện. Tôi không nhớ rơ có bao
nhiêu chức vụ. Đại khái là sinh viên đại
diện đại đội, sinh viên báo chí, sinh viên
thể thao, sinh viên ẩm thực...Tuy có sinh hoạt văn
học chút ít, nhưng tôi không dám ra ứng cử cái vai báo
chí. Tính tôi vốn lười và ngại khó nên bỏ lơ
những cái thúc cùi chỏ, nhắc nhở kín đáo của
Trần Mỹ Lộc. Cuộc b́nh bầu cũng qua mau
chóng. Không phung phí chút thời gian, thiếu úy Thám
hướng dẫn chúng tôi đến kho quân trang. Phải
công nhận tôi rất vất vả trong chuyện này.
Quần áo mũ giày...cái ǵ cũng có kha khá trọng
lượng. Ruột một các sac
marine dài ngoằn không thể nào chứa hết mấy
bộ treillis, quần
đùi, áo ba lỗ, botte de saut,
soulier, cà mèng, nón nhựa, nón
sắt, nón vải Tam Tạng, mùng, mền...Tôi vừa mang
vừa kéo về chỗ ngủ. Khóa 22 xuất trại,
để lại khá nhiều giấy lộn, rác rưởi.
Mặc kệ, tôi nằm úp lên giường sắt...
viết thư.
Sáng hôm
sau, chúng tôi được đưa đến pḥng
hớt tóc. Những kiểu tóc thời thượng bây
giờ của Elvis Presley, Rock Hudson, Johnny Hallyday...không
thiếu trên đầu những thanh niên đang hiện
diện tại pḥng hớt tóc nhà binh của quân
trường Bộ Binh Thủ Đức. Mái tóc của tôi không uốn ép
nhưng không phải ai cũng có thể sở hữu.
Một chút khoe khoang trong hoạt cảnh hôm đó:
mái tóc bồng bềnh đẹp
nhất Đà Nẵng
đẹp nhất miền
Trung
đẹp nhất Việt
Nam
rụng xuống
rụng xuống
từng tảng từng
tảng
trong tích tắc
tôi giống con gà chọi
trống hốc
ngượng ngập, khó
chịu
thiếu thiếu một
cái ǵ
nhẹ nhơm, lẻ loi,
kỳ quặc
soi ḿnh vào đám bạn bè
cười lấp nỗi
buồn bắt chợt
...
(Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu)
Dĩ
nhiên nỗi buồn vụn này không thể kéo dài. Chúng tôi
phải bắt tay vào việc làm tạp dịch, trong
thời gian chờ đợi khóa sinh các nơi tập trung
đến đầy đủ. Khóa học sẽ bắt
đầu vào cuối tháng 12 năm 1966.
Tạp
dịch thường được hiểu là làm vệ
sinh doanh trại. Công việc này kéo dài suốt 9 tháng. Tuy
nhiên ở giai đoạn một và nhất là những ngày
mới nhập trại, mới được thực hiện
tích cực và thường xuyên nhất. Nhổ cỏ là
một công việc đi đầu của tạp
dịch. Với tôi, nhổ cỏ là một việc làm khá
lư thú, v́ vừa nhẹ nhàng vừa thảnh thơi.
Đầu đội mũ vải có tḥng hai miếng che
tai. Tay cầm que nhọn. Ngồi chồm hổm, di
chuyển tùy nghi theo những ngọn cỏ t́m thấy
trước mặt. Nắng càng gắt, mồ hôi càng
chảy thành ḍng trong lớp vải áo, trước
ngực, sau lưng, càng cảm thấy dễ chịu.
Ngọn cỏ xanh bé nhỏ, mềm mại nhưng có
một sức sống thật phi thường, nhổ
đi một vài ngày sau lại thấy mọc, vẫn
thảnh thơi, vẫn xanh mướt. Đă rất
nhiều lần, tôi nâng niu từng ngọn cỏ, vừa
được bứng lên cả gốc lẫn ngọn.
Những giây phút đó thật tuyệt vời. Từ
ngọn cỏ trong ḷng bàn tay, tôi nghĩ, tôi nhớ về
nhiều người, nhiều việc đă từng
gặp, đă xảy ra. Rễ cỏ thường có màu
trắng trắng hoặc hơi ngả vàng; và đại
đa số thường quắn cong. Phải chăng v́
tăng trưởng trong bóng tối dưới mặt
đất, nên không được thẳng ngay ?
Cũng
như những khóa đàn anh, chúng tôi được
thụ huấn trọn vẹn trong 9 tháng, đúng với thời
gian đă qui định. Chương tŕnh huấn luyện
được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1,
giai đoạn 2 và giai đoạn 3. Thật ra c̣n có
một giai đoạn mở đầu, thường
được cho là giai đoạn huấn nhục. Giai
đoạn này tập cho người sĩ quan tương
lai biết nhịn nhục trước những uất
ức, sỉ vả nặng tính cách miệt thị. Trong
quá khứ có lẽ cũng có một số đàn anh không
được tốt tính, lợi dụng qui định
này để hành hạ đàn em như một thú tiêu
khiển, hoặc trả thù giây chuyền. Khóa 24 của
chúng tôi những màn huấn nhục như thế rất ít
xảy ra.
Bước vào giai đoạn 1, tôi và đồng
đội được tôi luyện sức chịu
đựng. Một loại thuốc trợ lực tiêm vào
cơ thể, giúp chúng tôi có thể liên tục dang nắng,
dầm mưa, không nhức đầu sổ mũi, không
mệt mỏi tứ chi. Đêm di hành giả trại, chính
thức mở đầu chương tŕnh huấn
luyện. Đây là một cuộc đi bộ ṿng quanh ngôi
trường với đầy đủ quân trang, súng
đạn. Tuy tầm vóc thua kém nhiều đồng
đội, nhưng tôi đă xuất sắc về
đến đích trong trạng thái b́nh thường,
hơn hẳn nhà thơ Phan Ni Tấn, một đàn em
ở khóa 27 sau này:
Mới ṿng đầu
Vũ đ́nh trường
mà bao nhiêu đứa chán
chường hẳn ra
thằng th́ mày váng, mắt
hoa
thằng th́ như bóng ma gà,
hết linh
(thơ Phan Ni Tấn ND)
Theo
bước chân ngày, tháng chúng tôi biết cách “thao diễn
nghỉ”, biết bồng súng, vác súng, biết bước
đi theo tiếng đếm một hai, theo tiếng hát
của chính ḿnh qua các khúc quân hành. Dựng lều, đóng
trại, thu dọn quân trang quân dụng, chúng tôi đều
thông suốt. Rồi tháo ráp vũ khí, những khẩu Garant
M1, Colt 45, Carbine M2, Thompson...chúng tôi đều xẻ
thịt bày trên bàn, chiêm ngưỡng vài phút, trước khi
cho chúng hoàn thân lại như cũ. Thời gian có hạn
cho từng loại trong cuộc chơi này. “Lên phải
xuống vào phải ra” nguyên tắc ví von này được
nhớ măi trong các giờ học vũ khí. Đồi, băi
gần xa quanh trường, tập cho chúng tôi những ḅ
lết, ngụy trang, ẩn núp. Lá giắt quanh thắt lưng.
Lá ṿng quanh nón sắt. Lá xanh c̣n mùi nắng, chợt
mướt mồ hôi tôi. Cái c̣ súng garant chừng như nặng. Viên đạn
đầu tiên tôi bắn đi, h́nh như không làm trầy
một phân da nào của tấm bia. Rơ ràng tôi để
đầu ruồi vào mục tiêu, nín thở cẩn
thận. “Bia lên, bia xuống”. “Thế bắn
nằm...thủ thế”. Những khẩu lệnh vang vang.
Viên đạn carbine đă
trúng đích. Tôi hân hoan như lần đầu dùng ná cao su
bắn rớt một con chào mào vô tội. Đường
đạn về đâu khi bắn mục tiêu di chuyển.
Hôm qua chúng tôi ḅ hỏa lực. Những mắt dây kẽm
gai nhọn hoắc dí gần sát mặt, chạm gần sát
lưng. Đă biết tiếng nổ của đạn mă
tử vẫn c̣n toát mồ hôi. Hôm kia chúng tôi vượt
Đoạn Đường Chiến Binh. Băi Vườn
Thơm, băi Nhà Sập, đồi 18, đồi Mẹ
Bồng Con, đồi Tăng Nhơn Phú... thấp thoáng
bóng cô bé bán sương sâm hồng hào, đáo để. Ba
tháng căn bản quân sự cứ lặng lẽ cắm
đầu đi qua. Một buổi lễ gắn alpha trang trọng
được tổ chức. Cái chuyển ḿnh ngoạn
mục này đẩy chúng tôi qua giai đoạn mới.
Lễ gắn alpha khóa 24 của chúng tôi có
thể đặc biệt hơn những khóa đàn anh.
Trước đó một tuần, tôi và một số
đồng đội được đi phép. Ưu tiên
này dành cho chúng tôi có lẽ như một đặc ân. Cái lư
do cho một số sinh viên có dính dáng với pḥng chiến
tranh chính trị về Sài G̣n
mời ca sĩ giúp vui chỉ là một cái cớ, từ
ḷng ưu ái của các vị sĩ quan của khối
Chiến Tranh Chính Trị.
Đêm
lễ hội đă đến. Trong ánh đèn sáng ấm
của Vũ Đ́nh Trường, chúng tôi gói ḿnh trong
bộ đại lễ, với đầy đủ dây
biểu chương màu anh dũng bội tinh, với casquette đính phù hiệu
ngọn lửa, thanh kiếm cùng 4 chữ Cư An Tư
Nguy. Trong giờ khắc thiêng liêng và uy nghi, chúng tôi qú
xuống, chúng tôi đứng lên, theo lệnh. Trên hai vai bây
giờ đă nặng nặng một chút ǵ. Chẳng
thuần túy là cái alpha. Con cá
vàng này c̣n chở trên lưng nó những cái ǵ cao quí hơn,
tuy c̣n ở khá xa.
Giờ
văn nghệ giúp vui, tôi lạng quạng sau hậu
trường, đă toan bày tṛ phỏng vấn một
nữ ca sĩ để đăng lên Bộ Binh, nhưng
rồi lại thôi. Tôi về nằm sớm, hoạch
định trong đầu những việc phải làm
trong chuyến đi phép sắp tới.
Sau khi
chia tay một số đồng đội đi ngành chuyên
môn hoặc binh chủng khác, chúng tôi bắt đầu
học làm một người chỉ huy cấp tiểu
đội. Địa h́nh, Chiến thuật là những môn
học được chú trọng đặc biệt.
Sử dụng những vũ khí nặng như trung liên bar, đại liên M30, súng
cối 60 cũng được thực tập trong giai
đoạn này.
Tôi
vẫn chưa quên những ngập ngừng trước
khi đặt bàn chân trên nấc thang dẫn lên đỉnh
ngọn giả sơn. May mắn tôi không run, không oà khóc
như một vài đồng đội. Sợi dây thừng
lớn đă ṿng qua thắt lưng, buông thơng giữa hai
ống chân. Một bàn tay nắm đoạn trên, một bàn
tay nắm đoạn dưới. Nhớ kỹ trong
đầu những động tác sẽ thực hiện:
nắm, nới, co, đạp. Tôi bắt đầu
thả ngửa thân ḿnh, từ từ buông lỏng dây cho thân
thể ở vừa thế có thể đạp chân vào
lưng giả sơn rồi búng ḿnh và nới tay. Trời
xanh lắm, mây trắng lắm. Một đạp rồi
hai đạp, dễ chừng đến cái đạp
thứ ba tôi mới trở lại mặt đất,
tự bằng ḷng với chính ḿnh, nghĩ bụng chiều
tối về sẽ viết thư khoe cùng cô vợ
miền Trung.
Tôi
cũng có một chút lo lo về môn dây tử thần,
bởi chỉ có thể
lặn đến ba ngày mà không biết sải tay cho
nổi. Nhưng chả sao, đă có áo phao. Một hai ba, co
chân, rướm ḿnh ra, cái ṛng rọc vụt chạy ro
ro...Ngọn cờ đỏ bên kia bờ đă phất.
Buông tay. Ùm. Nước đẩy ngược thân thể
lên. Ngon chưa, chẳng uống ngụm nước nào.
Lại viết thư cho vợ, lại tường tŕnh,
màu mè pha chế thêm chút đỉnh...Cái hôn của vợ c̣n
mù mịt xa.
Con cá
vàng trên vai đă đến ngày tháng thêm vây, nhưng
được gọi là con ṇng nọc có đuôi. Con ǵ
cũng mặc, chúng tôi chuyển sang giai đoạn ba,
một giai đoạn hiểu ngầm. Đọc bản
đồ, t́m điểm đứng, chấm toạ
độ, chúng tôi liên tục thực tập. Với
những chuyến đi xa trường, tôi bắt gặp
cây trái miền Nam, bắt gặp cả những con đỉa
mập tṛn bởi chính máu của ḿnh. Làm sao nhớ
được những địa danh đă đi qua,
gọi lên một tiếng cho thêm ấm câu văn vẫn
c̣n nhiều lủng củng, hời hợt, mơ hồ.
Những trận đánh giả vẫn như là cuộc
chơi nằm ngoài mọi binh pháp đă có trên đời.
Chiến thuật loanh quanh trong lư thuyết. “Địch tiến ta lùi,
địch lùi ta tiến, địch lừng khừng ta
bối rối” Chợt thấy ngay trước mặt
ông đại úy Đức già đầy uy dũng, khí khái
nên chậm vinh thăng. Những đồi băi trực
thuộc quyền sử dụng của nhà trường
đă trở nên thân quen với khóa sinh. Tôi đă có những
giây phút tịnh tâm để viết một vài bài thơ
tại băi Vườn Thơm. Tôi đă đàng hoàng cầm
súng đóng vai người lính gác tại băi Nhà Sập
để...chụp ảnh gởi về cho cô em đệ
tứ Tây Hồ. Tôi đă có đủ thời gian trên
đồi 18, gần xa lộ Biên Ḥa, để nằm nh́n
trời, ngó mây trôi, suy ngẫm về những lời
Đức Khổng Tử dạy trong Hề Từ Hạ:
Ngụy giả an kỳ vĩ
giả dă
Vọng giả bảo kỳ tồn giả dă
Loạn giả hữu kỳ trị giả dă
Tri cố quân tử an nhi bất vọng nguy
Tồn nhi bất vong vong
Tri nhi bất vong loạn
Thị dĩ nhân an nhi quốc gia khả bảo
giả dă
Nguy từ điểm tựa b́nh
tâm
mất từ cái có trong tầm tay ta
loạn v́ lối cũ trị gia
yên vui hăy nghĩ bóng ma chờn vờn
xuôi tay nhắm mắt mất c̣n
vui thời thịnh trị lo xong suy tàn
yên tâm giữ nước, ngai vàng
(LH dịch ṃ)
Lời dạy quí báu này
được cô đọng trong bốn chữ “Cư An
Tư Nguy” mà Đại tá Lam Sơn Phan Đ́nh Thứ,
một cựu chỉ huy trưởng, năm 1962 đă
đề nghị ghi lên phù hiệu của quân
trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngọn lửa
nhiệt huyết, thanh kiếm cương trường
trên nền xanh thanh khiết, càng lấp lánh khi bên cạnh
có thêm một triết lư sống “muốn hoà b́nh hăy lo
chiến tranh” của Đức Khổng Phu Tử.
Học
ở đồi, ở băi c̣n có cái thú rất đáng
được phạt dă chiến. Tôi nghiệm thấy
rằng những giờ học tại pḥng thường
gây ngủ gục nhiều hơn học ngoài băi. Nhưng
ngủ gục ở ngoài băi thú vị và chậm bị phát
hiện hơn. Là một người ít ngủ, nhưng tôi
cũng có một đôi lần gật gù, tán đầu vào
lưng người ngồi hàng trước.
Giờ
cơm ở ngoài đồi, băi cũng thoải mái hơn
giây phút ăn “cơm nhà bàn”. Với những ưu đăi
trên, chúng tôi dễ dàng tiêu hóa những phương cách
chỉ huy một trung đội, sẵn sàng chờ
đợi ngày ra trường. Tuy vậy trong thời
chuẩn bị trưởng thành này chúng tôi cũng không
quên, không thể quên bổn phận và trách nhiệm lau giày,
chùi súng.
Tôi mang
giày số 5. Thay đôi giày đế da, có đóng hai con
đĩa sắt sau gót, đôi botte
de saut quả đă làm nặng bước chân rất
nhiều. Nhưng nó đă trở nên một người
bạn rất thân thiết của tôi. Chăm sóc nó đă
trở nên một công việc hằng ngày. Lơ
đễnh một chút, nó tặng ngay cho những buồn
bực. Tôi không nhớ, và h́nh như cũng chưa chú ư,
những đôi botte de saut
của quân lực Việt Nam Cộng Hoà được
sản xuất từ đâu. Nhưng biết chắc
một điều, loại da giày này rất tốt.
Để tránh những cái hít đất, nhảy xổm
bất ngờ, tôi luôn luôn cho đôi giày của ḿnh
hưởng một chế độ săn sóc ưu tiên.
Sạch sẽ chưa đủ,
phải bóng láng ngon lành mới chắc ăn. Giày
đứng trong tủ, lâu lâu tôi ngó chừng, lỡ hạt
bụi nào rắn mắt bay qua th́ mệt. Giày đang ở
dưới chân, đi qua vài chặng, tôi ḍm chừng. Có chút
ǵ phải ḷng theo gót, tức th́ tôi dừng lại, cúi
xuống xử lư kịp thời, liếc qua liếc
lại, ok mới tiếp tục lên đường. Và
dĩ nhiên tôi không quên câu lời dạy vàng ngọc “Súng Là
Vợ, Đạn Là Con”, nên rất tận t́nh với
khẩu garant M1 nặng ch́nh
chịch của ḿnh. Săn sóc, bảo vệ lâu ngày trở
thành một cái ghiền rất nghệ thuật. Chùi súng,
không phải chỉ làm sạch nhan sắc bên ngoài mà phải
bảo tŕ cả hệ thống điều hành bên trong
từ cơ bẩm đến những đường
khương tuyến. Làm sạch ṇng súng thường
được gọi là “thông ṇng”. Trong mọi động
tác của việc chùi súng, tôi thích nhất là thông ṇng. Xin các
bạn đừng hiểu lầm việc thông ṇng khi
về Sàig̣n, dĩ nhiên cũng thích thú không kém. Là sinh viên
sĩ quan, dù trừ bị Thủ Đức hay hiện
dịch Đà Lạt, tôi nghĩ việc chùi súng, đánh
giày, nhổ cỏ là chuyện đương nhiên, không nên
quá chua chát như người bạn thơ Thái Luân của
tôi:
Học máy bay đổ
bộ
học bắn phá núi
rừng
học đánh giày, nhổ
cỏ
làm tên lính Việt Nam...
(thơ Thái Luân )
Tự
biết ḿnh khó hoàn thành tốt những h́nh phạt, nên tôi
luôn luôn cố gắng giữ đúng nội qui, kỷ
luật của nhà trường. “Nh́n Quân Phục Biết
Tư Cách”, “Thao Trường Đổ Mồ Hôi Chiến
Trường Bớt Đổ Máu”...không học mà vẫn
thuộc ḷng. Tôi nghiêm túc, gương mẫu đến
như thế này: ra mền trên giường ngủ
luôn luôn thẳng ngay v́ chẳng mấy khi tôi
đắp, ngại mai dậy sẽ phải làm lại.
Không đắp, th́ chỉ cần vuốt quanh mấy cái là
ngon lành như cũ Mũ áo trong tủ luôn luôn chỉnh
tề. Đầu dây biểu chương, bút nịt bóng
lấp lánh. Nhỏ nhẹ, tế nhị với
đồng đội, tôi an phận làm một anh lính cù
lần thứ thiệt. Cái ghiền làm thơ, viết
lăng nhăng của tôi cũng được giữ kín
đáo, nếu không có ông đàn anh khóa 23, Mê Kung (nhà thơ
Phan Nhự Thức sau này), liên tục đến ve văn. Xin
thành thật cảm ơn người này. Nhờ bạn,
bây giờ tôi mới có vốn, viết thêm một đoạn
nữa về quân trường của chúng ta. Tôi xin
được nói đến tờ Bộ Binh và những
bằng hữu “Huynh Đệ Chi Binh” của tôi.
Nguyệt san Bộ Binh, trong mục đích khiêm
nhường, có lẽ chỉ nhằm phổ biến
những thông tin quân sự, truyền đạt những
nội qui, thông cáo có liên quan trực tiếp hay gián tiếp
đến cơ sở giáo dục quân sự này. Nhưng
nhờ vào nhiệt tâm, sự sáng suốt của những
người có trách nhiệm, chăm sóc đi trước,
đă biến tờ Bộ Binh thành một tạp chí không
thiếu bóng dáng văn học nghệ thuật.
Giai
đoạn tôi được đến với Bộ
Binh, những người nặng ḷng, nặng trách
nhiệm với tờ báo có thể kể: (xin lỗi tôi
không thể nhớ đầy đủ họ tên)
đại úy Mục, đại úy Phán, trung úy Ư Yên,
Thiếu úy Liễu (họa sĩ Trịnh Cung) và một
số sinh viên khóa đàn anh như Mê Kung, Hồ Minh
Dũng...Đồng khóa tôi, hết ḷng với nguyệt
san, xin điểm danh, không theo thứ tự ưu tiên nào:
Sinh viên
sĩ quan (SVSQ) Cao Đ́nh Vưu, tốt nghiệp
Đại học Sư Phạm, giáo chức, đă và
đang thành danh nhà thơ qua các tạp chí văn học
tại Sài G̣n, dưới bút hiệu Cao Thoại Châu. Cao
Đ́nh Vưu không đến quân trường Thủ
Đức để “Mời Em Uống Rượu”, anh
đến đây để trở thành một chuẩn úy
Địa Phương Quân sau này. Vưu hiện sống
tại Sài G̣n.
SVSQ
Trần Bích Lan, nh́n bề ngoài, anh là một người
lính lè phè, có đến vài tuần mặc đồ
thường dân trong quân trường v́ quân phục chưa
sửa kịp cho thích nghi với cái bụng tầm cỡ
của anh. Nhà thơ “Áo Lụa Hà Đông” Nguyên Sa này
đến Thủ Đức để khám phá sức
nặng của một khẩu Garant
M1, Sức nặng đó chính là xương máu, tấm
ḷng cùng sự hy sinh cao quí của những người lính
bảo vệ quê hương mà lâu nay anh chưa
được biết đến. Những “Tuổi 13”.
“Paris Có Ǵ Đẹp Không Em”...tuyệt hảo, nhưng “Xin
Lỗi Về Những Lỗi Lầm Dĩ Văng”. “Bây
Giờ”...đâu có thua sút, nếu không muốn nói thắm
đượm t́nh người một cách chân thật.
SVSQ
Trần Quí Sách, với một cơ thể khiêm
nhường da thịt nhưng sức làm việc của
anh thật đáng nể. Tên đă đẹp, bút hiệu
không kém: Trần Hoài Thư. Anh đă thành danh qua các tác
phẩm “Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang”.
“Những V́ Sao Vĩnh Biệt”...tiếp tục đến
với Bộ Binh bằng những trang “Nhật Kư Quân
Trường”, tiếp nối Mê Kung Nguyễn Văn Minh.
Trần Qúi Sách là người thủy chung với quân
đội Việt Nam Cộng Ḥa, nói chung, với Bộ
Binh Thủ Đức, nói riêng. Anh đă có một tác
phẩm viết về ngôi trường mẹ của anh:
“Thủ Đức Gọi Ta Về”.
SVSQ
Phạm Văn B́nh, người tầm thước, có màu
da ăn nắng, anh là một người làm thơ kín
đáo, nhưng đă có một bài thơ để
đời qua tài phổ nhạc của nhạc sĩ Phạm
Duy, ca khúc “Chuyện T́nh Buồn”. Ra trường Phạm
Văn B́nh phục vụ trong binh chủng Thủy Quân
Lục Chiến. Hiện nay anh ở Hoa Kỳ.
SVSQ Phạm Hoàng, họa
sĩ chuyên về tranh lụa, anh đă đóng góp phần
trang điểm cho khuôn mặt Bộ Binh thêm đậm
đà hương sắc. Hiện nay Phạm Hoàng
định cư tại Hoa Kỳ, vẫn tiếp tục
sinh hoạt hội họa.
SVSQ
Lưu Trung Khảo, một nhà mô phạm, bạn thân
với nhà thơ Nguyên Sa, nhưng vóc dáng đối chọi
hoàn toàn. Vào quân trường anh không quên mang theo cái tác phong
“ông thầy”. Cùng với SVSQ Trịnh Kim Đồng, anh giúp
tờ Bộ Binh nặng thêm tính chất văn học qua
những bài biên khảo. Hiện nay, Lưu Trung Khảo
ở Hoa Kỳ, thỉnh thoảng qua hộp thư hotmail, tôi thấy anh góp bài
tranh luận nhiều vấn đề cộng
đồng, trong một số diễn đàn (tôi không tham
gia vào những diễn đàn này).
SVSQ
Trần Sơn Hà, trắng trẻo, mập mạp, cũng
là bạn chơi với nhà thơ Nguyên Sa. Nghe nói anh là
một luật sư, rất tiếc tôi chưa có dịp
tṛ chuyện với anh. Nghe nhà văn Song Thao nói, hiện nay
anh ở Hoa Kỳ.
SVSQ
Trần Văn Dưỡng, người miềm Trung, cao
ráo vui vẻ, bút hiệu hiện nay của anh là
Vương Trùng Dương, trong năm 2004 anh cho phát hành
tác phẩm: “Ngẫm Chuyện Nhân Sinh” tại Hoa Kỳ.
SVQQ
Nguyễn Thanh Ngân, dân trường tây ở Tourane, bạn
thân của nhà phê b́nh Đặng Tiến, anh mang “Con Rùa
Chậm Tiến” (danh từ này có từ huy hiệu của
binh chủng Điạ Phương Quân, không có tính cách châm
biếm, tôi nhắc lại như một kỷ niệm
trong quân ngũ, v́ đây cũng là một cụm từ
rất quen thuộc trong đám huynh đệ chi binh chúng
ta) trên tay áo sau khi rời trường.
SVSQ Lâm
Chương, nhà văn lỗi lạc hiện nay tại
hải ngoại, có lẽ chưa được dịp
“Đi Giữa Bầy Thú Dữ”, nên lúc bấy giờ anh
chuyên về làm thơ và...uống rượu. Không rơ
nhuận bút của Bộ Binh trả cho anh bằng những
ngày đi phép cuối tuần có giúp anh t́m được
một bóng hồng nào không? (SVSQ Thủ Đức 2
tuần mới được ra phép một lần vào
cuối tuần).
Sẽ
không được thành thật nếu không nói một chút
cái tôi, nhưng để trung trực, xin được
trích dẫn một đoạn viết của anh Lâm
Chương:
“ ...Năm 1966, lần đầu tiên
tôi gặp Luân Hoán trong quân trường Thủ Đức.
Cao Thoại Châu giới thiệu một anh chàng rụt rè
như con gái, bảo đấy là nhà thơ Luân Hoán. Tôi
hơi ngỡ ngàng trước một Luân Hoán hoàn toàn khác
với tưởng tượng của tôi. Thời gian
đă xa lắm rồi, tôi không nhớ chúng tôi đă nói
những ǵ trong lần gặp đó. Vài lần sau, tôi
đến chơi với một người bạn cùng
đại đội với Luân Hoán. Thấy tôi, anh
mỉm cười thay thế một lời chào. Chỉ
vậy thôi. Không quấn quít ba hoa chích choè. Cuối tuần,
anh em văn nghệ hay lên pḥng chiến tranh chính trị
họp bàn về tờ Nguyệt san Bộ Binh Thủ
Đức. Luân Hoán ít khi xuất hiện ở đây. Tôi
ham vui, cũng léng phéng tới chơi nhưng không biết
nói ǵ, nên ra đứng ngoài hiên hút thuốc. Có lẽ
thấy cái mặt tếu của tôi phù hợp với
giọng thơ Luân Hoán nên có người lầm
tưởng. Nhà thơ Nguyên Sa theo ra ngoài vỗ vai tôi (một
cử chỉ thân mật của bậc đàn anh ưu ái
dành cho bọn đàn em) và hỏi, cậu là Luân Hoán
đấy à ? Thơ cậu có sắc thái đặc
biệt lắm đấy. Người ta chỉ biết
danh Luân Hoán, không ai biết đến tên tôi. Trong một lúc
bốc đồng, tôi cũng muốn mạo nhận ḿnh
là Luân Hoán cho thiên hạ nể. Nhưng ở quân
trường tới lui qua lại hoài, có ngày cũng bị
lật tẩy th́ c̣n có nước độn thổ. Tôi
đành nói thật, tôi không phải Luân Hoán. Tôi là Lâm
Chương. Nghe tên tôi, Nguyên Sa tỏ vẻ thất
vọng nói, à...thế à ? Rồi mỉm cười bỏ
đi. À...thế à là thế nào ? Rơ ràng là nói cho có nói vậy
thôi, chứ không muốn bắt chuyện. Tôi đứng
hụt hẫng và...buồn 5 phút. Cái danh lợi hại
thật. Người ta có cảm t́nh hay không cũng v́ cái
danh. Vô danh mà muốn chơi trội, khó lắm. Mạo
nhận lại càng nguy hiểm..”.
( Lâm Chương, trong “Luân Hoán
Một Đời Thơ”).
Bên
cạnh những người bạn sính văn
chương trên, tôi c̣n có rất nhiều bằng hữu.
Tiện đây, xin phép cho tôi lược nhắc đến
một số đồng đội một thời:
Nguyễn văn Bé, giáo chức, người
miền Nam, hiền lành, là người có tuổi lớn
nhất trong chúng tôi. Vơ Ngọc Bé, người miền Nam,
anh thuộc nhóm volontaire, cao
lớn như người Mỹ, nghe nói sau này anh vinh
thăng đến Trung tá. Nguyễn Tấn Đỡm,
người miền Nam, hơi lầm ĺ. Nguyễn Anh,
người miền Nam, trắng trẻo như công tử
bột. Nguyễn Văn Được, người
miền Trung, rất malin, có
nhiều lần uống café cùng tôi ở câu lạc bộ
Thanh Hoa trong trường. Nguyễn Văn Diên, “dân” Phan Châu
Trinh Đà Nẵng, thuộc nhóm volontaire,
vui vẻ, nhanh nhẹn đă cùng tôi và Mai Xuân Châu bát phố
Sài G̣n trong nhiều lần ra phép. Trần Mỹ Lộc,
người miền Trung, cao lớn, đẹp trai, từ
chối không chuyển qua Không Quân ở đầu giai
đoạn 2, là một trong những người tử
trận sớm nhất của khóa 24. Trương Hưng
Hiểu, người miền Nam, loắt choắt, có khuôn
mặt ngộ nghĩnh như danh hề Tùng Lâm và biệt
tài gây cười chưa chắc thua danh hề này. Mai Xuân
Châu, người Huế, nằm ngay phía dưới tôi,
tốt bụng, vui tính, từng theo tôi về Sài G̣n trong các
dịp đi phép. Nguyễn Văn An, người miền
Nam, giáo chức, rất ḥa nhă. Nguyễn Minh Châu,
người miền Nam, rất yêu đời, chuyên viên nghe
radio loại bỏ túi. Lê
Văn Chỉ, người miền Trung, chăm chỉ,
sợ kỷ luật, thuộc loại cù lần như tôi.
Nguyễn Đường, người miền Trung, cao và
gầy, hơi vụng về, lóng cóng trong những lần
thực tập. Nguyễn Văn Pháp, người Đà
Nẵng, giáo sư trung học và là người dạy kèm
cho các đứa con của “khúc ruột dư” trung
tướng Hoàng Xuân Lăm. Ra trường anh làm sĩ quan liên
lạc Việt Mỹ. Ông thầy Pháp này hiện vẫn ở Việt Nam.
Châu Văn Tùng, người bạn chí thân của tôi. Anh
đă trễ chuyến bay C130 ngày nào, đành phải vào
trung tâm huấn luyện Quang Trung 3 tháng, trước khi
chuyển đến trường Bộ Binh, học
tiếp giai đoạn hai. Tùng phục vụ tại sư
đoàn 2 BB rồi sư đoàn 3 BB trước khi giải
ngũ có lănh chiến thương bội tinh. Hiện anh
vẫn ở Đà Nẵng. Huỳnh Châu, hỗn danh Tê Tê
Quách, người gốc B́nh Định, tỵ nạn
tại Porland OR, Hoa Kỳ năm 1992 có gọi thăm tôi, và
không quên nhắc tiếng kêu của con chim “bắt cô trói
cột” rất nhiều ở vùng quê anh. Nguyễn Minh
Huấn, định cư tại Philadelphia Hoa Kỳ,
năm 1998 bất ngờ gởi tặng tôi tấm ảnh
của chính tôi mặc quân phục đại lễ, mà anh
cất giữ sau 32 năm...
Bằng
hữu trong thời ở Khu Bưu Chính bốn ngàn, một
trăm (KBC 4100) của tôi không chỉ giới hạn
những nhân vật vừa nêu trên. Tôi c̣n hàng trăm
chiến hữu khác. Tất cả những người
cùng trung đội, cùng đại đội, cùng tiểu
đoàn, cùng liên đoàn, tóm lại cùng khóa đều là anh em
của tôi. Lời nói này có vẻ khoác lác, làm dáng, nhưng
giải thích thế nào về nỗi nhói ḷng của tôi, khi
được tin một bạn đồng khóa tử
trận. Đă từ lâu tôi ao ước có trong tay một
bản danh sách Sinh viên Thủ Đức khóa 24 với
đầy đủ những thông tin, ai c̣n ai mất, ai tàn
phế ra sao, dù chẳng biết để làm ǵ. Xin thân ái
gởi lời chúc sức khoẻ đến tất cả
các đồng đội của tôi, những ông chuẩn
úy trong năm 1967. Tôi tin vẫn c̣n hiện diện rất
nhiều trên trái đất này. Không quên thăm gia đ́nh
các bạn.
Khóa 23
của Mê Kung Nguyễn Văn Minh ra trường.
Trước khi từ giă trường mẹ, Mê Kung và các
bạn trong ban biên tập tờ Bộ Binh, tổ chức
một đêm uống chia tay dưới khu gia binh Thiết
Giáp. Tôi có mặt trong đêm hôm đó, và là người
đại diện khóa 24 tiếp chiêu rất ra tṛ với
khóa đàn anh. Tửu lượng tôi không cao, không phải
là tay nhậu thứ thiệt như Lâm Chương,
nhưng khi nóng máy cũng rất hết ḿnh. Đêm đó
đối thủ của tôi gục ngay tại bàn, một
điều “khó tin nhưng có thật”. Tôi cũng không
hiểu tại sao ḿnh c̣n đủ b́nh tĩnh và hơi
sức ṃ về tới pḥng, leo lên được
giường ngủ. Nhưng chỉ vài phút sau, tôi nghiêng
đầu xuống chỗ nằm của Mai Xuân Châu và không
cưỡng được nôn mửa. Gần nửa trung
đội bị đánh thức. Nhiều bạn nhiệt
t́nh chăm sóc cho tôi, tội nhất là Mai Xuân Châu. Mặc dù
say, tôi vẫn tỉnh táo, nhắc nhở Châu làm vệ sinh
cẩn thận. Tôi hoàn toàn vô sự sáng hôm sau dù trong
miệng c̣n nặng mùi rệp chết, hương vị của rượu Rhin sau khi đă uống quá
sức ḿnh.
Khóa 23
đi, chúng tôi trở thành khóa đàn anh. Chương tŕnh
học có vẻ nhiều hơn nhưng xem chừng thong
dong ra. Ngoài giờ học chúng tôi hưởng
được những “giờ tùy quyền” đúng
nghĩa. Tôi bắt đầu viết thư t́nh giúp cho
một số bạn vừa bắt được “ḅ
lạc”. Nội dung những lá thư ong bướm như
vậy thường được tôi thi vị hóa
cảnh quân trường, băi tập, lồng vào những
chút dáng dấp “suy tư thời đại” cùng những
sở thích “hợp thời trang” bấy giờ:
Mê nhạc của họ Trịnh
thích tiểu thuyết
hiện sinh
thương cuộc
đời lính chiến
thích giọng Mai Lệ
Huyền
có khuynh hướng
phản chiến
thích thơ Thanh Tâm
Tuyền...
(Trôi Sông)
Không hiểu những bức
thư chẳng giống ai đó có kết quả thế
nào, mà “khách hàng” của tôi tăng thêm, khiến tôi phải
đặt điều kiện: chùi súng giùm tôi đó nghe !
Đi lấy bánh ḿ sáng cho trung đội nhằm phiên tôi
được không ? Thậm chí có bạn c̣n hứa bao luôn
hai giờ gác đêm cho nữa. Viết thư t́nh giúp
bạn nhưng riêng tôi không lượm được con
“ḅ lạc” nào. Vài ba lần trên đường Lê Lợi,
trên đường Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Hai
Bà Trưng...tôi giật ḿnh nghe gọi đích danh ḿnh. Ngó
lại vài ba bóng hồng cụm đầu vào nhau khúc khích.
Hóa ra bảng tên trên túi áo, làm ḿnh bâng khuâng. Thật ra
những lần về phép như vậy tôi cũng
thường được chuyện tṛ với vài bông hoa
mượt mà trong quan hệ bà con bên vợ xa xa. Và cũng
đôi phen nhúng ḿnh vào ít giờ bay bướm ở đâu
đó, nhất là những lúc ngao du cùng Châu Văn Tùng
Cuối tuần được về phép
trước nhà thờ
Đức Bà
gởi bao lời xưng
tội
qua bước em thiết
tha
đi quanh trường
Trưng Vương
quyết chọn một
người thương
ngang dọc ḷng chấm điểm
thôi đành, chọn cả
trường
(Cảm ơn đất đá trổ thơ...)
Dễ
tính và lăng mạn đến như vậy, nhưng tôi
vẫn chỉ viết thư t́nh cho thiên hạ. Nhiều
lúc bực ḿnh, tự phụ:
Lần nào ta soi
gương
cũng thấy ḿnh dễ thương
tại sao em không thấy
chẳng lẽ em bất
thường
(CƠĐĐTT)
Mà gái Sài G̣n trong thập niên 60 h́nh như
bất thường thật !
Một
kỷ niệm vui khác đáng nhắc ở quân
trường rơi vào giờ tắm rửa. Những
hồ chứa nước ở quân trường
được đúc bằng ciment
theo h́nh chữ nhật khá lớn. Tuy vậy nguồn
nước không nhiều. Vào những giờ đi băi
về, tất cả sinh viên tùy khu vực, ùa
ra làm vệ sinh thân thể. Tắm là
việc không thể thiếu. Và chuyện tồng ngồng
cũng là điều b́nh thường của nhiều sinh
viên. Tôi vốn hay mắc cở, luôn luôn phải có trên ḿnh
cái quần đùi-không-cửa-sổ, màu trắng rất
dễ hóa thành giấy gương khi gặp nước.
Những buổi tắm như vậy thật là vui.
Bạn bè tôi nô đùa tự nhiên như trẻ thơ.
Họ so sánh, họ biểu diễn cái món “ăn vô cho thấu bụng nàng, thực bất tri
kỳ vị mới biết của chàng là ngon” (ca dao
Quảng Nam). Có lần tôi phải giật ḿnh về anh
chàng Trương Hưng Hiểu. Với chiều cao hơn
thước năm chút đỉnh, nhưng sao cái “chiếc
gậy thần” của anh lẫm liệt quá chừng
chừng, vượt hẳn toàn trung đội. Thật
đúng như tục ngữ “nhỏ người to con
mắt”. Cũng do tắm rửa, có lần tôi suưt
choảng lộn với bạn cùng trung đội La
Lưu Ư. Anh này vui nhộn cả ngày, gặp ai cũng
nghịch được. Lần đó anh bất ngờ
tuột cả cái quần-không-cửa-sổ của tôi.
Phản xạ tự nhiên của tôi được
Trần Mỹ Lộc can thiệp kịp thời. Không
biết bây giờ La Lưu Ư ở đâu, có bớt mập
đi chút nào chưa ?
Ngày tháng
quân trường lặng lẽ đi qua. Học pḥng
rồi học băi, nhưng thời gian nghỉ ngơi
thư giăn vẫn không thiếu. Nhờ đó tôi
thường ra vào các câu lạc bộ sinh viên. Trong một
lần uống cà phê với Châu Văn Tùng, tôi đọc
được hai câu thơ rất cảm động,
kẻ bằng chữ in lớn trên tường câu lạc
bộ:
Một con ngựa trắng về trời
Hai hàng quân đứng ngậm ngùi tiễn
đưa
(không rơ tác giả)
Tác
giả hai câu này có lẽ là một khóa sinh thuộc một
trong những khóa đàn anh của tôi. Tôi đọc
bằng mắt, tôi đọc bằng cả tấm ḷng.
Cảm thấy thật gần gũi với người
viết. Và không quên vớ vẩn nghĩ lung tung. Trong khuôn
viên một quân trường sĩ quan có tầm cỡ
của Đông Nam Á, lại có một câu năo ḷng đến
như vậy nhởn nhơ trước những suy ngẫm
của mọi người. Lạ. Nhưng không lạ.
Bởi Tự do được thể hiện ngay trong cách
suy nghĩ, cách bày tỏ xúc cảm. Không có chuyện
kiểm duyệt, cấm đoán v́ sợ làm nhụt chí khí
binh sĩ. Tự do vẫn là không khí đang nuôi
dưỡng chúng tôi.
Sau
những giờ học, tôi dành thời gian đi dạo
nhiều hơn. Những hàng cây trên các ngả
đường trong quân trường dường như
cũng thân mật, đậm đà với tôi. Tôi nghe
được gió thầm th́, cả tiếng chim hót.
Sự chuyển ḿnh nhẹ nhàng của ḍng mây trên trời
cao thoáng chạm vào ḷng tôi. Tôi chợt phát hiện nơi
đây thật là đẹp, thật đáng lưu
luyến. Chính những lúc này tôi mới nh́n rơ mặt
cổng số 1, mặc dù tôi có lần đă cùng cây garant đứng gác cổng.
Khu tiếp tân mà giai đoạn một tôi thường
đi t́m một con ḅ lạc cuối tuần hơn là
chờ đón một thân nhân, giờ đây như nhỏ
lại, ấm hơn. Chợ Nhỏ Tăng Nhơn Phú ngoài
kia không thiếu những đôi mắt biết
cười, biết nhớ nhung, đang đợi chờ
đâu đó.
Khóa 25
nhập học, chúng tôi, hay ít nhất riêng tôi, không thực
thi quyền hạn làm anh bao giờ. Tôi có người
bạn thơ đi khóa này. Anh Thành Tôn, một kẻ
từng Thắp T́nh, từng Thuyết Giáo cho t́nh
người, t́nh quê hương. Tôi nghe nói c̣n nhiều khuôn
mặt sinh hoạt văn học nghệ thuật khác
nữa, nhưng tôi không đi t́m, không làm quen. Bản tính tôi
kém xă giao. Sự kín đáo, nhỏ nhẹ của tôi có
thể là cái duyên để tôi tránh được những
h́nh phạt xảy đến cho ḿnh bất cứ lúc nào, từ
thiếu úy Mến, thiếu úy Hoàng, thiếu úy
Tốt....những vị sĩ quan hướng dẫn
đại đội 5 của tôi.
Suốt 9 tháng tại quân trường ngoài những
lần bị phạt tập thể cả trung
đội, cá nhân tôi chưa hề hít đất, nhảy
xổm hay một h́nh phạt nào khác. Tôi không có cơ
hội vào 301, nơi an dưỡng của các anh chàng có chút
máu ba gai. Nhận xét thật thà, ở giai đoạn 2, tôi
khá lè phè. Không ít lần tôi nại cớ công việc báo chí
để tránh những công tác của đại
đội “lặn” đi lang thang.
Năm
ba lần, trung tá Soạn, anh của Lư, chở tôi đi phép
trở về trại, vài lần chú em họ tôi,
đại úy Tham tạt qua thăm, có lẽ cũng giúp tôi
tạo được ít nhiều ấn tượng tốt
trong những đánh giá. Sự thương quí của các
đại úy Mục, đại úy Phán ở Khối
Chiến Tranh Chính Trị, có lẽ đă giúp tôi có thứ vị,
phải nói là rất cao trong danh sách ra trường, mà
đúng khả năng tôi không đạt tới.
Tôi chọn về sư đoàn 2 Bộ Binh
v́ giữ đúng lời hẹn cùng một số bằng
hữu. Lẽ ra tôi có chỗ tốt hơn, nếu xem tên
những đơn vị ghi sẵn c̣n bỏ trống trên
bảng. Thiếu úy Mến, người đưa
đại đội đi chọn đơn vị hôm
ấy, đă ngạc nhiên sau bàn tay ghi tên của tôi. Nói cho
ngay, biết chỗ nào là tốt, chỗ nào là xấu. “Ra khỏi nơi này sẽ
gặp nghĩa trang”. Đă bi quan một cách quá đáng
như vậy c̣n ngại ǵ một địa danh gần
với quê nhà ?
Chờ
đợi từng ngày cuối cùng cái giờ phút từ giă
quân trường cũng đă đến. Tôi rời vị
trí chọn đơn vị với tâm trạng ngổn
ngang. Tiếc hối không nhiều, nhưng buồn quá
đỗi. Tôi lang thang qua nhiều ngă đường.
Tưởng đă khóc được trước Trung
Nghĩa Đài. Phân vân sờ tay lên mặt bia, tôi thèm
gặp một ai đó xa cách vời vợi. Vũ Đ́nh
Trường rộng quá, đầu gối của tôi
từng qú nơi đây. Gót chân của tôi từng trải
lên mặt nhựa này. Trong khoảnh khắc một vài
đường phố Sài G̣n chờn vờn trước
mắt tôi. Hoá ra tôi từng được đi trong hàng
quân diễu hành đến đinh Độc Lập
để mừng ngày tướng Thiệu, Tướng
Kỳ gánh tránh nhiệm với non sông. Tôi t́m tới
đại giảng đường. Căn nhà to lớn
sườn sắt mái tôn, ḷng trống rỗng. Tôi sờ
lên vai ḿnh t́m chiếc ghế ngày nào đă cơng đến
đây để ngồi nghe huấn lệnh. Lại
đi. Buồn bă quá tôi ngồi xuống bên chân một
bức tượng của họa sĩ Lê Thanh, cùng khóa tôi,
để lại cho trường. Ngoài Lê Thanh c̣n
tượng của Đỗ Toàn nữa. Những sinh viên
khóa 24 thật tài hoa. Tôi tự cảm ơn ḿnh đă
được có mặt trong quân trường này một
thời gian. Lại nghĩ đến cổng số 9,
nghĩ đến cầu Bến Nọc ngoài kia, nơi
một vài đồng đội của Thành Tôn, Vũ Thành
An...đă đổ máu. Cũng như moị người
khác, tôi đă bất lực dù có mặt trong thời
khắc đó với khoảng cách chẳng bao xa. Nếu
nhanh chân hơn một chút, đại đội của
chúng có lẽ đă nhận cái tṛ chơi không mấy
sạch sẽ đó của những người anh em bên
kia chiến tuyến.
Tôi
vẫn dạo bước, thật sự bịn rịn
sẽ phải rời xa nơi này, nơi chín tháng qua tôi
từng ngày mong ra khỏi. Nỗi ám ảnh về bài
thơ viết cùng Cao Thoại Châu cứ theo bám bên tôi. Tôi
quên hẳn Châu Văn Tùng, Nguyễn Văn Pháp, Trần
Mỹ Lộc đang chờ. Và cũng không biết trong
giờ phút đó Lâm Chương cùng những bạn khác
chạy t́m tôi để uống rượu lần sau cùng
với quân trường.
Tôi đă ra đi thật
rồi. Cổng số 1 như có đôi mắt, biết
nh́n theo, tôi không bước đều theo hành khúc Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn...Nhưng
nóng cả cơ thể với lời nhắn gởi chân
t́nh...Cư An Tư Nguy luôn
nhớ đời...
Trường
Bộ Binh Thủ Đức thân yêu của tôi, hậu thân
của trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam
Định, ra đời năm 1951. Qua bao thăng
trầm, biến động của lịch sử, đă
thật sự khép lại một trang đời anh dũng
với gần 70 khóa, đào tạo hơn 55 ngàn sĩ quan
trừ bị cho quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Là
cựu sinh viện sĩ quan, đă biết đổ máu
cho chính nghĩa, cho tự do, chúng tôi không giấu những
tự hào của ḿnh. Chúng tôi vẫn là những
người chiến thắng trong cuộc chiến bảo
vệ t́nh người, bảo vệ nhân phẩm. Chúng tôi
xin thành thật cảm ơn nhà cầm quyền Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam đương thời, đă
dần dần học được những bài học
từ chúng tôi, trước nhất là sự khoan dung và tha
thứ. Chúng tôi cũng tin tưởng, chủ nghĩa
độc đảng học từ ngoại bang lỗi
thời, có ngày biết sinh hoạt b́nh đẳng với
các tổ chức đảng phái khác, với mục
đích đem tự do no ấm cho nhân dân.
Bây giờ, đúng 11 giờ 31 phút, thứ năm, 08 tháng 12 năm 2005, Montréal, nắng đẹp. Nhiệt độ bên ngoài pḥng tôi 13 độ âm (-13C). Tôi đang có trước mặt một số h́nh ảnh chụp từ thời ở KBC 4100. Nh́n anh chàng Lê Ngọc Châu mặc đồ đi phép, đầy đủ cà vạt đen, dây biểu chương vàng, alpha, casquette...đầy thơ ngây thật là thương .