Thái Tú Hạp

 

 

          "Sinh tháng 4-1940 tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Trước 1975, Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Đơn vị cuối cùng: Pḥng tâm Lư Chiến Quân Đoàn I (bản doanh tại thành phố Đà Nẵng - TTPL ghi chú) Sau tháng 4-1975 đi tù nhiều năm tại Kỳ Sơn Quảng Nam. Nhờ vợ là người Hoa làm đơn bảo lănh về địa phương để "hưởng ân huệ tống xuất ra khỏi Việt Nam" theo chính sách bài Hoa Kiều kịch liệt trên toàn lănh thổ Việt Nam năm 1978. Tôi thường gọi đùa " Thoát nạn qua kẽ hở lịch sử". Trong thời gian chờ đợi thủ tục dâng hiến tài sản tại địa phương, tôi đă đi xe thồ, làm công nhân hợp tác xă Quế ở Đà Nẵng. Sau đó vượt biên đến trại tỵ nạn năm 1980. Học Graphics Design & Printing hai năm. Phụ giúp vợ về các dịch vụ thương mại đại diện in lịch từ Hồng Kông, Đài Loan, mở nhà hàng Doanh Doanh ở gần Chinatown, Los Angeles kiếm sống qua ngày. Cuối cùng do bạn bè thúc đẩy và khuyến khích từ tinh thần đến vật chất nên vợ chồng tôi đứng ra làm báo Saigon Times. T́nh trạng gia đ́nh: Hai trai và một gái. Hiện cư ngụ tại vùng Rosemead, Los Angeles, California, Hoa Kỳ"

          Trên đây là "sơ yếu lư lịch" được chính nhà thơ Thái Tú Hạp trả lời nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh trong một bài phỏng vấn dài chừng bốn mươi câu, in lại trong tác phẩm "Thái Tú Hạp" do Sông Thu xuất bản năm 1999.

          Loạt phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh rất qui mô, bao gồm hầu hết các tác giả đă thành danh của Việt Nam hiện ở khắp thế giới. Chủ đề chính trong các câu hỏi của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, xoay quanh trong sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, bao gồm nhiều bộ môn thơ, văn, hội họa, âm nhạc...đi kèm với vài nét đời sống riêng của mỗi tác giả. Tài liệu quí hiếm này, một số lớn đă được đăng tải trên các tạp chí văn học tại hải ngoại, và trong tương lai chắc sẽ được ấn hành thành sách.

 

          Với những "sơ yếu" như trên, hẳn nhiên chưa được đầy đủ, và v́ cuộc chuyện tṛ giữa hai nhà thơ khá dài, chúng tôi không tiện đánh máy "nguyên con", nên xin được dựa vào đó, cùng một số bài khác trong "Đọc Thơ Thái Tú Hạp", để ghi thêm vài nét:

          Ngay từ thiếu thời, Thái Tú Hạp đă tham gia trong nhiều sinh hoạt tập thể. Tại Hội An anh là một huynh trưởng trong gia đ́nh Phật Tử. Giáo lư nhà Phật đă đến với anh trong giai đoạn này, để mở ra những tích cực hoạt động xă hội của anh hiện nay tại hải ngoại, đồng thời cũng là mạch nguồn của tư tưởng thi ca chính yếu và xuất sắc của Thái Tú Hạp.

          Bên cạnh sinh hoạt xă hội, Thái Tú Hạp đă sớm đến với "cuộc chơi văn chương chữ nghĩa". Anh khởi sự làm thơ và có thơ đăng báo từ năm 1956. Trong giai đoạn đầu của cuộc chơi này, liên tục, kéo dài đến năm 1975, Thái Tú Hạp tŕnh diện với độc giả tại các nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san, tạp chí của miền Nam, từ Tự Do qua Thời Nay, Gió Mới...đến Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Nghệ Thuật vv...Ngoài việc "làm thơ để chạy nhật tŕnh” Thái Tú Hạp đă cùng với các bạn văn khác tại Cổ Phố lập một bút nhóm, sinh hoạt rất đều đặn và để lại được một tuyển tập thi ca có tên T́nh Người Sông Thu với ba tác giả cùng thành danh sau này : Thái Tú Hạp, Thành Tôn, Hoàng Quỵ

          Thái Tú Hạp giă từ cuộc sống dân sự khá sớm, anh theo học khóa 15 trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau đó là những năm tháng dành cho các tiểu khu, trường Chính trị Đà Lạt và đứng lại lâu bền cùng thành phố Đà Nẵng với cấp bậc Đại úy, tùng sự tại pḥng Tâm lư chiến Quân đoàn I.

          Có lẽ để cứu văn t́nh trạng sa sút của Đà Nẵng như tôi thấy“...thư viện ốm đau, thư viện buồn buồn / đói sách vở sinh ra người rũ rượi...” (LH-RHĐR), trong thành phố chợt  mọc lên nhiều hội đoàn, sinh hoạt khá tích cực như: Hội Khổng Học của nhà thơ Trần Gia Thoại. Hội Hồng Thập Tự của Bác sĩ Huỳnh Tấn Đối. Và nổi bật nhất là hội Khuyến Học với các công tác đă làm: lập thư viện, mở lớp bổ túc văn hóa đêm, mở quán ăn cho học sinh nghèo, tổ chức diễn thuyết, triển lăm, ra mắt sách...Chủ tịch hội Khuyến Học là nhà văn Nguyễn Văn Xuân. Đệ nhất Phó chủ tịch, đặc trách văn hóa, nghệ thuật, nhà văn Duy Lam (trung tá Nguyễn Kim Tuấn). Đệ nhị phó chủ tịch, đặc trách xă hội, nhà văn Phan Du. Thái Tú Hạp tham gia trong ban chấp hành, bên cạnh thẩm phán Hồ Minh, bác sĩ Nguyễn Ngọc Lang, quản đốc nhà phát thanh Hoàng Quy, luật sư Hồ Công Lộ, nhà giáo Trần Đ́nh Thanh Lam, Giám đốc nha Kiểm duyệt vùng I chiến thuật Nguyễn Rô và nhiều người khác, h́nh như có cả tôi.

          Thái Tú Hạp sinh hoạt rất tích cực và một phần nhờ vào những công việc văn nghệ, Thái Tú Hạp đă thu hoạch được một cuộc t́nh lớn, chấm dứt cuộc đời độc thân. Khi đọc câu : "... Em Phan Thanh Giản bỏ đời theo anh"(TTH), xin quí vị hăy hiểu ngược lại. Đây chính là cái thi vị của thi ca, cái dễ thương của thi sĩ !

          Là một người cởi mở, chân t́nh, Thái Tú Hạp tạo được sự giao hảo tốt đẹp với hầu hết các bạn văn tại địa phương cũng như tại thủ đô Sài G̣n và các thành phố khác. Những bạn văn tại Đà Nẵng, thường thấy chơi thân với Thái Tú Hạp có: Duy Lam, Cao Bá Minh, Cao Mỵ Nhân, Thành Tôn, Hoàng Quy... và nhất là cặp họa sĩ Lâm Quang Phước, Trương Thị Trinh. Sau khi cùng tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Huế, họa sĩ Trinh dạy vẽ tại Đà Nẵng, trong lúc Phước gia nhập quân đội rồi cùng về phục vụ ở quân đoàn 1. Hai vợ chồng mở quán cà phê Lộng Ngọc, thu hút rất nhiều khách. Lâm Quang Phước là người vẽ và tŕnh bày b́a cho thi phẩm đầu tay của Thái Tú Hạp, tập “Thèm Về” xuất bản năm 1970. (họa sĩ Lâm Quang Phước vào nam đầu thập niên 80, sau đó một ḿnh anh bị thiệt mạng trong một lần vượt biên, chưa kịp ra khỏi địa phận Việt Nam). Riêng tôi, không nhớ rơ đă kết bạn với Thái Tú Hạp từ bao giờ. Trong bài viết: Luân Hoán, ông anh phía trước, nhà thơ Hoàng Lộc, ghi lại: ... “khoảng đầu thập niên 60, lần đầu tiên, tôi gặp nhà thơ Luân Hoán...Một hôm, anh Thành Tôn đưa tin: Luân Hoán sẽ ghé Hội An thăm các anh. Không biết các anh trong nhóm T́nh Người Sông Thu có hớn hở hơn tôi trước cái tin này ? Đồng bạc của học tṛ thật khó khăn, do các anh đóng góp- và lần thứ hai, sau khi đón tiếp Phan Duy Nhân, cũng là người thơ khá nổi thời ấy- ...”(LH-Một Đời Thơ, trang 52). Thật t́nh, tôi chỉ nhớ một cách mơ hồ, lần đầu tiên gặp các bạn thơ ở Hội An. Tôi cũng không ngờ cái chân t́nh đậm đà và cái eo hẹp tài chánh của các anh. Về sau, trong những chuyến về thăm Hội An, tôi thường gặp Thái Tú Hạp trong khuôn viên chùa Vĩnh Nghiêm. Có đêm tôi đă cùng Hạp ngủ lại trên sân gạch chùa này. “Đắp trăng nằm giữa sân chùa / gác chân nhau đọc thơ vừa ngát xanh / gà mừng ngày đă hát quanh / trở ḿnh lệch vạt sương vanh dáng nằm (LH-Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh).

          Hạp vừa trải qua một cuộc t́nh đẹp và lăng mạn. Nằm nghe anh đọc thơ và tâm sự quên cả ngủ. Tôi ngưỡng mộ và khâm phục Thái Tú Hạp về điểm “có người yêu” ghê lắm, nhưng không thấy anh lưu dấu cuộc t́nh nồng nàn của ḿnh trong thơ. Nội dung chủ yếu thơ của Hạp trong thời kỳ này vẫn là những bài ngợi ca quê hương.

          Từ năm 1969 đến năm 1978, tôi và Thái Tú Hạp có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Hạp đang ở rể trong gia đ́nh một cặp thương gia người Trung Hoa giàu có. Vợ anh là một người đẹp của trường trung học tư thục Phan Thanh Giản Đà Nẵng. Tôi và Lư thỉnh thoảng có ghé đến thăm vợ chồng Hạp. Thân mẫu chị Trần Ái Cầm là một người đàn bà rất tốt, sùng đạo Phật, lại có điều kiện tài chánh, nên bà đă góp công đức không nhỏ trong việc lập nên ngôi chùa Nguyên Thủy nằm trên đường Phan Châu Trinh. Tại ngôi chùa này, về sau mở thêm một trường tiểu học tư thục, do vợ Thái Tú Hạp làm hiệu trưởng. V́ ḷng nhân đạo, mẹ của chị Ái Cầm cũng thường xuyên vào nhà tù để thăm và giúp đỡ nhiều tội nhân, kể cả chính trị phạm. 

        

          Rạng sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975, gia đ́nh tôi từ cư xá Việt Nam Thương Tín trên đường Đống Đa, vội vă về nhà ba mẹ Lư thay v́ nhà riêng của chúng tôi trên đường Hùng Vương. Qua một đêm đợi tàu thất bại, tôi hoàn toàn tuyệt vọng và lo lắng vô cùng. Sống chết chưa biết ra sao. Tôi theo chân một đạu hữu Cao Đài, anh Phan Minh Khóa, vào trốn tại Thánh Thất trên đường Nguyễn Hoàng chừng mười phút. Sau đó bám theo thẩm phán Hồ Minh, vào Chùa Tỉnh Hội, lẫn lộn trong đám Phật tử. Nh́n thấy lực lượng “ăn theo” (sau này được gọi là cách mạng 30 tháng 4), lớn mạnh vùn vụt, tôi hoảng hồn lại chạy về nhà. Nhưng không có ḷng nào ngồi một chỗ với bao nhiêu tin xấu dồn dập đến, tôi chạy t́m Thái Tú Hạp, rồi cùng các bạn, Bác sĩ Vưu Nam Trân (hiện ở California), Luật sư Nguyễn Văn Nhất, lên cùng một xe, Trân lái, chạy ḷng ṿng thành phố, để tự trấn an. Mọi chuyện rồi cũng qua. Lệnh tập trung đă có. Hoàng Quy đến rủ tôi đi tŕnh diện. Trên đường đi, chúng tôi ghé quán ḿ Quảng mới mở gần nhà cô giáo An Hà Châu, đường Phan Châu Trinh. Trong lúc ăn tôi suy nghĩ và chợt đổi ư, để Hoàng Quy đi một ḿnh trước. Ông Quản đốc đài phát thanh buồn lắm nhưng bất lực. Băi trung tập đầu tiên “sĩ quan Ngụy” tại Đà Nẵng nằm trên một vùng đất tại Vĩnh Điện. Tuy không tŕnh diện ghi danh cùng lúc với Hoàng Quy, nhưng tôi cũng theo đám thân nhân vào thăm các bạn. Không khí lúc tôi đến thăm thật đáng lạc quan. Tôi đă có cảm tưởng  đây là một cuộc đi cắm trại qui mô. Mọi người đều có vẻ sẵn sàng “học tập” 15 ngày... để c̣n sớm về với gia đ́nh. Ngoài Thái Tú Hạp, tôi c̣n được gặp anh Hồ Minh, Thiếu tá Thẩm phán, một người bạn chân t́nh của tôi. Không ngờ lần đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Sự ra đi vĩnh viễn của Minh giúp tôi có thêm một bài thơ sau này. Nhà văn Tưởng Năng Tiến, một trong những người điều hành nguyệt săn Nhân Văn, trong một lá thư cho tôi vào năm 1985, có đoạn:

          ... “Cũng xin cảm ơn anh về bài thơ Ngủ Trên Đồi Xanh. Theo thông lệ th́ chúng tôi ‘không chịu đăng’ những bài thơ có đề tặng, thí dụ như chúng ta vẫn thường làm thơ tặng nhau trên báo. Riêng trường hợp của anh Hồ Minh th́ khác. Tôi thực tiếc là chúng ta đă không làm được ǵ hơn cho những cái chết tức tưởi, đau đớn của anh em đồng đội. Một bài thơ chí t́nh, cảm động, thay nén hương ḷng th́ vẫn c̣n an ủi hơn là không có ǵ cả anh ạ...” .

Tôi xin được thắp lại ngọn hương ấy ở đây:

          “Mười mấy năm học luật/ chưa vào đâu, thấm đâu / bây giờ lên rừng núi / anh học nghề chăn trâu

          trâu già cứ khen trẻ / trâu mập cứ chê gầy / thung lũng cao đồi thấp / dạo chơi cùng mây bay

          ngày ngày nương chân núi / phát rẫy, quật ngă cây / thịt, gai đâm máu chảy / biết chắc: c̣n sống đây

          mười mấy năm học luật / chưa ra cái kiếp người / bây giờ lên rừng núi / học thêm loài đười ươi

          Việt nam là cộng sản /cộng sản là con người / con người đang xuống giá/ xin anh đừng quay lui

         giáo điều xin gắng thuộc/ đạo đức chớ ngậm ngùi / b́nh tâm như cây cỏ / hạnh phúc thay điếc đuôi !

          mười mấy năm học luật / bảy tám năm học rừng / cả đời chưa sáng mắt / sao anh bỏ nửa chừng ?

         chúng giết anh ? không đúng / người không biết giết người/ thú giết “thằng nho nhỏ / trên ṭa sen, trong người (1)

          anh chết mà chẳng chết/ chưa cười nên mỉm cười/ sói lang không nuốt được/ nhân quyền của con người

          mười mấy năm học luật / Hồ Minh ơi Hồ Minh/ quê hương ḿnh quá đẹp/ anh nằm đâu cũng xinh”

      (Ngủ trên Đồi xanh-HTVN / ghi chú: (1) trong giai đoạn này nhiều cán binh gọi đức Phật đứng trên ṭa sen là thằng nhỏ)

         

          Thái Tú Hạp được thả về sớm. Tôi bị tập trung học tập ngay tại doanh trại Ngô Văn Sở của Việt Nam Cộng Ḥa cũ. Đang đi gỡ ḿn loanh quanh ṿng đai quân đoàn th́ được gọi về nhiệm sở cũ, ngành ngân hàng, trong dịp nhà nước đổi tiền lần đầu tiên. Thái Tú Hạp và tôi thường gặp nhau. Trước một hôm gia đ́nh Thái Tú Hạp ra đi, anh ngồi với tôi ở bờ sông, nói cho tôi biết chuyến đi vượt biên bán chính thức của anh. “Kẽ hở lịch sử” mà Thái Tú Hạp lọt ra ngoài, theo tôi, chính là sự tham nhũng có tầm vóc quốc gia, được h́nh thành khá sớm, nhưng chắc chắn không phải là đầu tiên sau khi miền Bắc thôn tính được miền Nam.

          Năm 1985, sau khi có mặt tại Canada, tôi liên lạc thường xuyên với Thái Tú Hạp. Lúc này anh đă chủ trương nhà xuất bản Sông Thu. Công tŕnh đầu tiên của anh tôi nhận được là tác phẩm Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại. Anh kư tặng vào tháng 4 năm 1985. Quà tặng tiếp theo là một số tạp chí phát hành tại Hoa Kỳ cùng những thi phẩm mới của Hạp. Vợ chồng Ái Cầm, Thái Tú Hạp quả là những người có nhiều tài năng. Vừa mở quán vừa dựng nên cơ sở báo chí Saigon Times. Sinh hoạt luôn luôn phát triển. Tôi được đóng góp chút ít thơ thẩn trong các công việc của Cầm và Hạp. Tính đến lúc tôi viết lại bài này, 23 tháng 4 năm 2006, một ngày mưa, công tŕnh sáng tác của Thái Tú Hạp gồm có: T́nh Người Sông Thu thơ, (in chung Thành Tôn, Hoàng Quy), Thèm Về (thơ, 1970), Chim Quyên Lạc Ngàn (thơ, 1982) Thơ Văn Việt Nam Hải Ngoại (sưu tầm, biên tập, 1985), Miền Yêu Dấu Phương Đông (thơ, 1987), Thơ Văn Phật Giáo (nhiều tác giả, biên tập 1993), Hại Bụi Nào Bay Qua (thơ, 1995), Thái Tú Hạp (tuyển tập nhiều tác giả viết về Thái Tú Hạp, Sông Thu, 1999), Giữa Trời Hoa Bay (tuyển tập những bài viết của Thái Tú Hạp về một số tác giả, Sông Thu, 2000)

 

          Nh́n về "Chân Dung Thơ Thái Tú Hạp", xin trích dẫn một số nhận xét của nhiều tác gỉa được tập trung trong "Thái Tú Hạp":

 

Bùi Bảo Trúc :

          ..."Những bài thơ trong tập thơ mới nhất (Miền Yêu Dấu Phương Đông) cho thấy Thái Tú Hạp đă đưa được vào các sáng tác của ông những h́nh ảnh và không khí mới,cái không khí của mùi trầm hương, của hoa huệ, hoa lan thơm ngát những trang kinh, cái không khí siêu thoát của Thiền, của Phật Giáo cho dù đó là lúc ông nói về cảnh rừng bên ngoài một trại tù

             ... “em c̣n hái nắng trong vườn trúc / nghe đời như một thoáng hư không” TTH

 

Duy Lam :

          "... Nói chung Thái Tú Hạp làm thơ theo những khuynh hướng trữ t́nh tân cổ điển và thấp thoáng bàng bạc trong một số bài ta cũng có thể thấy bộc lộ những ư niệm về Thiền và cái cao xa của đạo Phật "

 

Cao My. Nhân :

          ..."Tôi không quảng cáo cho thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua của Thái Tú Hạp, hay bất cứ tập thơ của các thi sĩ khác. Nếu muốn giới thiệu tập thơ HBNBQ, tôi sẽ viết với cách nh́n của người làm thơ và yêu thơ. Vả chăng nội dung của thi phẩm HBNBQ do Sông Thu vừa xuất bản đă được hàng loạt những cây viết tên tuổi và thi hữu như Mai Thảo, Duy Lam, Luân Hoán, Bùi Bảo Trúc, Trần Lưu Nguyên Khanh, Trần Văn Nam giới thiệu phụ lục rồi, chưa kể c̣n hàng loạt những họa phẩm của những họa sĩ tăm tiếng như : Đinh Cường, Nguyên Khai, Vơ Đ́nh, Bé Kư, Hồ Thành Đức, Khánh Trường, Vũ Thái Ḥa...góp mặt phần phụ bản... Nhưng điều tôi muốn đề cập tới là những t́nh cảm nồng thắm của tác giả dành cho quê hương Quảng Đà.."Chính những t́nh cảm ngọc ngà chân thực đó, đă đánh thức ta qua cơn ô nhiễm sầu muộn ly hương..." Có lẽ v́ thế mà Thái Tú Hạp viết ra hai tiếng "quê thơ" thân thương, quư giá "

 

Mai Thảo :

          ..."Một gắn bó sắt son và bất biến với giống ṇi và nguồn gốc do nơi những rung động ở quê nhà ngày trước, trên quê hương người bây giờ, trước sau nhất quán, không bao giờ đổi thay. Những bài thơ trong sáng, êm đềm, như một thiền định nào đó giữa hai gịng chữ đó là điều tôi ghi nhận được ở tư duy Thái Tú Hạp, ở cơi thơ và ngôn ngữ Thái Tú Hạp..."

 

Du Tử Lê :

          ..."Thi ca, với ông (TTH), không c̣n là những buộc ràng, những phản ánh nhân sinh.  Thi ca với ông, không c̣n là những cánh cửa mở vào những vấn nạn đời thường, mà, thi ca với ông, càng ngày, càng cho thấy nó là một ngơ tương thông với trời đất, với những nguyên lư siêu h́nh, Trên những đường bay ngẫu hợp giữa trí tuệ và rung động, giữa ngôn ngữ (chỉ như chiếc thuyền chở người qua sông) và nhịp điệu (chỉ như những lượng sóng vỗ đâu đó giữa vô cùng lênh đênh) thơ Thái Tú Hạp đă "đáo bỉ ngạn". Đă tới bến bờ thức ngộ về lẽ sinh diệt , lẽ hữu hạn và vô nghĩa của kiếp người. Chính từ sự đáo bỉ ngạn kia, do nơi đạt tới bến bờ nọ, đă thăng hoa tiếng thơ Thái Tú Hạp. Một thăng hoa an nhiên, tự tại, êm và lắng như cành hoa trong tay Phật và nụ cười của ngài Ca Diếp, năm xưa...Bằng cảm nhận đó, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều cành hoa và nụ cười trong thơ Thái Tú Hạp hôm nay, ngay cả nơi những ḍng thơ thế sự của ông..."

 

Nguyễn Mạnh Trinh :

          ..."Hạt Bụi Nào Bay Qua" là những bài thơ của một tâm hồn hiền hậu, đẫm mát chất thiền. Đời sống , dù ở trong bất cứ cảnh huống nào, vẫn có niềm hy vọng, dàn trải từ đất trời, tinh đọng trong cây cỏ hoa lá. Con người, lúc nào cũng thong dong tự tại , mặc kệ mọi sự, mặc kệ ḍng đời chuyển động ngoài kia. An Tĩnh đă là một đặc tính của thơ Thái Tú Hạp. Rất hiền ḥa, thi sĩ cũng nhẹ nhàng trong t́nh yêu. Như đóa hoa nở, t́nh yêu lớn từ những nhọc nhằn, những ngày gian khổ, những ngày của bóng đêm mờ mịt khói sương..."

..."Thơ Thái Tú Hạp, dù năm chữ, bảy chữ, hay tám chữ, lục bát, cũng đều có âm vận của bàng bạc nỗi buồn, của nỗi nhớ mong rất nhẹ nhàng nhưng đeo đẳng suốt những tháng ngày đang sống..."

 

TT Mây Trên Ngàn :

          ..." Nh́n chung toàn thể tập Hạt Bụi Nào Bay Qua", thơ của anh (TTH) đă "tới". Tới từ những nồng nàn yêu dấu của " trái tim người phương đông", từ những đam mê trăn trở của một thời chinh chiến, tới những nhục nhằn của chia ly, lao tù, tới những phân-vân -đời-hải-đảo...Tuy nhiên trên quan điểm Thiền quán vẫn chưa đạt, tuy có vài đoạn rất siêu thoát: ngàn mây trắng bay qua / tiếng kinh khuya vọng lại / ngơ trúc chiều chia xa/ đầu non vừng trăng khuyết (Chợt Ngộ)

hoặc : giở trang kinh tự nhạt nhoà sắc không...."

          Những người nhận xét về thơ Thái Tú Hạp c̣n có: Dương Viết Điền, Đặng Phú Phong, Lâm Chương, Lê Mai Lĩnh, Luân Hoán, Mỹ Tín, Nguyễn Triệu Nam, Nguyễn Chí Khả, Nguyễn Đức Trọng, Phù Vân, Phạm Phú Hay, Tuệ Chương, Tuệ Nga, Thích Như Điển, Trần Hoài Thư, Trần Ngọc Chất, Trần Lư Nguyên Khanh, Trần Văn Nam,Triệu Phong, Vũ Kư, Vũ Hối, Vô T́nh...

          Dù nhận xét như thế nào cũng không bằng trực tiếp thưởng thức thơ của Thái Tú Hạp, tôi xin được mời các bạn t́m đọc các thi phẩm đă xuất bản của anh. Tôi xin mượn bản đánh máy sẵn trong trang của nhà văn Vĩnh Hảo, để gởi ngay đến bạn đọc một ít thơ của Thái Tú Hạp.

 

          “Mắt xưa trăng đẫm non ngàn / lời xanh biếc ngọc vô thường yêu em / lá theo tiếp lục đường chim / hồn mai phục giữa hoa-nghiêm lặng tờ” (Vô Thường Yêu Em)

 

          “khuya nghe vũ trụ chuyển ḿnh / sáng ra trời đất mới tinh / cỏ cây như vừa tắm gội /chữ nghĩa không c̣n trang kinh / tâm già nua ta chợt thức / đầu cành giọt nắng nguyên trinh. (Vô Tự)

          ... “Ta cạn chén càn khôn / giữa khuya đời tịch mịch /mộng cũng tàn hư không / trang kinh nḥa thiên cổ

          sương tóc bạc rừng phong/ chung trà nhớ viễn khách /em về như giọt sương /sớm mai nào lá biếc

          say chút rượu trầm luân / mùa xuân nhen lửa trọ / bỏ tiếng hót đầu non / chim qua vườn thủy trúc

          đêm giao thừa bất tận / tây trúc ngàn dặm xa / niệm từ tâm giao động /cơn gió thoảng ngoài ta / thăm thẳm hồn cố hương /núi sông đầy ẩn tích / em mắt sầu đông phương / tang thương vừng nguyệt úa / hạt bụi nào bay qua / đất trời khuya huyễn hoặc/ c̣n ǵ trong sát na / đời buồn mai thức dậy.(Một Thoáng Phù Vân)

 

          ... “Từng hàng cây đứng im / nụ mầm thiên thu nẩy /khu vườn rộn ră chim / mặt trời vừa thức dậy /lá lao xao hát thầm / mùa xuân muôn năm cũ / đă về trên đọt cây /khi sương c̣n ngái ngủ /chỉ một ḿnh ta thôi / trôi theo gịng suy tưởng / những t́nh xuân vô lượng / rót từ cơi nguyên khôi / lửa tàn trong thạch thất / rừng khoác kín đôi chân /em v́ ta bước lại / từ đó lộc ra xuân (Từ Đó Lộc Xuân)

 

           ... “Em cười như nụ hoa / trong mai tâm bồ tát /tiếng chuông đời thoảng qua / phù vân chim hót lá

          tiền kiếp nào gặp nhau / hạt sương đầu cánh gió / ngẩn ngơ hồn thương đau / khi nụ t́nh vừa chớm

          ngàn mây trắng bay qua / tiếng kinh khuya vọng lại /ngơ trúc chiều chia xa / đầu non vừng trăng khuyết / sớm mai nào chợt ngộ / tâm ta tưởng là hoa / trong sắc màu giả tưởng/ có không nào trong ta (Chợt Ngộ)

 

           ... “T́nh xưa về ngự cơi riêng / đường ngôi em rẽ hai miền phù vân / c̣n bao nhiêu sóng trong ḷng / đổ ra mấy nhánh trăng vàng biển khơi /có không trên ngọn cát bồi /sớm hôm rồi chợt qua đồi cỏ lau /lá xanh biếc núi ngàn sau / cụm hoa c̣n ngẩn ngơ sầu chia xa /em về hoang tịch đời ta /dấu hương khói muộn nhạt nḥa chân mây”. (Cơi Riêng)

 

           ... “Mai ta về giữa non cao / xé mây làm áo lụa đào cho em / nghiệp từ mấy thuở trần duyên / nắng thanh xuân đậu ngoài hiên ta bà / đưa nhau dạo giữa ngân hà / bỏ nhân gian lại chốn tà huy câm / mai sau t́nh vỡ hư không /có nghe tiếng hót tiền thân chim ngàn / từ trong thiên cổ tri âm / tiễn nhau xuống núi cưu mang kiếp sầu / mai về khép cánh biển dâu / giở trang vô tự trắng nḥa sắc không /chờ nhau dưới cội vô thường /soi tâm tư hiện một vừng trăng xưa” (Thanh Tịnh Khúc)

 

           ... “Thả mây cuối phố em qua / vừng trăng trên tóc quỳnh hoa chỗ nằm / lược là vô tận hỏi thăm / hương bồ kết nở trăm năm môi cười / hoa cam hoa bưởi ngậm ngùi / đă xa cố quận một đời viễn phương / bao giờ trầm ngát rừng hương/ quế cay nồng tỏa suối nguồn thảnh thơi / ta về hát giữa lệ rơi / đại hồng chung điểm một thời xuân xưa”. (Mê Hoặc Trầm Hương)

 

          ... “ Mười năm sầu rong ruổi măi /con đường phố mới thênh thang / sông hồ ta ngàn phiêu bạt /t́nh xa ḷng cũng như không / mười năm chợt về như nắng / đầu sông gió thổi mây qua /hiên nhà xưa em vẫn đợi / hàng tre ríu rít chim ca / dương liễu chiều reo như suối / ngơ về thơm ngát hương hoa /t́nh ta cao như đỉnh núi / tuổi vàng sao quá thiết tha/ mười năm trùng dương bát ngát /chợt sầu như chuyện hôm qua / thư em như gịng sữa ngọt /chiều nhen chút lửa ḷng ta /có giấc mơ nào đẹp nhất /cho ta t́m lại hôm nay / những h́nh bóng xưa chất ngất /nghe hồn dơi bóng mây bay / mười năm ngh́n con phố mới /ḷng ta chỉ một quê hương /mẹ già xưa ṃn mỏi đợi /mùa xuân vàng nắng yêu thương /mười năm giờ như mây nổi /tang thương đời cũng phôi phai / núi sông nào lên tiếng hát / hồn xuân về lại trong mai” (Nỗi Buồn Trong Thành Phố)...

 

          Thái Tú Hạp và người vợ tài giỏi của anh không những nổi tiếng trong sinh hoạt văn học mà c̣n được biết nhiều đến sinh hoạt xă hội. Gần đây hai vợ chồng Hạp Cầm đă cùng một số thân hữu tại Hoa Kỳ khởi xướng việc dựng tượng đài kỷ niệm thuyền nhân. Công việc h́nh như đang tiến triển thuận tiện. Nh́n chung, các hoạt động của ông bà chủ báo Saigon Times không có ǵ quá đi xa trong lănh vực chính trị, nhưng Hạp vẫn ái ngại cho một chuyến về thăm quê hương. Đă hai mươi tám năm Hạp chưa có dịp ngắm lại sân chùa Vĩnh Nghiêm, tôi nghĩ anh không thể không buồn phiền. Tôi với Hạp cũng đă hai mươi tám năm chưa gặp nhau nhưng t́nh bằng hữu vẫn thân mật. Thỉnh thoảng Thái Tú Hạp gọi điện thoại thăm chừng tôi đă “đi”chưa. Nổi tiếng là ốm yếu, bệnh tật mà vẫn cứ lê lết từ năm này qua năm khác kể cũng tài. Hạp cũng không quên cù rũ tôi qua quận Cam cho biết mặt mũi thủ đô của người tị nạn Việt Nam, nhưng tôi vẫn lười, nhất là vẫn ngại cái mục tối ngủ không có cô vợ bên cạnh, như cái đêm 25-4-1992: “Bảy năm xa vợ đôi ngày / đêm nằm thừa thăi chân tay quá chừng / ḷi ra cả cái nhớ nhung / lâu nay ngủ kỹ trong từng khớp xương(Mời Em Lên Ngựa).

          Tôi ngại đi, nhưng Thái Tú Hạp coi bộ cũng không khá hơn, nếu không muốn nói là xếp sau lưng tôi về chuyện thực hiện động từ “đi”, với nhiều nghĩa rất linh hoạt của nó. Hạp đă thăm viếng được những đâu ngoài cái vùng Valley Rosemead, nơi anh cư ngụ ? Phần tôi th́ nhiều lắm, kể cả đất nước Hoa Kỳ, nhưng không lẽ khoe ở đây. Tôi đi bất ngờ, tôi đến im lặng trong thói quen vội vă. Hạp đă hứa hẹn sẽ tổ chức cho tôi một buổi ra mắt sách, một cuộc tŕnh diện với bà con xứ Quảng Nam. Tôi vô cùng cảm động trước nhiệt t́nh của Hạp, trước những quí mến có thể có của đồng hương. Nhưng tôi thấy lo, thấy sợ và tôi đă trốn, sẽ trốn hết mọi ân t́nh, dù tôi sẽ đến quận Cam vào đầu tháng 7 năm 2006 này. Tôi dự định, ngày cuối cùng ở quận Cam, tôi sẽ gọi điện thoại thăm một số bằng hữu như Hạp, như Thành Tôn, vợ chồng Hồ Thành Đức, nhà thơ Đặng Hiền, họa sĩ Khánh Trường...rồi ra về nhẹ nhàng, giống như đă thực hiện trong lần về Sài G̣n năm 2002. Nh́n thấy nhau thêm một lần là điều quá quí. Nhưng để giữ măi một h́nh ảnh đẹp đă có, không bị bất ngờ trầy sướt, có lẽ c̣n quí hơn. Tôi kính trọng bạn hữu. Tôi yêu mến ngày xưa và muốn trở thành một người cô đơn giàu có kỷ niệm. Giản dị chỉ như vậy.

 

          Viết về Thái Tú Hạp, không thể quên đôi ḍng về một Trần Ái Cầm, bông hồng ở gần chợ Cây Me Đà Nẵng ngày xưa. Trong bài Sống Đời Với Thơ, nhà thơ Nguyễn Đông Giang, đă dựa vào một số bài nịnh người đẹp của tôi, để giới thiệu những nhan sắc của Đà Nẵng một thời. Với dịch giả của các tác phẩm Băng Nhi, Tuyết Kha, Hoàng Châu Cát Cát..., Nguyễn Đông Giang viết:

          “... Một cửa ngơ mà Luân Hoán đă bâng khuâng khi đi qua là cửa ngơ Ái Cầm. Một người Hoa chính thống sinh ở Đà Nẵng và trọn đời mang trái tim Việt Nam. Điều ǵ làm cho nhà thơ bâng khuâng đây ? Hăy thử đọc:

          “ Bâng khuâng qua ngơ Ái Cầm / chợ Cây Me ngó, th́ thầm trên vai / chàng này coi cũng bảnh trai/ tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa / pḥng hồng đă chật tiếng ca / một nhà thơ ở phương xa đă vào / trời thừa bao nhiêu vị sao / thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu t́nh / vẩn vơ vào cơi u minh / Tây cười dưới một giật ḿnh làm thinh”

         Người thơ nghe được những th́ thầm b́nh phẩm về ḿnh, và cũng sớm thấy được cái đích đến không có nhiều kết quả. Nhưng vẫn cao ngạo ví ḿnh như một ngôi sao. Vị sao đó đă thừa, đành vẩn vơ vào một nghĩa trang để chuyện văn với những người lính Pháp c̣n bỏ xương lại nơi này...”

          Về những “b́nh loạn”, dẫn giải của Nguyễn Đông Giang, tôi chân t́nh cảm ơn. Về thơ cho Chợ Cây Me th́ tôi đă viết hơn một bài. Thơ tặng các người đẹp th́ tôi “đă từng bất thường và đang ao ước được khác thường hơn những cái bất thường đă có” giống như Nguyễn Đông Giang nhận xét. Sao tôi dám cả gan cùng ḿnh vậy không biết ?

Năm 2000, Ái Cầm cùng con gái là ca sĩ Doanh Doanh bây giờ tham dự một chuyến du lịch tập thể, nhiều nơi. Chị đến Montréal, gọi tôi từ một khách sạn gần nhà. Tôi và Lư đă đến đón mẹ con chị về cái appartement của chúng tôi cho biết mùi ở ấp. Ái Cầm vẫn không khác xưa bao nhiêu. Gặp Lư vẫn xưng mi tau tự nhiên, thân mật như thuở nào. Cùng xuất phát từ gia đ́nh khá giả, nhưng Ái Cầm có đời sống riêng thảnh thơi hơn cô vợ của tôi rất nhiều, h́nh như vậy. Tài năng chăng ? Không hẳn. Hai bà đều mang cái họ “Trần” trụi. Có lẽ tùy theo cái mạng của thằng chồng nặng nhẹ. Hạp đầu rồng, 1940. Tôi đuôi rồng 1941. Quả là đầu đuôi có khác nhau. Hạp có một bà Trần, không mấy giống vợ cụ Trần Kế Xương. Tôi có một bà Trần hao hao như người đàn bà cao quí ngày xưa...Vẫn là ngon hơn. Nghĩ cho cùng, chúng tôi đều ngon như nhau, v́ đă có được những nội tướng không có ǵ để phàn nàn. Tạ ơn Trời, Phật.

 

LUÂN HOÁN

(trich DỰA HƠI BÈ BẠN, sắp in)