Hoàng Lộc, Rượu, Mỹ Nhân Và Thơ

 

Hà Khánh Quân

 

 

 

         

 

 

 

 

 

 

 

 

Nội dung thi phẩm của nhiều tay làm thơ, xuất thân từ đất Quảng Nam, khởi từ năm 1960, thường bén rễ xanh cành bởi những nguồn phân: quê hương, thân phận, rượu và mỹ nhân. Một giai đoạn lịch sử, gồm hơi thở và thân xác chiến tranh được cảm nhận, nh́n thấy, một cách khá sinh động, rơ nét qua thơ. Thi ca như vậy, kể như gắn liền với đời sống một cách tích cực. Hoàng Lộc góp sức không nhỏ vào thành quả này. Anh trở thành một nhà thơ gạo cội của Hội An. Sự xuất sắc được chứng nhận bởi giải thưởng thi ca, của Trung tâm Văn Bút Việt Nam tại Sài G̣n, năm 1971. Ngoài ra, anh c̣n được giới làm thơ cùng thời, nh́n nhận là người giàu hoa tay, chuyên trị thơ t́nh lứa đôi.

 

          Năm 1965, Hoàng Lộc cho in thi phẩm đầu tay: Thơ Học Tṛ. Năm 1971, Trái Tim C̣n Lại ra đời. Năm 1999, tại hải ngoại, Hoàng Lộc cho tŕnh diện Qua Mấy Trời Sương Mưa. Và hiện nay, anh đang giới thiệu thơ của ḿnh cùng bè bạn  qua cơi chơi đương đại, rộng răi: http://hoangloc.vnweblogs.com. Theo tin chuyền miệng: anh đang cho thực hiện tuyển tập thơ để đời, được in từ quê nhà, nơi anh vẫn thường đi về mỗi năm v́ hiếu thảo.

 

          Tôi khá chậm tiến trong việc sử dụng internet, và chỉ có được một tập Qua Mấy Trời Sương Mưa, nên chuyến theo gót thơ này, gắng lắm, cũng chỉ bám được một phần rất nhỏ, trong tám mươi mốt bài của thi phẩm này.

 

          Xin giới thiệu vài nét tổng quát. Qua Mấy Trời Sương Mưa được ra đời trong sự chăm sóc nhan sắc của họa sĩ Đinh Cường. Một góc phố Hội An, cái hồn của quê nhà Hoàng Lộc. Một bóng áo trắng, tóc xanh môi hồng, cái t́nh của thi sĩ. Bản vẽ của Đinh Cường dành riêng cho tập thơ, không trích lại từ một họa phẩm. Điều quí này có từ ḷng yêu thích thơ Hoàng Lộc của ông họa sĩ. Tuy vậy mẫu b́a, theo tin hành lang ở quán cà phê, có người thích, có người không mấy ưng ư.

          Qua Mấy Trời Sương Mưa dày hai trăm lẻ bốn trang. Giấy có gân ch́m, rộng 13cm1/2, cao 21cm. B́a mỏng, có áo khoác ngoài. Tŕnh bày tổng quát bởi nhà thơ Phan Xuân Sinh. Nhạc sĩ kiêm nhà thơ Đynh Trầm Ca góp một bản phổ nhạc. Họa sĩ Huỳnh Ngọc Diệp góp một phụ bản. Nhà xuất bản Văn Mới in. Để góp lại ấn phí, người yêu thơ cần gởi 12 Mỹ kim, cộng cước phí, đến nhà xuất bản ở số: 1528 S. La Cienega Blvd. Los Angeles, CA 90035, USA.

 

          Ngoài khả năng làm thơ hay, Hoàng Lộc c̣n sở hữu một nhan sắc, được xếp vào hạng tiêu chuẩn phong độ, nam nhi chi chí. Vóc người cao ráo. Khuôn mặt dài, đủ thể hiện nội lực trong t́nh yêu. Sóng mũi, ria mép đều hoàn hảo. Mái tóc không cần nuôi dài hoặc đội mũ, như một số nghệ sĩ khác, vẫn nh́n ra được cốt cách thi nhân. Trong ảnh chụp, in bên trong b́a trước, h́nh như thi sĩ đang làm thơ, hoặc viết thư t́nh ǵ đó. Dáng trang nghiêm, nhưng phảng phất tiếng cười, y hệt bản tính cởi mở, trào lộng của nhà thơ ngoài đời thường.

 

          Với những ḍng dông dài trên, không phải tôi cố t́nh lấy đà, để chuẩn bị chạy theo thơ Hoàng Lộc. Viết về một tác giả, nhưng không nghiêng về phê b́nh, điểm sách, tôi nghĩ, một đôi khi cũng nên ba hoa, lạc đề đôi chút. Và phải nói ngay ở đây, tôi là người quen biết tác giả lâu năm. Nhưng không được nằm trong danh sách bạn bè của anh. Và h́nh như c̣n có lúc, cùng chấm trúng một người đẹp nữa ḱa. Nhưng không v́ thế, mà những ǵ tôi viết về thơ anh, không trung thực với cảm nhận, đánh giá riêng, dù có thể rất hời hợt.

 

          Xin nhập cuộc Qua Mấy Trời Sương Mưa:

          Lưng b́a sau, Hoàng Lộc đă chọn sáu câu lục bát, phối trí lại hàng ngũ, ngắn gọn, thật thích hợp với nội dung cô đọng. Có thể xem như lời vào tập. Tôi xin trích đủ, để quí bạn tùy nghi săm soi:

         

          biết từ cái

          nửa-trăm-năm

          thứ chi đă trải

          đều lầm hết trơn

 

          biết sông nhớ

          thuở đầu nguồn

          khi ḷng chảy

          đủ cô đơn đất trời

 

          biết cân đai

          biết nón cời

          mừng ta

          sống đă ra người

          trước, sau...

 

          Tôi nhớ, qua điện thoại, nhà thơ Thành Tôn rất tán thưởng sáu câu trên. Ông bụt này đặt biệt khoái hai câu đầu. Hẳn ông cũng nghĩ ra ḿnh đă nhầm lẫn, trong hơn nửa đời người về những điều ḿnh đă trải qua. Tôi th́ không. Tôi rất mặn mà với hai câu cuối. Cân đai, Nón cời, h́nh ảnh hưng suy của đời người, Hoàng Lộc có đủ, và có một cách hiển hách cho từng giai đoạn. Tuyệt nữa là sống đă ra người có thủy có chung trước sau.

          Thơ Hoàng Lộc có nhiều điều để tán thưởng.

          Ở thơ anh, những chất liệu như quê hương, thân phận, t́nh lứa đôi, như dính liền nhau, không có ranh giới rơ ràng. Hay đúng hơn, anh pha trộn những sắc thái thi ca ấy lại với nhau, bằng một kỹ thuật thật linh động, hợp lư và tài t́nh. Tôi vốn có ư định, chọn từng nhóm thơ có cùng một chủ đề, để theo đó, đẩy đưa ḍng cảm xúc có được trong khi đọc. Nhưng sự phân loại như vậy, với riêng tôi, thật sự không ổn lắm khi đến với thơ Hoàng Lộc. Dù sao, tôi cũng thử cố gắng theo con đường ṃn này.

 

          Với Hoàng Lộc, tôi tin chắc, anh rất ưa dùng chữ Thơ T́nh, để xác định nội dung thơ của anh. T́nh thường bao gồm t́nh người, t́nh quê hương, t́nh nam nữ... Nhưng với Hoàng Lộc, t́nh lứa đôi, mới đúng là cốt lỏi của tôi anh.

          Nếu chỉ dựa theo thơ, tôi tin, ai cũng xếp anh vào lớp “đại gia” của t́nh yêu. Một cao thủ trong t́nh trường. Một anh hùng sát mỹ nhân, Một khách mă thượng ṇi t́nh...  hoặc nhiều tên gọi khác. Từ Hải, Kim Trọng có đủ, quanh quẩn trong thế giới luyến ái. Riêng tôi có suy nghiệm khác hơn chút đỉnh. Hoàng Lộc có trái tim nhạy cảm với sắc đẹp mỹ nhân. Chính xác trăm phần trăm. Anh yêu thương, nhung nhớ hết thảy những người đẹp, đă làm cho trái tim anh bồi hồi. Điều này là quyền của anh, thượng đế cho phép. Nhưng được yêu lại là vấn đề khác. Và tôi cũng lại tin. Hoàng Lộc viết thơ t́nh cả đời, nhưng nhân t́nh đếm chưa đủ ngón tay. Cái bí quyết, cái ch́a khóa để viết hay thơ t́nh là ở đây. Hoàng Lộc đă có được cái cần có, quư thật. Khi yêu và được yêu, bạn khó có thừa thời gian để thơ thẩn. Và dù có thẩn thơ được, những bài viết cũng khó đạt mức tuyệt hảo như Hoàng Lộc. Ba hoa của tôi, biết đâu không là lời giải đáp nghi vấn, cho nhiều bạn yêu thơ t́nh Hoàng Lộc. Ông bạn đồng hương, mà tôi hănh diện.

          Và bây giờ, thay v́ săn ngắm những đoạn t́nh thơ, tôi xin đi ngay đến bến đậu quan trọng nhất của thi sĩ Hoàng Lộc. T́nh cho người bạn trăm năm.

          Hoàng Lộc không phác họa chân dung của vợ anh. Nét đẹp, nét duyên dáng của người bạn đời, anh ích kỷ giấu biệt. Anh chỉ ngợi ca cái đẹp ch́m, đức tính của vợ ḿnh. Sự tán thưởng của anh cũng không lộ liễu, mà chỉ đơn thuần như một lời khen. Anh thường dùng sự so sánh để giới thiệu, hoặc làm nổi bật thêm, vai tṛ quan trọng của người bạn đời. Và qua thơ, ta thấy người đàn bà cưu mang nhà thơ, có đủ những truân chuyên, vất vả, những đau buồn khổ nhục:

 

          trong thơ xưa ai gánh gạo đưa chồng

          hay vẫn chỉ là em nỉ non tiếng khóc

          hay vẫn chỉ là em bốn mùa khổ nhọc

          hồn vọng phu đă lội mấy sông đời ?

 

          anh xưa kia v́ chút mộng bên trời

          bắt bóng, khuây cái sầu tan hợp

          giữa cơi phù vân đôi lần em chết ngộp

          mới hay chiều cố xứ có em trông

 

          người trong thơ xưa lặn lội bờ sông

          hay vẫn chỉ là em, cái c̣ tội nghiệp ?

          anh lận đận trong đời do số kiếp

          như em tin người tướng sĩ năm nào

 

          ai bảo tim hồng ư biếc ơn nhau

          không, ơn của chỉ riêng em trong thời anh mạt vận

          chiếc nhẫn cưới bán theo ngày túng quẩn

          em thương chồng nên nợ với thi thơ

 

          trong ḷng anh, em đứng với người xưa

          em hơn hẳn cả người xưa – đă chắc

          anh b́nh sinh chuộng những điều không thật

          hạnh phúc th́ rất thật giữa tay em

 

          của vợ công chồng nói măi nghe quen

          để lắm lúc anh vô cùng xấu hổ

          những thua thiệt riêng em, người vợ khổ

          khi trăm dâu trút xuống một đầu tằm

 

          trong hiên tù quạnh quẽ từng ấy năm

          thân một bóng ngó quê nhà xa lắc

          câu thơ cổ làm anh rơi nước mắt

          như lần đầu hiểu được tấm ḷng em

                                                      (Thơ Tặng Vợ Nhà, QMTSM, 45-47)

 

          Cái sung sướng, cái hănh diện của người vợ ở đây, là được chồng ví ḿnh với những gương hiền thê của tiền nhân. Điểm này cũng là chiêu nịnh vợ đắc ư nhất của tác giả, nhất là khi chàng cao hứng đẩy sự ca tụng lên đến tuyệt điểm:

 

          em hơn hẳn cả người xưa – đă chắc”.

 

          Cái sảng khoái của người làm thơ khi viết được câu này, chắc chắn vượt lên trên cái thú uống một hớp rượu ngon. Không hiểu sao, trong sự quả quyết của tác giả, tôi chợt thấy lấp ló đâu đó, nét tinh nghịch với một chút nựng yêu vô hại, nhưng lém lỉnh vô cùng. Nhiều khi, v́ tôi suy bụng ta ra bụng người chăng ? Ông thi sĩ thử đọc lại, đọc lại lần nữa xem sao.

          Trong bảy đoạn thơ, tôi tâm đắc nhất và rất muốn mượn để dùng, hai câu:

 

          của vợ công chồng nói măi nghe quen

          để lắm lúc anh vô cùng xấu hổ”

 

          Thật đơn giản, chí t́nh và xác thực.

 

          Nằm trong một bài thơ khác viết cho vợ và t́nh nhân, ở đoạn cho vợ, vẫn dùng kỹ thuật liên tưởng so sánh, nhưng lần này, người vợ được nằm gần với đời thơ hơn:

 

          “... nếu không có em, ơn người vợ khổ

          ai khêu ngọn đèn, che giùm cửa sổ

          để anh về ấm lại những ngày đi

          ai khóc ̣a trên bản thảo canh khuya

          khi đọc thấy những điều không dám đọc ?

          mới buổi cưới  xin em con bím tóc

          bây giờ em phải bới thêm chang...”

                             (Thơ Viết Dở Cho Vợ Và T́nh Nhân, QMTSM, 87-89)

 

          Hoàng Lộc quả là một nhà thơ hạnh phúc trong t́nh yêu. Đă được người vợ đọc bản thảo, lại c̣n lời thêm những giọt nước mắt, thay v́ những uất ức, phẩn nộ, dĩa bay, chén chạy khắp nhà. Nước mắt cam chịu thường đồng lơa với sự âm thầm chấp nhận. Hậu quả những cuộc ngoại t́nh thường rất nhẹ nhàng và có nhiều nét đẹp. Chính v́ thế, nhà thơ càng ngày càng bay bướm. Gia tài t́nh nhân cùng với thời gian giàu có thêm. Không biết trong tập Trái Tim C̣n Lại, và trên cơi chơi internet, thân mẫu của hai mỹ nhân Hoàng Phương Chi, Hoàng Phương Thảo, có c̣n thêm được bài lót ḷng nào nữa không ? Tôi tin rằng có và sẽ có. Không phải v́ “thịt đâm vô thịt nhớ nhau suốt đời(ca dao) mà v́ cái t́nh nghĩa phu thê vốn vô cùng linh hiển, đậm đà.

 

 

          Gia tài nhân t́nh của thi sĩ Hoàng Lộc đồ sộ đến đâu ? trong đời thường, không có ai quan tâm kiểm tra. Nhưng trong thi ca, Hoàng Lộc lộ ra là một tỉ phú t́nh yêu, với  những bài thơ thất t́nh thật tuyệt vời.

          T́nh yêu của thi sĩ h́nh như không chỉ có t́nh yêu thứ nhất, như nhà thơ Xuân Diệu từng ta thán. Trái lại, sau mỗi cuộc t́nh, trái tim người làm thơ như mới ra, đậm đà, tha thiết hơn. Tôi rất tiếc, đă không t́m được bài thơ t́nh lứa đôi đầu tiên của Hoàng Lộc. Nhưng đọc nhiều bài, trong Qua Mấy Trời Sương Mưa, tôi ngộ ra, dù h́nh ảnh, ngôn ngữ có tuổi đến đâu, qua tài nghệ điều hành chữ nghĩa của Hoàng Lộc, cũng phơi phới trẻ trung. Và mỗi bài viết, mang cái hồn khác nhau, không lặp lại. Nhà văn Trần Doăn Nho, một cây bút tinh tế, nổi tiếng qua nhiều bài điểm sách, viết về Hoàng Lộc:

 

          “... thơ của Hoàng Lộc qua ba chặng đời khác nhau:một Hoàng Lộc trẻ,một Hoàng Lộc ở tù về và một Hoàng Lộc lưu lạc.Ư th́ có khác, dĩ nhiên. Nhưng tứ thơ, không khí thơ và trái tim nhà thơ th́  dường  như vẫn thế: yêu. Chan chứa yêu, đằm thắm yêu, say sưa yêu. Yêu không biết mệt mỏi. Ta có thể nói, anh bày ra "cuộc yêu" trong đời của anh và trong thơ của anh. Ở hoàn cảnh nào,Hoàng Lộc cũng có thể làm thơ t́nh một cách hồn nhiên, một cách b́nh thường, y như thể thế giới này không có ǵ khác hơn ngoài t́nh yêu trai gái, bởi v́ suốt đời anh là một "đời t́nh": (Trần Doăn Nho)

 

          Mời đọc một bài thất ngôn, hai đoạn, đă được nhạc sĩ Đinh Trầm Ca phổ nhạc trước năm 1975:

 

          đă tới ngày em bay qua sông

          ơi con sao nhỏ vừa sổ lồng

          ta đứng nghe mùa mưa xuống lạnh

          điếng hồn cho gái sắc hương

 

          đă tới ngày em bỏ quên ta

          che tay kỷ niệm ngó mơ hồ

          nắng gió trong ḷng em bất chợt 

          em vừa giết một đứa làm thơ...

                                           (Tới Ngày Em Quên, QMTSM trang 33)

 

          Tôi nhớ mang máng, bài này được đăng ở tạp chí Văn, thời anh Trần Phong Giao chăm sóc. Phạm Ngọc Niên, một nhà giáo, bạn tôi, đă rất thích hai chữ “điếng hồn” của tác giả. Chính Niên bàn thêm: H́nh ảnh con sáo sang sông, không mới trong văn chương Việt Nam. Nhưng t́nh huống tiếp theo, đă được diễn tả rất mới, linh động và khá bất ngờ ở ba câu cuối. “che tay kỷ niệm ngó mơ hồ”. Khó có câu nào viết đẹp hơn. Phạm Ngọc Niên c̣n đi xa hơn: Hai từ “một đứa” ở câu cuối, lạ, diễn tả được sắc thái phũ phàng của người bị phụ t́nh. Nhưng đọc toàn câu hơi trục trặc. Và Niên, tự ư đọc lại một câu đồng nghĩa “em vừa giết chết kẻ làm thơ”. Nghe xuôi giọng hơn thật, nhưng không có được cái tủi thân phận như tác giả.

 

          Một bài thất t́nh xinh xắn khác của Hoàng Lộc:

         

          em nh́n gần, em chẳng biết nh́n xa

          gần thấy khó và xa càng không thấy

          chút t́nh của ta sao mà khổ vậy

          măi lem hem từ bữa nói yêu người

 

          em nh́n ai chưa chắc rơ ràng ai

          chưa chắc rơ trong ṿng ba bốn thước

          chút t́nh ta đâu cần hơn được

          măi ơ hờ trong đáy mắt xanh kia

         

          đêm lá me bay - xuống phố, quay về

          cửa sổ nhà em ngọn đèn thức ngủ

          em vẫn lờ mờ không hay không rơ

          ta chợt giật ḿnh ngó lại t́nh ta

 

          em nh́n gần, em chẳng muốn nh́n xa

          (gần – có chồng em, có con em đấy !)

          chút t́nh ta  lạc loài biết mấy

          ngh́n trùng thêm sau mắt kính nh́n gần

 

          ta dẫu một đời cặm cụi t́nh nhân

          vẫn khó tới trong ṿng ba bốn thước

          t́nh lỡ rủi cháy bùng lên ngọn đuốc

          cũng hoang tàn đóm lửa phía ngoài em... (1987)

                                                              (Thơ Cho Người Cận Thị, QMTSM 95-96)

 

          Một cuộc t́nh, một h́nh ảnh, thật ngộ nghĩnh, cảm động. Bài thơ vừa chân thật vừa phảng phất nét hư cấu mới lạ. Người thiếu nữ trong thơ, rất đáng yêu và cũng rất đáng thương. C̣n anh chàng thi sĩ, vẫn chỉ lặp lại những phản ứng thất t́nh, thiếu tích cực. Nhưng đây chính là điểm sáng, cho thấy khả năng diễn tả nội tâm hợp lư, đầy t́nh thơ của tác giả. Mỗi người trong chúng ta, tôi nghĩ, đa số đều đă được một vài lần thất t́nh. Anh chàng Hoàng Lộc trong thơ, đâu khác chúng ta ngoài đời thường bao nhiêu. Mặc cảm bị coi nhẹ (măi ơ hờ trong đáy mắt xanh kia) hoặc không được biết tới (em vẫn lờ mờ không hay không rơ - em nh́n gần, em chẳng muốn nh́n xa). Đâm ra hờn giận. Nhưng cái hay, cái hơn của nhà thơ so với chúng ta, là không hằn học, bực bội. Buồn t́nh, buồn đời, chỉ sinh ra những lời “nói mát” có vần điệu: (chút t́nh ta  lạc loài biết mấy - t́nh lỡ rủi cháy bùng lên ngọn đuốc, cũng hoang tàn đóm lửa phía ngoài em). Và cuối cùng cam chịu một cách rất thi sĩ.

 

          Mời đọc thêm bài T́nh Sau T́nh Trước, trang 105, 106:

         

          em chê ta quá nhiều t́nh trước

          nên e dè không dám nhận t́nh sau

          bài thơ lớn, nếu cần, em đọc suốt

          ngập ngừng chi ḍng cuối với câu đầu ?

 

          đời thơ ta, đời t́nh ta - lổn nhổn

          cái hay ho, lắm cái chẳng ra ǵ

          biết chừng đâu em là câu thứ bốn

          để huy hoàng tứ tuyệt buổi Đường Thi

 

          lớp con gái thời ta xưa hết sạch

          mỗi hoa nhường là mỗi biển dâu xanh

          khi em đến thơm ḍng ḍng cổ lục

          bên hiên trăng ta quá đỗi ṇi t́nh

 

          em, sách quư – thư pḥng ta để bụng

          rằng mai kia một nọ chắc em vào

          t́nh như gươm ta chỉ cần chém trúng

          th́ lần đầu lần cuối khác chi nhau ?

 

          Có thể xem đây là một bài thơ tán gái khá cao tay. Tôi không rơ tác giả có bị dị ứng với ba chữ “thơ tán gái” hay không. Nhưng tôi vẫn dùng, v́ không t́m được chữ chính xác hơn.

          Với giọng điệu bông đùa tế nhị, cùng nội lực trí thức kín đáo, bài thơ chắc chắn sẽ được các khứa lăo, các chàng sồn sồn, đă trải qua năm bảy cuộc t́nh, rất thích. Riêng tôi, chả cần xin phép tác giả, cũng sẽ copy sẵn, chờ t́m cách tặng người đẹp, vẫn thường đi ngang nhà, kín đáo ngó lên bàn viết. Tôi tin kết quả sẽ rất tốt đẹp, khi “nàng” đọc được lời tán tỉnh văn hoa này. Bởi tôi biết “nàng” sẽ nắm bắt được, những nét tinh tế của bài thơ:

          Thứ nhất, đẹp biết bao nhiêu, khi so sánh cuộc đời là một bài thơ lớn.

          Bài thơ là sự nối kết những con chữ, những ḍng câu, giàu màu sắc, giàu h́nh ảnh thành một tổng thể, cùng chia đều nhau sứ mệnh: mang suy tưởng, nhịp đập trái tim của người viết đến với người đọc.

          Đến với một bài thơ, không nên đánh giá riêng bất cứ câu nào. Bên cạnh những câu giàu chất thơ, vẫn cần có chữ, hoặc câu thô nhám hơn, nếu những chữ hoặc câu đó, cần có để nói lên sự chân thật, trong t́nh huống không cần đến sự ba hoa. Tất cả những ư nôm na này, Hoàng Lộc chỉ cần viết gọn ít câu:

 

          ngập ngừng chi ḍng cuối với câu đầu ? 

           hay:

 

          biết chừng đâu em là câu thứ bốn,

          để huy hoàng tứ tuyệt buổi Đường Thi

 

          Thứ hai, sự khéo léo khi cần khoe “cái tôi”. Phô trương cái xấu của ḿnh, cũng là một chiến thuật thu phục nhân tâm, tạo cảm t́nh với người đối diện. Đă có nhiều nhà thơ áp dụng. Ở đây, tác giả không nhiều lời. Anh chỉ ỡm ờ dùng đúng năm chữ “lắm cái chẳng ra ǵ” để giới thiệu ḿnh. Lời tự kiểm tuy có thể thành thật, nhưng đầy tự măn.

 

          Thứ ba, cái đẹp ở tài dùng chữ. Ví dụ:

 

          để huy hoàng tứ tuyệt buổi Đường Thi.

 

          Với người khác, có thể thay chữ buổi bằng chữ của. Một giới tự biểu thị quyền sở hữu, để minh định cái huy hoàng thuộc về thể thơ Đường. Cũng đúng. Nhưng không hay bằng danh từ buổi của Hoàng Lộc. Buổi ở đây phải được hiểu là một thời hưng thịnh của thơ Đường. Một cụm chữ khác, tác giả dùng cũng rất hay: : t́nh như gươm.

 

          Thứ tư, sự liên tưởng, đối chiếu giàu chất thơ. Luân Hoán để nói người t́nh và ḿnh, trong Đưa Nhau Về Đến Đâu cần hai câu:

          trái tim ta vẫn rộng răi thư pḥng

          em ngủ muôn đời trên vần điệu...”

 

          Hoàng Lộc, chỉ gom lại trong một câu:

            em, sách quư – thư pḥng ta để bụng

 

          Đọc thơ, thật ra không cần đến những suy ngẫm vớ vẩn như trên. Bởi sự cảm nhận, dẫn đến suy diễn của mỗi người thường khá khác nhau. Tôi vẫn nghĩ, có nhiều nhà phê b́nh thứ thiệt, thường đẻ ra những ư tưởng mà chính tác giả, không hề nghĩ tới khi sáng tác.

 

          Xin trích thên hai bài thơ t́nh thú vị khác trong Qua Mấy Trời Sương Mưa:

        

          cái đă chắc lắm khi thành chưa chắc

          đời phù vân ai chẳng khỏi hồ nghi

          trong ḷng anh t́nh sau và nghĩa trước

          muốn yêu em ôi biết nói câu ǵ ?

 

          chút nắng rớt trên đầu non bữa ấy

          đôi giọt vàng c̣n đọng tới trăm năm

          nếu quả có Quỳnh Như cho Phạm Thái

          th́ ăn thua chi những cuộc t́nh lầm !

 

          khi tỏ ư đă riêng đành có lỗi

          bởi thiệt ḷng không khéo dễ điêu ngoa

          em cố gở đời t́nh anh chỉ rối

          cũng chắc chi ḷng nhau đừng phong ba ?

 

          phải nói chớ đâu dừng được nữa

          đă nhện giăng bụi bám một hiên sầu

          em hăy đốt giùm anh thêm đóm lửa

          thử ngọn t́nh hiu hắt đến bao lâu !

                                                (Viết Cho Cuộc T́nh Lâu Ngày, QMTSM107-108)

         

          quả nhiên trong kinh thánh có ghi rằng

          cái xương sườn của tôi chính là em đấy

          khi chứng cớ đă rơ ràng đến vậy

          nghĩ mích ḷng ? em vốn vẫn làm cao ?

 

          em lắc đầu ? em chẳng của tôi sao ?

          giùm tới hỏi Chúa Trời kia khắc biết

          dẫu phải lắc lơ xa hằng mấy kiếp

          tôi dễ chi quên đă mất cái xương sườn

 

          ngày ấy chia tay trước cửa địa đàng

          em - rất tiếc - tôi chưa hề đánh dấu

          để xuống đời ưa nh́n lầm nhận ẩu

          người đàn bà nào tôi cũng tưởng là em

 

          măi đặt điều thẹn, ngượng - hoá nên quen

          chớ thiệt t́nh yêu : người đ̣i - kẻ trả

          em chính của tôi - cứ thẳng thừng : em ạ,

          hăy gửi nguyên đây một cái xương sườn !

 

          em chớ làm cao và chớ giận hờn

          đừng nỡ mập mờ kinh tân kinh cựu

          cái xương ấy tôi là người sở hữu

          kinh luật nào em chẳng thuộc về tôi ?

 

          lầm lũi yêu thương đứt nửa đời rồi

          tôi đă trần thân với đớn đau khổ nhọc

          cái xương sườn xưa tôi quyết đ̣i cho được

          em chối từ ư ? em có quyền ǵ ?

                                    (Đ̣i Lại Cái Xương Sườn QMTSM 115-117)

 

          Lần này, tôi xin lỗi, không dám mon men theo thơ tản mạn nữa. Xin dành phần cho bạn đọc.

         

          T́nh yêu nam nữ của Hoàng Lộc, thật sự không giới hạn trong một chủ đề. Suốt tập Qua Mấy Trời Sương Mưa, và có thể trong cả những thi phẩm khác, thơ t́nh yêu của anh phục kích, lấp ló khắp nơi, lấn chiếm sang nhiều chủ đề khác. Rượu cũng là một chủ đề lớn, chiếm một vị thế quan trọng trong thơ Hoàng Lộc. Thế nhưng, t́nh yêu lứa đôi vẫn ăn dầm nằm dề, trong vần điệu thơm nồng hương Lư Bạch.

          Chỉ căn cứ theo tên bài, trong 81 ngọn thơ của Qua Mây Trời Sương Mưa, đă có đến mười hai ngọn, từ Rượu hiện hữu một cách hiên ngang. Trước tiên, hăy nghe cái lư giải của nhà thơ, khi chàng, Bỏ Làm Thơ Đi Uống Rượu:

 

          đời chẳng c̣n ai quí kẻ làm thơ

          ta mới nản văn chương, ngồi uống rượu

 

          ba mươi mấy năm đôi lần t́nh phụ

          ta đă ớn rồi con-gái-con-gung

          khi giơ roi quất những cuộc t́nh khùng

          ta quất trúng trái tim ḿnh vô tội

 

          ba mươi mấy năm đời ta lỡ mỏi

          Khổng Minh trong truyện cổ buồn hiu

          trước đổi đời danh sĩ cũng lêu bêu

          huống ǵ ta một thằng say rượu ?

 

          huống ǵ em ḷng non thục nữ

          yêu thiên tài, yêu chỉ để làm duyên

          nếu thiên tài đúng là những tên điên

          chắc dễ nguôi khuây một đời gió thổi ?

 

          ta đây nản văn chương t́m quán rượu

          bởi chẳng c̣n ai quí kẻ làm thơ

          sợi t́nh cừu em thả xuống ngày xưa

          đă quấn đủ bao nhiêu ṿng oan nghiệt ?

 

           xin cảm ơn em hành ta thấm mệt

           để yên ḷng mê rượu, bỏ văn chương.

 

          Động lực chính để Hoàng Lộc trở thành một đệ tử, không được nhập môn, của ông Bá Luân Lưu Linh đời Tấn bên Tàu, được tác giả xác nhận một cách minh bạch: “đời chẳng c̣n ai quí kẻ làm thơ / ta mới nản văn chương, ngồi uống rượu” Thật ra, sự thất chí về văn thơ chỉ là ṭng phạm. Căn nguyên khởi thủy, hay thủ phạm, vẫn hiện nguyên h́nh là giai nhân và ái t́nh. Suy nghiệm kỹ hơn, chính hai vị thần này, đă góp công lớn, để đẻ ra cái thú tiêu khiển thanh tao văn chương. Hai câu cuối của bài thơ là hai câu hay, nhưng không xác thực trên thực tế. Bởi tác giả không hề đoạn tuyệt với t́nh và văn chương. Anh chỉ đèo ḅng thêm một cái lạc thú lớn nữa thôi: rượu ! Chẳng có ông nhà thơ nào dại dột từ chối cái thấm mệt dễ thương: được em hành !

          Giai nhân cộng với thất t́nh là tế bào khai sinh ra bệnh mê rượu, hiện rơ nét hơn trong bài Về Hội An Uống Rượu Đợi Người:

 

          đời nhỏ tưởng chừng dăm hớp rượu

          ai hay sầu chật một hồn sầu

          ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ

          hồng nhan, hồng nhan – ta chiêm bao

          ...

          về đây chợt ngó trường giang rộng

          ngứa cổ cười khinh mùa phong yên

          nương tử, tài hoa anh đă cạn

          rựơu buồn đâu dám đợi tay em

          ...

          t́nh vụng như rượu nồn lỡ sặc

          hồng nhan ơi, em có thương giùm ?

                                                      (trang 28- 29)

 

          Những đoạn trích dẫn tiếp dưới đây, nhằm mục đích xác nhận nguyên nhân, giúp Hoàng Lộc trở thành rực rỡ khi anh được may mắn đến cùng rượu. Vị cay hương nồng này, từng quật ngă khá nhiều hảo hớn. Nhưng với Hoàng Lộc, nó trở thành một người bạn chí thân, chí t́nh. Nó giúp anh trải ḷng ra cho đời thưởng thức. Nó nâng chân từng con chữ, sống phương phi trên tay anh. Những bài viết có liên quan đến rượu của Hoàng Lộc, đều đạt được cái thần của thơ. Không cầu kỳ, không trau chuốt. Nhiều khi với những từ ngữ, thuần túy của một miền quê nổi tiếng cục mịch, Hoàng Lộc cũng vẽ lên được những nét thơ lộng lẫy, rất cá biệt. H́nh như Hoàng Lộc chưa say rượu bao giờ. Anh không biết say. Anh chỉ biết nương vào hơi men, để nói ra t́nh ḿnh bằng thơ. Một thứ thơ rất mới, rất cá biệt, dù h́nh thức đă có tuổi thọ rất cao. Cái ǵ đă giúp những bài thơ rượu của Hoàng Lộc hồng hào da thịt ? Câu trả lời vẫn chỉ là sự lặp lại: t́nh yêu lứa đôi:

 

          “... phải ngươi là người dại gái

          một đời ngâm câu thiên nhất phương (*)

          thôi ngươi hăy ghé đây ngồi quán

          cùng nghiêng tai nghe mưa đêm trường...”

                                                       (Rựơu Mùa Đông 62-63)

                      *vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương, thơ Vũ Hoàng Chuơng , HKQ ghi chú

 

          “... như em lâu lắm về xa lắc

          bên sông chim cũ hát câu ǵ

          rượu vào dễ khiến ta văng tục

          ai dám cười ta c̣n sân si ?

          ...

          chủ quán c̣n khinh ta lận đận

          huống hồ em chẳng vội buông tay

          nghênh ngang dép đứt, hồn cô quạnh

          gă thất t́nh xưa đă quá say”

                                                      (Uống Rượu Một Ḿnh QMTSM 67-68)

 

          “... với rượu đắng ta là tay từng trải

          nhưng với t́nh ta hăy c̣n thơ dại

          em không tin hay em muốn nặng lời ?

          ...

          như ta đây rồi sẽ khổ v́ em

          chớ điên cha chi lại uống say mềm ?”

                                                           (Rượu Tỏ T́nh, QMTSM84-85)

 

          “... một đời riêng: quán nghèo, quí rượu

          anh một đời riêng: làm nông, thi sĩ

          rór rượu buồn xin dâng tặng quăng đời chung

          anh uống giùm cô chỗ rượu khốn cùng

          ...

          chỗ buồn kia cô cứ rót tràn ly

          bởi nhà thơ thường sính rượu hồng nhan”

                                                            (Uống Giùm Rượu Tặng 100-101)

 

          “...bữa rựu chiều ta, em ở đâu ?

          mang mng lưng chén cái thương sầu

          phải em c̣n tiếc ḷng khuê các

          đành bỏ t́nh kia chịu ốm đau ?

                                               (Ta, Bữa Rượu Chiều 120 – 130)

 

          Dĩ nhiên với một người mê rượu, sành uống như Hoàng Lộc, việc bỏ người đẹp lại sau lưng, để mang rượu vào cùng bằng hữu, cùng đất khách trời quê là chuyện không thể, không xảy ra. Những bài thơ rượu ở góc cạnh này, thường mang những ưu tư về cuộc sống, về thân phận con người giữa một thời kỳ đất nước hứng chịu bom đạn. Đọc những bài chí-t́nh-ca này, người đọc dễ thông cảm tác giả, ngậm ngùi cho cả một thế hệ giàu bi thương. Bài thơ tặng Đynh Trầm Ca của Hoàng Lộc, không chỉ dành riêng cho người của thơ, của nhạc Mạc Phụ (tên tật của ĐTC), mà tặng hết thảy chúng ta, lứa tuổi khởi đi từ 1937 về đến 1975:

 

          rượu tàn niên chừ gió xa xăm

          gió chi thổi miết năm mươi năm ?

          quán cô hồn một ta chớ mấy

          sợ - mà khinh - những cái thăng trầm

 

          trời vẫn xanh, đỗ thừa tay ngắn

          con đường kia trầy trợt lắm lần

          gơ ly ơ hờ du tử khúc

          tứ xứ c̣n nghiêng mỗi bước hân

 

          ghé đây em, ta mời chút rượu

          kẻo chẳng c̣n ai uống được giùm

          lếch thếch buổi chiều hiên phố hẹp

          chưa đành thôi hẳn những tin xuân

 

          có khi khuất lấp bao ngày cũ

          trúng sai chi khỏi khổ người sau

          giá có em ngồi, ta kể lại

          mỗi biển xanh từng hóa ruộng dâu

 

          giá có em cùng chia chút rượu

          dễ khi gió đă lặng bên trời

          ta chẳng vạn lần như một

          hễ tới là tan ngắt cuộc vui

          .

          tiếng thở dài nghe quá cũ càng

          rượu tàn niên tống khứ năm buồn

          riêng chung mấy chén, đời như rượu

          gượng để đừng say giữa cố hương...

                                       (Rượu Cuối Năm, 150-151)

 

          Nói về rượu trong thơ Hoàng Lộc thật không cùng. Bài nào của anh cũng nên đọc, đáng trích dẫn. Bạn sẽ rất lư thú khi đến với: Rượu Huế, Uống Ở Hội An, Với Rượu Chiều Xuân, Nhớ Rượu...

          Tôi chợt có một thắc mắc hơi ngớ ngẩn: Hoàng Lộc viết những bài thơ này vào những thời khắc nào ? Trong khi đang uống rượu ? Sau hoặc trước khi uống rượu ? Có lẽ cả ba thời điểm đều có thể sáng tác được. Nhưng thói quen của Hoàng Lộc rơi vào đâu ? Riêng suy nghiệm của tôi, một người uống ruợu tài tử, uống rượu xă giao, uống rượu v́ sức ép của bè bạn, uống rượu v́ giữ thể diện hảo... đoán ṃ rằng: Hoàng Lộc đă viết được rất tới, sau những chầu rượu, thậm chí sau những cơn say dài. Sự tỉnh táo, khoảng trống vắng, b́nh an của tâm hồn, là những khoảnh khắc tuyệt vời nhất.

          Bạn có thể làm thơ t́nh, trong hai thời điểm đẹp nhất của t́nh yêu: đang yêu và thất t́nh. Nhưng những bài thơ ấy, h́nh như không hay hơn, những bài bạn sẽ viết sau khi tâm hồn lắng đọng. Rượu không thể so sánh với t́nh yêu. Nhưng so với t́nh nhân th́ có thể, dù rằng rượu ở một “đẳng cấp” thấp hơn.

          Rất mong có dịp được nhà thơ Hoàng Lộc, giải đáp cái nghi vấn ba hoa của tôi, một người ghiền thơ, nhưng quen đọc ba chớp ba nhoáng.

 

 

          Ngoài hai điểm tựa lớn, t́nh nhân và rượu. Hoàng Lộc cũng đồng hành với nhiều nhà thơ cùng thời tại Quảng Nam. Anh chọn những tiền nhân không phân biệt quốc tịch, những nhân vật lỗi lạc trong văn thơ, và những người quen thân, để làm bệ phóng gởi những ưu tư, suy ngẫm của ḿnh đến khách yêu thơ. Trong hai bài viết về hai thi sĩ Phan Xuân Sinh và Hà Nguyên Dũng, tôi đă có trích những bài thơ ngùn ngụt hào khí của họ.  Ở đây, tôi lặp lại công việc ấy với Hoàng Lộc. Sự giới thiệu hoàn toàn không có mục đích so sánh. Bởi mỗi người có khả năng thể hiện riêng. Nhất là thơ của cả ba thi sĩ đều là thơ đúng nghĩa.

          Mời cùng nghe Hoàng Lộc, tâm sự với ông Quan Công ở chùa Ông Hội An:

 

          Quan Vân Trường mặt đỏ cũng thành danh

          ta đỏ mặt hơn ông, đời lại hỏng

          ông cốt cách quỳnh tương, ta hồ đồ rượu dỏm

          cuộc trăm năm đă đến thế - hoang tàn

 

          Kinh Châu, Kinh Châu mờ hơi sương

          ḷng ông, ḷng ta - ai biết được ?

          hào khí ngời thanh long, cũng sụt sùi ngọn bút

          chuyện ngh́n xưa thầm ḥi chuyện ngh́n sau

 

          ông c̣n đất để về, ta biết về đâu ?

          mịt mịt trời sương - mờ mờ thân thế

          châu với quận đă lạc loài tri kỷ

          mảnh trăng suông vừa nhạt thếch rượu mời

 

          chốn trần gian tốc gió bốn trời

          trên đất lạ c̣n rung bờm xích thố

          ông tử vi thần thơm lừng thiên cổ

          ta thơ cuồng vất vưởng mỗi tờ mây

 

          để có lần ta chếnh choáng qua đây

          chén rượu dỏm chừng không gượng nổi

          ông linh hiển, mặt mày ông đỏ chói

          đỏ mặt ḿnh, ta gục dưới chân ông.                

                                                   (Bữa Say Ghé Chùa Ông Ở Hội An)

 

          Quan Vân Trường, Kinh Châu, Thanh Long, Xích Thố... những văn liệu rút ra từ nguồn văn học cổ. Thường được gọi gọn nhẹ là điển tích. Bài thơ dùng nhiều điển tích thường cho thấy vẻ uyên thâm của tác giả. Điển tích có nhiều loại khó hiểu, cần phải được chú thích, để người đọc thấu hiểu đoạn thơ. Những điển tích Hoàng Lộc dùng trong bài thơ trên, thuộc loại quen thuộc, có liên hệ với nhau. Xin phép được dài ḍng:

          Quan Vân Trường là tự của ông Quan Vũ, người đứng đầu trong ngũ tướng của nhà Thục Hán bên Tàu. Gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mă Siêu. Quan Vũ c̣n có tự là Trường Sinh và thường được gọi là Quan Công. Vũ khí ông xử dụng là Thanh Long đao, nặng 18 kg. Người bạn cùng trải qua chiến trận với ông là con ngựa Xích Thố. Kinh Châu là tên một thành phố nằm ở đoạn giữa Trường Giang. Thành phố này được cho rằng do Quan Vân Trường xây dựng. Tuy được tiếng là trượng nghĩa, hào hiệp, nhưng Quan Công khá cao ngạo, nên về sau bị đối phương phục kích và Tôn Quyền đă cắt đầu ông đem nạp cho Tào Tháo. Quan Vũ được tiểu thuyết hóa và thần thánh hóa. Ông được lập chùa thờ nhiều nơi, nhiều đời. Khi người Trung Hoa đến Hội An, họ đă xây dựng Quan Công Miếu, ngay trung tâm thành phố, rất bề thế vào năm 1653. Quan Vân Trường được mô tả là người có khuôn mặt đỏ. Hoàng Lộc tự cho phép ḿnh b́nh đẳng, chuyện văn với Quan Công, quả là một điều thú vị. Anh nói với người xưa như nói với chính ḿnh. Điều này h́nh như chỉ có nhà thơ, nương hơi men mới thực hiện được.

         

          Trong một lần cồn cào v́ cái đói, ở trại tập trung cải tạo tại Tiên Lănh, Hoàng Lộc chợt nhớ một câu thơ của cụ Nguyễn Công Trứ “...người quân tử ăn chẳng cần no...”. Rồi ngẫm đến cốt cách, thể diện người xưa, ông sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa Hoàng Lộc, tự nhiên bực ḿnh. Thế là kho thơ Việt Nam, có thêm bài Nói Chuyện Đói Với Nguyễn Công Trứ.

          Xin để trong ngoặc đơn. Cụ Nguyễn Công Trứ sinh năm 1778 tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ có tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn. Cuộc đời làm quan thăng trầm bất thường. Nhưng luôn luôn giữ tiết tháo của người quân tử. Cụ mất năm 1858, để lại nhiều áng thơ nổi tiếng, thường được truyền miệng như “ đă mang tiếng trong trời đất, phải có danh ǵ với núi sông - kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo. ..”

          Bài thơ khá cao ngạo của Hoàng Lộc với nội dung:

 

          quân tử nào ăn chẳng cần no ?

          Tồn Chất tiên sinh, ông là tên bá láp

          bởi có những đêm ta nằm ta ngáp

          khi đă thua từng cơn đói đầu hôm

 

          xưa lắm rồi kiểu nói văn chương

          bần tiện không di mới là quân tử

          ta thấy bọn cứ lạy dài uy vũ

          rồi vẫn huyên hoang giở giọng khinh đời

 

          ông ngày xưa sống để dong chơi

          nay ta sống để ở tù - hẳn khác

          cái nghèo của ông, nghèo chờ hiển đạt

          cái đói của ta, cái đói trường kỳ

 

          cửa khóa then cài ta gặp buổi loạn ly

          bụng nước thay cơm kêu đâu cần vỗ

          tráng sĩ bạch đầu nh́n qua cửa sổ

          một khoảng trời mù đêm vẫn là đêm

 

          từ thuở thiếu thời, ta chịu đói không quen

          năm canh đó với bao lần trở giấc

          nhẩm phú hàn nho, biết lời ông nói trật

          muốn chửi đổng vài câu, lại sợ ông buồn

                                                      (QMTSM trang 43-44)

 

          Bài thơ hay ở tính chất khẩu khí. Cái đói cộng với cái tù túng, sinh ra bực dọc, nóng nảy. Hoàng Lộc thể hiện được nỗi niềm này rất thành công. Ngoài ra cái tài dùng h́nh ảnh lẫn văn tự trong thơ cổ, để tạo một câu thơ đối chọi cũng rất linh động. Từ “ ngày ba bữa vỗ bụng rau b́nh bịch” (NCTrứ), chuyển ra thành bụng nước thay cơm kêu đâu cần vỗ, thật tuyệt vời. Và theo quan niện ngày xưa, đấng trượng phu phải vượt được ba điều: Phú quí bất năng dâm (giàu sang không sinh dâm loạn) Bần tiện bất năng di (nghèo nàn không thay đổi bản chất, chí khí), Uy vũ bất năng khuất (trước bạo lực không khuất phục, qui lụy). Hoàng Lộc viết đoạn thơ thứ hai cũng rất thích hợp với quan niệm của anh. Tuy nhiên, ở góc cạnh lễ nghĩa, chúng ta thấy có chút ǵ không ổn. Cụ Nguyễn Công Trứ và Hoàng Lộc cách nhau nhiều thời đại, quan niệm kẻ sĩ đương nhiên có phần khác nhau. Sự sai đúng tùy thời. Cụ Nguyễn Công Trứ có thể ăn không cần no là điều có thật với cụ, thời cụ. Không thể so sánh. Thêm vào đó ba chữ “tên bá láp” đạt tới cái đích khẩu khí, cao ngạo, nhưng lại phạm cái thất kính với người xưa, nhất là người “ đă có công ǵ với núi sông”, Nếu quan niệm biết làm thơ đă là có công.

          Hoàng Lộc chính xác ở nhận định trong cảnh bị giam cầm: “cái nghèo của ông, nghèo chờ hiển đạt / cái đói của ta, cái đói trường kỳ”. Nhưng anh đă thiếu công bằng với vị quan văn phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó từ năm 1827 đến năm 1835. Cuộc công danh của cụ Nguyễn Công Trứ coi vậy mà rất thăng trầm. Đă có lúc cụ bị giáng xuống làm lính. Như vậy không thể nói “ông ngày xưa sống để dong chơi”. Có lẽ Hoàng Lộc chỉ dùng câu này, cho mục đích làm nổi bật cái long đong, cũng do thời thế của anh:  “nay ta sống để ở tù - hẳn khác”.

          Một điểm khác cũng rất đáng vỗ tay tán thưởng Hoàng Lộc. Anh bị bức chế phải ngồi tù, từ cái sự thay đổi chế độ sau 1975. Cơn đói của anh phát sinh từ đấy. Nhưng anh không hằn học chế độ. Mặc nhiên chấp nhận như một việc phải đến đă đến. Hoàng Lộc nhiều lần khẳng định: thơ anh là thơ t́nh. Những mảnh vụn chính trị, rất hiếm khi được anh mang vào thơ. Họa hoằn lắm là những nét mờ nhạt. Đại loại như  tráng sĩ bạch đầu nh́n qua cửa sổ/  một khoảng trời mù đêm vẫn là đêm”. Tâm hồn của Hoàng Lộc là tâm hồn của thơ, của tha thứ. Khó có thể t́m thấy câu chữ nào của Hoàng Lộc làm phiền đến thể chế đương quyền tại Việt Nam. Ấy vậy mà trong một lần, được nhắc tên trên một bài vào tập cho một tuyển thơ tại quê nhà, tên anh cũng bị gạch bỏ cùng một vài người khác, có lư lịch xấu hơn anh.

 

          Trong những bài có liên quan đến người xưa tích cũ của Hoàng Lộc, tôi cũng rất thích bài anh viết tặng cho nàng Chiêu Quân.  Người đẹp này họ Vương, là một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa thời xưa. Nàng được nhập vào cung đời vua Hán Nguyên Đế, chỉ để làm cung nữ, chưa lần nào được gặp vua. Hô Hàn Tà, vua nước Hung Nô ngơ ư muốn làm con rễ Hán Nguyên Đế. Nhưng vị đế vương này chỉ cấp cho Hàn Tà, năm cung nữ, trong đó có Chiêu Quân. Sau khi có ba con cùng vua Hung Nô, Hô Hán Tà qua đời. Chính Hán Thánh Đế buộc Chiêu Quân tuân theo tập tục nối dây của người Hung, để làm vợ Phục Chu Luy Nhược Đề, con trai người vợ lớn của chồng. Có thêm hai con, Chiêu Quân qua đời được an táng tại Thanh Trủng (Nội Mông ngày nay). Với đời t́nh giàu bi thương, Chiêu Quân được các đại thi sĩ Lư Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương An Trạch, Quách Mậu Thiến, Quách Mạt Nhược, Tào Ngu, Mă Trí viễn... mang vào thơ. Thi sĩ Việt Nam, cũng lắm kẻ dành vần điệu cho người đẹp Vương Tường (tên thật của Chiêu Quân). Tuy nhiên không mấy người trải ḷng rộng răi như thi sĩ Hoàng Lộc:

 

          Hán Đế một lần lên ải bắc

          ḷng không dám giữ Chiêu Quân

          chao ôi, uổng một tay hùng liệt

          đành chống gươm đau một khúc đàn

 

          thuở đó làm vua ưa để tiếng

          ngó ra trăm họ tưởng con ḿnh

          ông một quyết hoà ra chiến

          đă tránh đời sau chút trọng, khinh ?

 

          ông lầm như chính ông từng đă

          (th́ đứa Mao Diên Thọ đấy rồi !)

          Chiêu Quân kia với người thiên hạ

          nỡ ḷng ông chọn cái không vui

 

          ta chẳng từng lên chi ải bắc

          gă làm thơ đâu thể là vua

          ư như có bữa làm vua thiệt

          một phút, quân reo giữa đất Hồ

 

          ư như có bữa làm vua thiệt

          chi khắp bêu rêu một khúc đàn

          t́nh ta, lại cả ta-quyền-lực

          không dễ rời đâu em, Chiêu Quân !

                                     (Viết Tặng Chiêu Quân 155)

 

          Tôi vẫn thường thắc mắc về các bài thơ, được các tác giả ghi tặng bạn hữu của họ. Quà tặng này có nghĩa như thế nào qua nội dung bài viết ? Phần lớn, theo nhận xét riêng, giá trị sự trao tặng thường là xă giao. Rất hiếm bài nhắc lại kỷ niệm giữa người tặng và người nhận. Ở thơ Hoàng Lộc, tôi t́m được điều này trong bài tác giả tặng nhà thơ kiêm vơ sĩ Hạ Quốc Huy. Những lời tâm sự cởi mở, những bày tỏ khí phách cao ngạo, tuôn chảy như đă được tán thưởng đón nhận. Lời thơ thật sự sảng khoái, mời đọc vài đoạn trong bài Mặc Cho Đời Bụi Phủ:

 

          “... về đây đă hết tay hào sảng

          vỗ bụng trông trăng chếch cả cười

          ai có ngờ bên đời gió thổi

          hăy c̣n sót lại một nhà ngươi

 

          tiếc v́ hai đứa ta vô phúc

          đến buổi gươm cùn mới gặp nhau

          tiếng ngựa xa dần trên giấc mộng

          trong tim cũng rách áo công hầu

          ...

          bây giờ hai đứa ta mê rượu

          chí cả lùi sau ngọn tiểu sơn

          cũng mặc cho đời nhau bụi phủ

          ngươi ơi rượu xé đắng trong hồn”

 

          Bài thơ chắc chắn làm người được tặng hài ḷng. Trong tập Qua Mấy Trời Sương Mưa, Hoàng Lộc dành ít nhất mười bài để ghi tặng những người anh quen thân. Trong số mười bài này, có đến bảy bài có bóng dáng, hơi hám người được tặng trong thơ. Một tỉ lệ, tôi nghiệm ra, cao nhất trong số các tác phẩm tôi đă đọc. Ư nghĩa của sự đề tặng của Hoàng Lộc thật nghiêm chỉnh. Xin trích thêm vài đoạn, cho người nhận là Lộc em:

 

          “ có lẽ c̣n thương thời đi học

          nên em thường mặc áo trắng dài

          áo ngày xưa bây giờ sờn rách

          màu trắng ấy chẳng chi phai !

          ...

          áo em trắng gởi ngày mây nổi

          bờ sông buổi sớm khói ch́m sương

          là khi ta thoáng nghe lời gọi

          ḷng hóa thành mây bay tha phương..”

                                                (Màu Áo Màu Mây, 125-126)

 

          Thơ có đề tặng khác hẳn với tranh đề “dành riêng”. Ở hội họa, dành riêng nói lên sự sở hữu tác phẩm, dù phải bỏ tiền mua hay được tặng thật sự. Ở thơ, đề tặng chỉ có ư nghĩa tinh thần. Tuy nhiên niềm hănh diện và sự vừa ḷng của người được ghi tên rất cao. Tôi vẫn thích và sẽ rất sung sướng nếu được thi sĩ nào đó đề tặng thơ. Niềm vui này có lẽ c̣n lớn hơn, niềm vui nhận được cả tập thơ có đề tặng với chữ kư tác giả. Lư do đơn giản: tôi cũng muốn nhiều người biết đến ḿnh, dù chỉ hờ hững liếc mắt qua.

 

          Cũng như hầu hết các nhà thơ, Hoàng Lộc đă cho chữ nghĩa ghé vào nhiều miền đất. Nơi anh trồng tỉa cảm t́nh của ḿnh qua từng chặng đường đời. Tuy vậy, thơ viết về quê hương của Hoàng Lộc không được nhiều. Rất vui, trong cái ít ấy, phần nhiều là những bài rất hay. Hay như thế nào ? mời các bạn nghiền ngẫm:

 

          khi anh về trời phố cũ lên sương

          đôi chút lạnh đôi chút sầu tháng chạp

          vừa đủ mỏi đôi chân thằng lăng bạt

          anh nghiêng vai ngó lại cuộc đời ḿnh

          áo bụi mù và tóc gió phai xanh

          tay vẫn ngắn để trăm lần thua thiệt

          phố th́ nhỏ anh c̣n qua chưa hết

          lại hoài công đi bắt mộng bên trời

          khi nhớ ra ḿnh đă tuổi ba mươi

          ba mươi tuổi sao cứ hoài lỡ vận?

 

          khi anh về buồn hơn loài mây trắng

          nghĩ người xưa phú quí mới hồi hương

          chuyện công danh như muối xát trong hồn

          chưa áo gấm nên hoài hoài viễn xứ

          anh sợ qua nhà từng bằng hữu cũ

          sợ qua đường gặp những dáng t́nh xưa

          kỷ niệm th́ xa, xa quá - mơ hồ

          chẳng lẽ nhắc để làm nên yêu dấu?

 

          khi anh về bé vừa lên mười sáu

          rất dịu dàng nhưng rất lạ đời anh

          khi đưa tay gơ vội trái tim ḿnh

          nghe sai lỡ như một lần dâu bể

          anh đă già rồi hồn khô ư trễ

          tương lai mù trên mấy ngọn sầu đông

          yêu vô vàn cũng rớt giọt t́nh không!

 

          khi anh về bất ngờ anh biết khóc

          qua hiên nhà người, bé vào lớp học

          bé đâu hay thành phố đó lên sương

          là khi anh cúi xuống một đời buồn ..

                                   (Ngày Trở Lại Hội An 17-19)

 

         Cô bạn gái chung giường của tôi đọc bài vừa dẫn, quả quyết tôi nhầm lẫn, nếu xếp bài thơ vào loại thơ quê hương. Theo cô ta, bài thơ vẫn chỉ là một bài thơ t́nh. Địa danh được nhắc tới chỉ là cái cớ, để từ đó tác giả nhớ lại kỷ niệm xưa, mà chủ yếu vẫn là cô bé vừa lên mười sáu tuổi khi anh về bé vừa lên mười sáu. Tôi chống chế bằng những dẫn chứng:

 

          khi anh về trời phố cũ lên sương

          đôi chút lạnh đôi chút sầu tháng chạp 

         ....

          phố th́ nhỏ anh c̣n qua chưa hết...

          

          Thơ Quê hương không nhất thiết là thơ mô tả cảnh sắc. H́nh ảnh cảnh vật vốn sinh động ở ngoài đời. Nhưng khi được mang vào thơ, chúng trở thành cảnh chết. Người làm thơ phải thở vào chúng, những t́nh cảm, những suy tưởng... vốn đă từng gắn liền với chúng ngoài đời thường. Có như thế, cảnh vật mới thực sự linh động trong thi ca. H́nh ảnh, t́nh cảm con người được nhắc tới, cũng là một góc cạnh cần thiết, khi diễn tả, giới thiệu một địa danh. Có thể nói, hầu hết những bài thơ được xếp loại thơ quê hương, đều có những tâm sự, những kỷ niệm riêng của người viết. Những bài thơ quê hương nổi tiếng, đậm đà nét tả chân của các thi sĩ Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Vũ Quỳnh Bang, Trần Huiền Ân... cũng đều có sắc tố tâm hồn.

          Để thuyết phục cô-em-thường-cho-gối-tay, về thơ tả cảnh của Hoàng Lộc, tôi xin trích thêm vài nét vẽ thật linh hoạt, của ông nhà thơ tuổi quư mùi, quê quán Hội An:

 

          “... đây trời đất mù như khói

          phố như sương giữa đất trời mù

          anh che không hết từng cơn gió

          tạt bên đời, ướt ngọn t́nh xưa...”

                                              (Khi Mới Đến Đà Lạt 31-32)

 

          “... cây quenđă thiết thân người

          cái trưa nắng bỗng thấy trời đầy mây...”

                                              (Qua Đ̣ Duy Vịnh 81-82)

 

          “... chiếc thuyền con mặc ḍng nước chảy

          ngó bến nào cũng cứ mù sương...”

                                               (Câu Đêm Ở An Bàng 86)

 

 

         Sau cùng, để dừng chân bước trong chuyến theo chân thơ Hoàng Lộc, tôi xin phép chị Nhật Nguyễn cho mượn ít sau sau:

 

         “...Hoàng Lộc đến với đời này bằng trái tim không b́nh yên. Cơi thơ anh tưởng như là thế giới riêng tây. Thế giới ấy dù mở ra thăm thẳm chiều sâu, nhưng bằng ngôn ngữ b́nh dị đời thường, lại khiến ta dễ rung động gần gũi

                                                                                                                          Nhật Nguyễn

 

Hà Khánh Quân

16-4-2010

hakhanhquan@gmail.com