Phan Duy Nhân

Trên Con Đường Từ Thức

 

Hà Khánh Quân

 

 

          Trong bài viết Gởi Những Người Bạn Trẻ, nhà biên khảo Hoàng Nguyễn, cũng là thầy hiệu trưởng trường trung học Phan Châu Trinh – Đà Nẵng Nguyễn Đăng Ngọc, đă “hướng nh́n theo chiều hoài niệm”, gởi về các học tṛ cũ của ông những t́nh cảm, những suy nghĩ rất chân t́nh. Những người học tṛ cũ đó, được ông cho biết:  “... tất cả đều trên 40 tuổi, cái tuổi không c̣n ngập ngừng ǵ nữa ở cuộc đời (tứ thập bất hoặc!), đă biết gánh chịu trách nhiệm cho ngày nay và hôm mai”. Bài viết không trực tiếp so sánh, đánh giá sự khác biệt của lễ nghĩa sư đồ, giữa thời kỳ điện toán với những niên khóa vừa quay gót không lâu. Nhưng cái ngụ ư của người viết, bạn đọc ai cũng hiểu ra.

          Cái t́nh bao la của người thầy không cho phép thiên vị trong đối xử. Xă hội Việt Nam chúng ta, con người vẫn thường trực bị đẩy vào hai thế đứng đối nghịch. Đám học tṛ của thầy Ngọc cũng không nằm ngoài sự chia phân ấy. Nhưng dù ở bên này hay bên kia lư tưởng, những người học tṛ vẫn được người giáo dục ḿnh nhớ đến đồng đều và tŕu mến. Học được tính bao dung chân t́nh của người thầy cũ. Tôi bớt hẳn nỗi ngại ngùng, bị người khác đội cho ḿnh cái mũ không vừa đầu, để viết về một ḍng thơ quí, mà tác giả đă ngă sang hướng nghịch chiều với quốc kỳ màu vàng của tôi.

     

          Khởi từ đầu thập niên sáu mươi, tại thành phố Đà Nẵng, lớp sinh hoạt thơ văn trung niên và sắp về già như: Thái Can, Vũ Hân, Quốc Dân,Việt Trữ, Hồ Mộng Thiệp, Trần Gia Thoại, Tô Như, Thanh Phương, Anh Đô, Hoàng Trọng Thược... h́nh như chỉ thu hẹp sinh hoạt trong địa bàn thành phố. Cùng lúc đó, trong đám học sinh, nở rộ việc thành lập thi đàn, bút nhóm. Có vóc dáng và nghiêm chỉnh nhất trong những tập họp này là nhóm Cùng Đi Một Đường. Tôi không rơ ai khởi xướng, ai giữ chân nhóm trưởng. Nhưng thành viên của nhóm, hết thảy, với tôi, đều bạn thân t́nh : Phan Duy Nhân, Huy Giang, Lam Hồ, Tô Yên, Hồ Cư. Trong năm tay viết, có đến ba nhân vật tập tành... khuynh tả. Và cả năm đều có bài đăng khá đều đặn trên các tuần báo, nguyệt san, tạp chí tại Sài G̣n.

          Huy Giang tên thật Nguyễn Đăng Trừng, hiện hành nghề luật tại Sài G̣n.

          Lam Hồ tên thật Nguyễn Hữu Nuối, viết mạnh và đều nhất thời bấy giờ, nhưng đă sớm gác bút khi hành nghề dạy học, hiện vẫn ở Đà Nẵng.

          Tô Yên tên thật Lê Văn Nghĩa, trở thành thiếu tá binh chủng Thiết giáp VNCH, đă hy sinh ở mặt trận Quế Sơn Quảng Nam năm 1972.

          Hồ Cư dùng tên thật làm bút hiệu, đă biệt tích khá lâu trong những ngày anh lên rừng “làm cách mạng”.

          Phan Duy Nhân là người tôi đang níu thơ anh để lang thang hôm nay.

 

          Tôi đă được đọc ba, bốn bài viết có liên quan đến Phan Duy Nhân trong mấy năm vừa qua, không lâu lắm. Những bài viết được thực hiện bởi những người bạn anh, hoặc ít ra khá thân với anh. Trên tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ, anh trai của nhà văn Hồ Đ́nh Nghiêm, anh Hồ Đ́nh Nam, hiện định cư tại Anh Quốc, viết một bài. Những bài khác của các nhà văn Phan Nhật Nam (tác giả Dựa Lưng Nỗi Chết, Dọc Đường số 1...vv) và Nguyễn Chí Thiệp (tác giả Trại Kiên Giam và Việt Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do). Cả hai nhà văn nổi tiếng chống cộng này, đều là bạn học cùng trường Phan Châu Trinh với Phan Duy Nhân. Phan Nhật Nam cùng nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng (hiện ở Toronto, Canada) học trên Phan Duy Nhân một lớp. Nguyễn Chí Thiệp ngồi cùng với Phan Duy Nhân một dăy bàn, trong suốt bốn năm đệ nhất cấp. Quan hệ thân mật trong t́nh bạn học, những bài viết của hai ông nhà văn rất chân t́nh dù đưa ra nhiều điều đáng suy ngẫm.

         

 

          Thơ Phan Duy Nhân thường được “đi” trên tạp chí Bách Khoa, do ông Lê Ngộ Châu điều hành. Ṭa soạn Bách Khoa nằm ở số 160 trên đường Phan Đ́nh Phùng Sài G̣n. Dưới đây là Cuối Năm Rời Nhà Trọ, được tác giả xếp vào tập Ngậm Ngải T́m Trầm. Nhưng tập này đến nay h́nh như vẫn chưa được xuất bản:

 

          ḷng trống không mà mưa cuối năm !

          tre câm cam chịu nỗi cơ hàn

          chăn đơn đời ngủ không đành dậy

          tay vắt ngang mày đợi bóng trăng

 

          này lối thầm xưa ngùi kỷ niệm

          này vuông cửa sổ ngắm, chiều rơi

          mai sương như khói lên đầu ngơ

          giọt nến đêm dài thêm tủi thôi

 

          cau vút thân vời cao chín bậc

          thầm ru chim phượng ngủ trong ḷng

          bạn bè mộng thấy dăm ba bận

          ai biết ta nằm đây nữa không ?

 

          ước xa như người đă khuất

          cam thua cau mặt lật con bài

          mưa chiều tượng mỏi im như Phật

          từng giọt buồn rơi qua kẽ tay

 

          trang sách, vuông khăn, vài vạt áo

          ḷng cúi mặt bước chân ra

          chỉ cần mưa ngớt cho đôi chút

          trời rộng xin đừng gió thổi qua !

 

          Cả bài thơ toát ra một nỗi buồn lặng lẽ, đơn độc. Hơi thơ như những nhịp đập bồi hồi của trái tim. Những buổi chiều cuối năm, vốn mang sẵn một nỗi buồn rất thiêng liêng, rất vô cớ. Ở đây, cái ngậm ngùi bát ngát ấy, lại được lan tỏa bởi nhiều nguyên nhân. Người khách trọ hẳn là kẻ cô độc đă lâu, không rơ v́ lư do ǵ phải rời nơi cư ngụ tạm bợ của ḿnh. Tác giả không nói. Và chúng ta, tưởng chỉ nên chú tâm vào cái hoạt cảnh chia ly, giàu tâm trạng của người ra đi.

          Với nỗi ḷng trống không, chẳng chút t́nh nào đọng lại, người khách trọ buồn bă nh́n quanh. Ngoài trời dày kín những ngọn mưa sướt mướt. Cái lạnh của không gian thổi buốt cái lạnh trong ḷng. Dù không đành rời bỏ nơi chốn hẩm hiu, nhưng biết không thể lưu lại, người khách trong những giây phút sau cùng, cố nằm nướng vắt tay ngang mày, nghĩ đến một ngày tươi sáng hơn. Và trong khoảnh khắc anh chợt nhận diện được những thân mật, những t́nh nghĩa, lâu nay đă sống bên cạnh ḿnh. Đó chính là con đường, từng nâng đỡ những bước ngậm ngùi đi về. Đó chính là cánh cửa, từng thao thức chờ đợi để cùng chứng kiến, những buổi sớm mai sương đầy như khói, những đêm xuống chậm như từng vệt nhễu của ngọn đèn chong. Đời người rồi cũng ṃn hao thầm lặng như sự đi đến vô t́nh của đêm, ngày. Để vượt qua những hoài nghi, hướng đến cái chí cao chín bậc của ḿnh, không cách nào khác hơn là dựa vào cái mơ ước, vẫn nuôi trong ḷng. Người khách trọ quyết thử thời vận thêm một lần nữa. Sá ǵ những giọt mưa, kể chi những nỗi buồn. Tất cả đang rụng xuống, lọt qua kẽ tay, khi con đường xanh mở ra trước mặt. Một chuyến khởi-hành-mới bắt đầu. Hành lư không khác những lần trước là bao. Vẫn một vuông khăn, một trang sách cùng vài vạt áo. Nhưng lần này có thêm được một tấm ḷng, dù đă ṿ nhàu. Ư chí nuôi dưỡng một lư tưởng vẫn c̣n lóe lên niềm tin, chỉ cần mưa ngớt cho đôi chút...

 

          Người lữ hành trong Cuối Năm Rời Nhà Trọ không xa lạ. Đó chính là Phan Chánh Dinh ngoài đời. Anh sinh năm 1941 tại Quảng Trị, nhưng trưởng thành tại Đà Nẵng. Gia đ́nh anh nằm trong thành phần lao động, nhưng vật chất khả quan, chỉ khá nghèo niềm vui, bởi anh có vài người em không tốt số trong cuộc sống. Nhờ thân phụ là một viên chức nhỏ của ngành hỏa xa, cả gia đ́nh được chung sống trong căn nhà nhỏ, tường xây mái ngói, ngay trạm đổi đường tàu, chạy ngang đường Ông Ích Khiêm. Tuổi niên thiếu của anh ở đó, cùng những đường ray (rail), những sỏi đá và những cánh cửa màu lá già, thường trực đựng đày những ḍng thơ anh viết, xóa mỗi ngày. Phan Chánh Dinh theo học tại trường Phan Châu Trinh. Trường trung học công lập này cho anh nhiều bằng hữu thân thiết.

          Cuộc đời thơ của Phan Chánh Dinh sinh động dưới hai bút hiệu Phan Duy Nhân và Dương Phù Sao. Mỗi bút hiệu không chỉ có ư nghĩa mà c̣n bao trùm cả hoài vọng của người mang nó. Ở bút hiệu thứ hai, thành h́nh theo lắp ghép: họ của người yêu, cộng một động từ, cộng một biểu tượng.

          Phan Duy Nhân bắt đầu làm thơ năm 1957. Một năm sau bài được đăng trên các tạp chí văn học tại Sài G̣n, nhiều nhất trên tờ Bách Khoa. Nhịp viết của anh bất ngờ lơi dần trong năm 1966. Cũng từ dấu mốc này, cuộc đời chính trị của một Nguyễn Chính, một Thiết Sử được mở ra với nhiều thay đổi dập dồn, bất ngờ.

          Con Đường Từ Thức của Phan Duy Nhân chọn cho ḿnh, xem ra ngược chiều với vị quan đất Kinh Bắc ngày xưa. Một người lơ là danh phận, chỉ hết ḷng với thơ phú. Một người tạm gác cái mơ mộng thi ca để đi t́m công danh, dưới h́nh thức thực thi lư tưởng.  

         Tuyệt đỉnh của chức vụ trên Con Đường Từ Thức của ḿnh, Phan Chánh Dinh có trong tay Quyền Trưởng Ban Tôn Giáo của chính phủ (CHXHCNVN). Một chức sắc nghe c̣n khá lạ tai. Không rơ quyền hạn rộng đến đâu ?  Sự thành công này, có thật sự giúp cho Phan Chánh Dinh sống một đời dễ chịu, từ vật chất đến tinh thần ? Ngày nay, câu trả lời, ít ra, đă rơ cho một trong hai lănh vực thiết thực nêu trên.

          Chưa vào động Phi Lai, chưa gặp Giáng Hương, nhưng với chặng đường thơ đă qua, với thực tài, Phan Chánh Dinh đă làm nên một Phan Duy Nhân, óng ánh trong vườn thơ Việt Nam, đó là điều không thể không nh́n nhận. Nh́n lại chặng đường anh đă đi, chúng ta thấy: từ 1961 đến 1964, nhất là trong năm 1962, Phan Duy Nhân viết được nhiều bài thật xuất sắc. Tiêu biểu như bài Thơ Cho Mẹ Và Chị, trích trọn vẹn dưới đây :

 

          Đầy nước mắt đi trong chiều biển động

          Thân san hô sóng vỗ một đời tṛn

          Trông cây tùng gặp băo cũng cong lưng

          Đời kiêu mạn chẳng  c̣n tâm sự với

 

          Con nhớ lại sắt se lời mẹ dạy

          Những đêm qua ngơ hẹp phố phường sâu

          Đầu gối trên tay nghe đường máu chạy

          Trong tim con ngựa mỏi muốn quay đầu

 

          Những buổi sáng nằm vùi trên gác trọ

          Những chiều hôm mong đợi chẳng ai về

          T́nh thuở trước đắp cao dần nấm mộ

          Trong ḷng con cỏ mọc đă vàng hoe

 

          Ngă bảy ngă ba hẹn ḥ bè bạn

          Áo cơm nhau nhờ vả đến bao giờ

          Xương từng ống hút dần theo lũ quạ

          Ngó lui ḿnh rỗng tuếch chúng bay xa

 

          Thơ với ngô khoai bánh ḿ giữa chợ

          Có kiên gan Lă Vọng cũng buông cần

          Khí phách văn chương công bằng cách mệnh

          Xưng lỡ anh hùng không lẽ đến xin ăn?

 

          Con đă ngấy những ngày thư viện đói

          Nói khôi hài kinh kệ những ai xưa

          Khi rách áo xem ra chiều thủ lợi

          Không manh tâm thiên hạ cũng nghi ngờ…

 

          Ngần ấy bụi con mang về với mẹ

          Hận ngh́n đời trong đáy mắt chưa nguôi

          Thân đau yếu em quỳ bên gối chị

          Ḷng lênh đênh muốn lặng cứ trôi hoài

 

          Con phiêu bạt ngỡ thân tàn ma dại

          Chẳng c̣n ǵ nguyên vẹn để đem dâng

          Xin mẹ rót cho con lời phủ dụ

          Ngửa hai tay xin chị nhận em cùng

 

          Cho ánh mắt đau buồn nay tỏ rạng

          Soi xuống ḷng ẩn hiện ánh trăng trong…

 

          Vịn những ḍng thơ của thể tám chữ, không quá g̣ bó ở kỹ thuật vần điệu, một người con trai nhà nghèo theo học ở thành phố, đă quặn thắt gởi tâm sự của ḿnh về cho mẹ và chị. Nguồn thơ bát ngát, không bày tỏ những nhớ thương thường thấy ở những người con xa nhà. Nhưng uất nghẹn những suy tư về thân phận, về cuộc sống.

          Bằng kỹ thuật vẽ lại những h́nh ảnh thường mục kích trong đời sinh viên, (Những buổi sáng nằm vùi trên gác trọ/ Những chiều hôm mong đợi chẳng ai về... Ngă bảy ngă ba hẹn ḥ bè bạn/ Áo cơm nhau nhờ vả đến bao giờ...), lồng vào đó những xúc cảm, những suy nghĩ bi quan (T́nh thuở trước đắp cao dần nấm mộ/ Trong ḷng con cỏ mọc đă vàng hoe... Xương từng ống hút dần theo lũ quạ/ Ngó lui ḿnh rỗng tuếch chúng bay xa) tuy có phần cường điệu, nhưng nhờ âm ngữ và h́nh ảnh, giúp những câu thơ trở nên linh động, có hồn. Phan Duy Nhân cũng dựng lại cái khí chất người xưa, để bày tỏ cái bản lĩnh, cốt cách của một nam nhi giàu ư chí, qua tám câu rất thu hút ( Thơ với ngô khoai bánh ḿ giữa chợ... Không manh tâm thiên hạ cũng nghi ngờ…) Nhưng cái buồn thâm trầm, đọc được rơ những xót xa, nằm ở ba đoạn tuyệt vời nhất, đó là khổ bốn câu thứ hai, và hai khổ cuối cùng. Lời mẹ dạy (con nhớ lại sắt se lời mẹ dạy) chính là cái phao để tác giả có đủ can đảm dàn trải, phơi bày những tâm sự. Thơ Phan Duy Nhân, h́nh như bài nào cũng có một ưu điểm khác, đó là sự trong sáng, một niềm tin lấp lánh ở cuối bài:

 

          Cho ánh mắt đau buồn nay tỏ rạng

          Soi xuống ḷng ẩn hiện ánh trăng trong

 

          Những suy tư về một hiện thực xă hội không được hoàn hảo, đă thấy thấp thoáng trong bài vừa dẫn trên.Đường Bay Của Thơ, dù vẫn c̣n rất nhẹ nhàng, Phan Duy Nhân cũng đă vẽ lên một tâm cảnh u buồn:

 

          “... giây phút ấy, tới cầm tay nỗi chết

          sau lưng anh phường phố vẫn điêu tàn

          máu một gịng, rơi hờn như giọt đá

          thơ một lời dội lại tiếng kêu van

 

          thôi từ đó xa bay ngoài hiện tại

          anh đưa tay bồng thân thể lên đường

          tiễn chân người, xanh xao cành lá lay

          em cúi đầu thân huệ vốn lưng ong”

                                      (Bách Khoa 123-1962)

 

          Không khó để h́nh dung hiện trạng xă hội trong thời chiến tranh. V́ thế, ở đây không phô bày, lặp lại nhiều tài liệu đă thành sách. Hậu quả của bom đạn không dành riêng ai. Vết thương nặng, nhẹ có thể khác nhau. Nỗi đau buồn tủi nhục của đất nước dù có chia đều, thế hệ trẻ hẳn phải gánh chịu trực tiếp và nặng nề hơn. Ư thức rơ được trách nhiệm này, những tay thơ như Phan Duy Nhân, Phan Trước Viên, Đynh Hoàng Sa, Phan Nhự Thức, Lữ Quỳnh, Thái Tú Hạp, Thành Tôn, Lê Vĩnh Thọ... , muốn dành cái quyền giới thiệu những thảm cảnh chiến tranh, đồng thời bày tỏ thái độ của ḿnh trước cuộc chiến. Riêng Phan Duy Nhân căm phẫn đến mức nào ?

 

          “... cho anh một chỗ đứng nào trên hành lang

          để anh nh́n niềm bi thương đang diễn hành dưới đất

          ...

          anh quẳng ra khỏi vuông cửa sổ toa tàu

          trang nhật báo em cầm trên tay

          in đầy tin thời sự

          anh sinh ra bé nhỏ mọn hèn

          muốn giấu em chuyện người da vàng trên Trung Hoa lục địa

          buổi sớm lệnh c̣i đồng phục sắp hàng đôi

          anh muốn giấu em những hội nghị tài binh

          nâng cốc

          chế bom

          trên đầu dân thuộc địa

          anh muốn giấu em chuyện người mẹ kê đầu trên đường sắt

          ngăn con tàu chở lính sang Alger

          anh muốn giấu em những tin tức quê hương gần gũi

          những khuya xung phong những ngày nước độc

          những hận thù trói buộc

          những giới tuyến phân chia anh em bè bạn xứ sở gia đ́nh

          ...

          anh buổi sáng vẫn mang giày mặc áo

          phố hôm nay - vẫn đó, phố bao giờ

          bước có ngh́n lần nhịp gơ cũng c̣n khô

          sống vẫn đi ṿng không ra ngoài cát bụi

          tuổi thơ người ta không ra ngoài nước mắt

          con tim người dây kẽm cũng c̣n chia...”

                                                         (Văn Học 19 – 5-1964)

 

          Anh vẫn sử dụng ngôn ngữ giản dị. Điều nổi bật: những nét vẽ trầm uất mỗi ngày h́nh như được chăm chút rơ hơn. Khuôn mặt của thời cuộc được nh́n rộng từ thế giới, trước khi dừng lại với thực tại quê nhà. Những điều bi quan anh muốn giấu, chính là những điều anh khẩn thiết nói ra. Sự mâu thuẩn này không có ǵ lạ. Nó như một nghệ thuật buộc người nghe phải chú ư hơn. Nó cũng làm cho sự lặp lại được tự nhiên hơn, và chuyện đă xảy ra, được lặp lại cũng trở nên mới . Thật ra những h́nh ảnh bi thảm của cuộc chiến được dựng lên trong Con Đường Từ Thức (tên bài thơ), không có ǵ mới lạ. Thậm chí những h́nh ảnh bi thảm cũng chưa đủ mức bi thảm so với hiện thực ngoài đời. Giá trị của bài thơ, vẫn nằm trong thể cách bày tỏ t́nh cảm, bên cạnh những h́nh ảnh được dùng để đánh động sự chú ư của người đọc. Ngôn từ của Phan Duy Nhân không mới. Tùy theo ư tưởng, anh đặt bên cạnh những câu thật giản dị, một vài câu giàu chất thơ, từ đó cả chụm chữ đều ngát hương thi ca:

 

           “... anh không muốn môi em hồng mắt sáng

           mười lăm mười bảy ngây thơ

           mỗi lời sầu làm mát một mùa thu...”

 

          Trong bài tổng quan cho cuốn biên khảo Văn Học Việt Nam Hiện Đại – Thi Ca và Thi Nhân, tác giả Cao Thế Dung có đưa ra nhận xét:

 

         “... Về ư và kể cả ngôn từ, nhiều nhà thơ đă cố vươn cao để cho khác cái cũ – nghĩa là cái đă được nói trong thơ tiền chiến. Và đă thành công qua ư hướng đó như Phan Duy Nhân, Hà Nguyên Thạch, và những bản sắc mới gần đây như Tần Hoài Dạ Vũ, Luân Hoán, Thành Tôn...”

                                                                 (Thi Ca Và Thi Nhân trang 325)

 

          “Ư hướng đó” của ông Cao Thế Dung là ǵ ? Phải chăng đó là những mô tả, phân tích cùng nhận định về chiến tranh. Nguồn thơ có nội dung như thế, về sau được gọi là thơ phản chiến. Tôi nghĩ, dù có phản chiến hay chỉ nêu ra một hiện thực đau buồn của đất nước, nguồn thơ này, đă manh nha từ những bài viết nặng ḷng yêu quê hương. Căn cứ vào đời chính trị tiếp nối liền sau đời thơ, có thể nói thơ Phan Duy Nhân không nằm trong ḍng thơ phản chiến. Những người làm văn học đứng dưới cờ đỏ sao vàng, đă xếp anh vào hàng ngũ những nhà thơ dấn thân, cùng Trần Quang Long, cùng Phan Trước Viên... Theo định nghĩa trong Từ và Ngữ Việt Nam của ông Nguyễn Lân, “dấn thân là hy sinh thân ḿnh” dĩ nhiên sự hy sinh này thường dành cho tổ quốc. Oái ăm thay, cũng phục vụ đích thực cho tổ quốc, và có thể giàu chính nghĩa hơn, nhưng không phục vụ v́ một đảng phái độc tài, hai chữ “dấn thân” được thay bằng hai chữ “bồi bút”.

 

            Mùa hạ năm 1963, Phan Duy Nhân hành nghề gơ đầu trẻ, cho một vài trường trung học tư nhân tại Hội An, nơi cư ngụ của Ngân Hà, vợ anh sau này. Anh có viết một số bài kư tên Dương Phù Sao. Bài trích dưới đây, có lẽ đậm đà h́nh ảnh quê hương nhất trong thơ anh. Bài thơ khởi đầu bằng một cảnh sắc chợt đến trong tâm trí anh: Bến sông Hoài êm ả với ḍng nước th́ thầm đang nằm đợi những con thuyền ra khơi trở về. Bến sông đó cũng là cơi ḷng của người anh yêu. Sự liên tưởng, thi vị hóa không khó lắm, bởi v́ nỗi nhung nhớ của anh cộng thêm cái hiện thực, ngôi nhà người đẹp họ Dương nằm ngay bên bờ sông

 

          anh nhớ quê hương phố chợ âm thầm

          tre cúi ngọn ưu phiền chiều xuống chậm

          nước th́ thầm trôi ṿng ôm xóm vạn

          bến ngậm buồn nghe ngóng mắt thuyền thon

 

          Đi xa đă nhớ, về gần lại nỗi nhớ như nhiều hơn. Tác giả thấy ḿnh đang cầm trong tay những chiếc lá, những cọng rêu, những mùi hương, những ngọn khói. Đọt nắng vàng h́nh như cũng đậu lại, chia xẻ cái hạnh phúc: anh được người mẹ gắp chia lời dịu ngọt . Đẹp biết bao nhiêu, khi anh trân trọng đặt môi ḿnh lên bậc cửa, nơi người mẹ già từng đứng quyến luyến mỗi lần anh đi xa. Nỗi nhớ nhung như chất men, lặng lẽ ngấm vào tim anh. Không đặt tay lên ngực, anh cũng nhận ra, đó là những giọt lệ, anh đang ủ trong vuông khăn, lận theo bên ḿnh.

 

          khi anh về đôi chút lá phù dung

          đôi chút rêu mềm nằm ve vuốt ngói

          mượt đất thơm đường, bao dung ḷng mẹ đợi

          bữa cơm chiều anh chị nắng chắt chiu

          ngày xuống bên thềm với gió d́u theo

          bao nhiêu nhớ bao nhiêu buồn thuở trước

          đôi đũa mẹ gắp chia lời dịu ngọt

          mến thương đời xao xuyến ngực như tơ

          anh muốn hôn lên bậc cửa mong chờ

          nơi chân mẹ dẫn lên lời quyến luyến

          xin một vuông khăn gói thầm nỗi hẹn

          trong ḷng từng giọt nước mắt khô

          chuyến xe qua chiều bữa đó mơ hồ

 

          Không những chỉ với: đôi chút rêu mềm nằm ve vuốt ngói , đôi đũa mẹ gắp chia lời dịu ngọt , mà cả đoạn thơ cho thấy cái tài dùng chữ, trang điểm cho h́nh ảnh trong thơ Phan Duy Nhân. Bài thơ c̣n tám câu nữa. Và cũng như thói quen, cuối bài, là những nụ thơ trong sáng:

 

          trời gió lộng, chim bay thèm trở lại

          nhớ mẹ cười mát lụa xuống vai con”

 

         Phan Duy Nhân nói năng trôi chảy, lưu loát. Anh rất có tài hùng biện. Nhờ có trí nhớ tuyệt vời, anh thuộc nhiều điển tích, nhiều mẩu chuyện trong cổ sử Trung Hoa, nên thường đưa vào câu chuyện ḿnh kể, dẫn chứng điều ḿnh đang nói. Nhờ đó, anh thuyết phục nhanh chóng những người đang lắng nghe. Trong lớp, vào giờ thực tập thuyết tŕnh, anh gần như không bao giờ thua cuộc. Nhưng anh rất nhát gái. Trước năm 1975, trái tim của nhà thơ, h́nh như chỉ có một bóng dáng duy nhất: Dương Thị Ngân Hà. Người con gái này trở thành người bạn đời, và tạo nguồn cảm hứng cho Phan Duy Nhân, viết một chùm thơ t́nh mang tên Thơ Của Hà.

          Vẫn sử dụng thể thơ nhuần tay, những khúc t́nh ca cho Hà không thiếu những câu đẹp:

 

          “... đă mấy mươi năm anh chờ, em đợi ?

          hồn em trong thơm ngát một vuông khăn

          anh yêu thương thơ cũng mọc như rừng

          dẫu tới trăm năm em vẫn c̣n mười sáu

          để mắt vẫn rụt rè, chim nh́n chưa dám đậu

          hờn sâu xa anh thức dậy chập chờn

          em thơ ngây phải động chút u buồn

          ...

          anh sẽ cười buồn làm em rơi nước mắt

          thế giới chúng ḿnh lênh đênh mùa mưa

          anh biến thành thuyền, em biến thành thơ

          ta sẽ dong chơi cùng vầng trăng mời mọc”

                   (Thần Thoại, tạp chí Bách Khoa số 121, 15-01-1962)

 

          “... tay em dài mỗi ngón lá phong lan

          hăy góp cho nhau mươi cánh phương thảo trắng

          nước mắt làm mưa thu, môi hồng làm nắng sáng

          để anh dựng lâu đài trên ngực cao nguyên

          để anh ngó xuống đời bằng cặp mắt vành khuyên

          bằng đôi cánh bồ câu vỗ lên vầng trán biếc

          với buổi sớm t́nh ca, buổi chiều nhă nhạc

          với trái tim em, anh tiếp tục lên đường”

                                   (Bày tỏ Bách Khoa 126, 01-4-1962)

 

          Thơ t́nh Phan Duy Nhân có nhiều ư mới, nhưng h́nh như những ḍng thơ hiện diện, bằng đường trí óc hơn là từ trái tim. Cái chân t́nh cũng thiếu vắng khá nhiều. Ở nhiều đoạn có nét óng mượt rất gần hơi thơ Nguyên Sa:

 

          “... anh chỉ c̣n đây lời rượu ngọt  

          cùng thơ tâm sự, mắt du thuyền

          tương lai thôi hăy mềm như lụa

          gói đời anh trong áo em...”

                 (Thơ Cầu Nguyện Bách Khoa 124, 01-3-1962)

 

Có cả cái diễm t́nh của Đinh Hùng:

 

         “... vầng trăng dại rơi gầy trong giếng mắt

         thoáng mây bay trông rất đỗi ngập ngừng

         cây rũ lá vàng thơ buồn rụng cánh

         chân nai đi khe khẽ động chim rừng...”

                    (Rừng Vàng, Bách Khoa, 125 – 15-3-1962)

 

         

          Nh́n tổng thể thơ Phan Duy Nhân, thật ra rất khó phân biệt rơ ràng từng chủ đề khác nhau. T́nh yêu lứa đôi, t́nh quê hương, bàng bạc trong khắp niềm thao thức về thân phận con người. Những hoài nghi, những băn khoăn luôn luôn thắp sáng, từng ḍng suy tư trong thơ anh. Nhưng cái xuất sắc nhất, chính là nguồn thơ khơi dậy t́nh yêu nước, đả phá những bất công xă hội. Tính chất mạnh mẽ trong từng ḍng thơ có giá trị như những lời thúc giục, nếu không muốn nói là xách động.

 

          “... Độc lập, ḥa b́nh, công bằng, nhân đạo

          Mắt em thơ hớn hở nụ cười tṛn

         

          Ṇi giống Việt thương yêu đời sống Việt

          Triệu con người vươn lên từ cơi chết

          Yêu anh em, yêu xă hội công bằng

          Người yêu người xây dựng đến muôn năm

                                      (Tiếng Hát của Người Đi Tới)

 

          Vẫn c̣n đó anh em hàng triệu đứa

          Yêu thương nhau cùng mở rộng ṿng tay

          Khi chết đi tim người xin để lại

          Anh mang theo khoảng trống lấp không đầy

          Thân băng hoại nhưng niềm tin hiện hữu

          Cùng tui em đi đốt lửa mặt trời

          Chúng ta sống bằng máu người đă chết

          Người nối người dĩ văng nối tương lai

          V́ trên mặt đất nầy cây đă mọc

          V́ hoa đời anh hái cả hai tay

          Nên cuộc sống khác ngày giờ hư viện

          Vô duyên như giấc mộng chẳng tṛn đầy

          ...

          Thân xác ấy thôi rồi tan ră hết

          Vào hư vô không giọt máu hồng tươi

          Tôi đă dặn khi giă từ cuộc sống

          Nhớ cho tôi xin lại trái tim người

                                          (Trái Tim C̣n Lại)

 

          Nguồn cảm hứng này chắc chắn xuất phát từ trái tim. Sự uất ức thường dẫn đến những ngôn từ, hành động phản kháng mạnh mẽ. Nhưng đó chưa hẳn là ḷng yêu nước. Ở tuổi mười tám, hai mươi, quả khó dằn ḷng trước cảnh bị áp bức đồng bào ruột thịt. Nhưng Phan Duy Nhân đă mục kích những thảm cảnh ǵ ?  từ đâu ? trong những năm đầu của thập niên 60, tại một thành phố yên b́nh như Đà Nẵng ? Ḷng căm phẫn v́ ngoại cảnh, v́ yêu nước trong trường hợp Phan Duy Nhân thật đáng ngờ. Và nguyên nhân cụ thể, đủ để cho Phan Duy Nhân hănh diện xác nhận, thể hiện qua bài viết của ông Dương Đức Quang, phổ biến trên trang tramhuong.com:

 

          “... Năm 14 tuổi Dinh đă biết cha ḿnh là cơ sở hoạt động bí mật của cách mạng tại nội thành Đà Nẵng, thường xuyên đón cán bộ về họp tại nhà. Trong số cán bộ đó có ông Hồ Vinh, một thày giáo dạy Dinh, trong kháng chiến chống Pháp từng là phóng viên của báo Nhân Dân tại Khu V. Cũng chính qua cha và người thày giáo này mà Dinh sớm giác ngộ cách mạng, trở thành người liên lạc cho tổ chức cách mạng hoạt động bí mật tại Đà Nẵng. Tháng 2-1957, v́ một kẻ phản bội tố giác, thày giáo Hồ Vinh bị địch bắt, bị tra tấn đến chết, nhiều cán bộ khác cũng bị bắt, tổ chức cách mạng bí mật bị phá vỡ, cha con Dinh phải tạm ngừng hoạt động. Những năm tháng học trung học tại trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng sau đó, tuy bị mất liên lạc với tổ chức nhưng sẵn ḷng yêu nước, Dinh vẫn nung nấu một ư chí cách mạng, sẵn sàng “nổi loạn”,  chống đối chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm tay sai của Mỹ. Năm 15 tuổi, Dinh viết bài thơ yêu nước đầu tiên gửi đăng trên một tờ báo ở Sài G̣n, lấy tên là Phan Duy Nhân, nguyện là “một người con họ Phan v́ nhân dân...”

           Phan Duy Nhân đă dùng cái tài thơ của ḿnh để mở đường phục vụ cho lư tưởng của ḿnh, điều này không có ǵ sai trái. Chỉ tiếc anh đă chọn lầm khuôn mặt để gởi vàng. Hậu quả: nhận được một chút quyền lực ngắn ngủi trong đời chính trị, nhưng  đă hao hụt t́nh bằng hữu, một điều anh đă từng lo lắng:

          mở mắt cột đèn nh́n ca rô giữa phố

          bỗng ngại suốt đời xa lạ hết anh em

                                                     (Bày Tỏ)

 

          Buồn hơn nữa, người đă hết ḷng đề cao, biện giải cho anh, cuối cùng cũng phải chua xót, run tay:

          “... Hóa ra, Phan Chánh Dinh chẳng phải là “người cách mạng”. Anh lại càng không phải một “người làm thơ”, mà thật sự chỉ là kẻ “hành nghề bạo lực” một cách kiên tŕ và tài giỏi. Anh “không để lại trái tim” mà chỉ trải dài lềnh lầy dối trá, tàn nhẫn vô nhân tính...”

                                              (Phan Nhật Nam – Cơn cùng tận với khổ đau)

 

          Nhà văn Phan Nhật Nam rất chính xác ở nhận xét “...chẳng phải là “người cách mạng” và cũng rất tinh tế khi đánh giá Phan Duy Nhân: “... là người làm thơ gian lận với chữ nghĩa của chính ḿnh”. Nhưng anh có vẻ nặng tay khi viết: “... anh lại càng không phải một ‘người làm thơ’...”. Những đức tính thông thường phải có dành cho người làm thơ, anh Nam có thể dẫn ra để bảo vệ nhận xét của ḿnh. Có điều, đối phương cũng nh́n nhận những đức tính đó hoàn toàn thích hợp với ḿnh.

         

       Theo tôi, Phan Duy Nhân đúng là một người làm thơ, hơn thế nữa, anh là một nhà thơ rất vững tay trong làng thơ Việt Nam. Thật t́nh tôi đă rất mừng khi Phan Chánh Dinh

vớt lại lưng lưng ly hạnh phúc lứa đôi, sau đứt đoạn v́ hoàn cảnh. Tiếp đến anh vượt qua luôn chiều dài mười mấy năm im lặng (tính từ sau 1975) để trở lại với thi ca. Và điều quan trọng hơn, thơ anh vẫn c̣n nhiều người yêu thích:

 

 

          Mới gió Lào khô đă heo may Hà Nội
          Chon von đỉnh núi giong buồm
          Thuở trước thiền sư làm chính ủy
          Câu thơ tới giờ c̣n mang gươm!

          Thơm dấu hài thêu khuya chuyện cũ
          Giữa Hàng Đào cô Tấm có là em?


          Ôi em đẹp với vô cùng mà đời ta có hạn
          Gió lộng vẫn ngang trời
          Trong đáy mắt hồ Gươm...

                      (Vĩ Thanh - Hà Nội, những mùa sen 1990)

 

          Nhắm mắt để nh́n em thật rơ
          Thanh thoát trong tôi một đóa hồng
          Đêm sáng lên từ tia lửa nhỏ
          Hồn tôi nắng sưởi giá băng tan...

                                 (Quán Tưởng, 2007)

          

           Em mến yêu anh là sự sống
         Trong anh như nhựa tiếp cây đời
         Vươn cành xanh lá qua giông băo
         Anh uống t́nh Em mà thắm tươi!

         Những nắng gió trên đường đi tới
         Những khuya trăng chia sẻ vui buồn
         Em trong anh tim hồng trong ngực
         Vượt lên cùng trăm núi ngh́n sông...

        Anh viết những bài thơ bất tận:
        Em cho anh thêm một tâm hồn
        Anh làm nước sông dài chẳng cạn
        Chảy từ nguồn sâu thẳm yêu thương

       Mỗi người có riêng ḿnh thần thánh
       Quan-thế-âm hay Ma-ri-a...
       Anh cầu nguyện cùng em buổi sáng
       Cho mỗi ngày mỗi bước đi xa.

       Là Em và thơ và triết học
       Yêu Em vô hạn tới vô cùng...
       Say đắm cho Em thành có thật
       Đến trọn đời vằng vặc vầng trăng.

                                             (Ngưỡng Vọng)  

 

         Dưới trang phục mới của đời thường phảng phất mùi kinh kệ, thơ Phan Duy Nhân vẫn c̣n mang gươm. Hy vọng mũi gươm này đă biết xoay chiều hướng đến một kẻ thù đích thực của dân tộc. Để nhà văn Phan Nhật Nam thở phào xóa đi những nghi vấn về bạn ḿnh. Và hai chữ hào kiệt được tác giả Dựa Lưng Nỗi Chết, có cơ hội dùng lại. Mong thay. (1)

 

Hà Khánh Quân                 

(9g18’, 10-9-2009)

 

 (1) PNN từng gọi PDN là kẻ hào kiệt    

 

Ghi Chú:

 

Mời Xem Bài Viết Của Phan Nhật Nam Bên Chủ Đề GÓC CHUNG