Lê Hân “Thơ Dễ Thương”

 

 

Hà Khánh Quân

 

 

 

          Nhiều người thừa nhận: “đọc thơ là điều thích thú. Đọc những ư nghĩ, phát biểu về thơ cũng thú vị không kém”. Những nhà thơ có tầm vóc trong thi ca Việt Nam, đa số đều bày tỏ chút ít quan niệm về thơ.

          Với Nguyên Sa: “Thơ không có cách nào làm rực rỡ hơn ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ biểu lộ cảm xúc của ḿnh và quan trọng nhất. Kỹ thuật cũng như triết lư chỉ là phương cách phụ thuộc và là yếu tố hổ trợ. Nó không làm rực rỡ thi ca. Triết lư không có vị trí chính yếu trong thi ca ngoài vị trí chính yếu của nó trong triết học...Mỗi bài thơ, mỗi thời kỳ đều có nét riêng của nó”.

          Với Văn Cao: “...Qua một bài thơ, người ta thấy ngay con người của nhà thơ đang sống thực, Tư tưởng cảm xúc và cảm giác của nhà thơ phải thể hiện tinh vi. Câu thơ như vào trong óc để gợi sự suy nghĩ, vào trong t́nh cảm để xúc động và như vào trong da thịt để khêu gợi ! Chỉ riêng cái phần giác quan của nhà thơ cũng nói được cái hướng biểu hiện hoặc thiên về tư tưởng, hoặc thiên về cảm xúc, hoặc thiên về cảm giác. Cái khuynh hướng đó nhiều khi là của cả một thời đại, một môn phái hay một triết học...”

          Với Đỗ Qúy Toàn:  “... Một bài thơ tự nó phải nói được. Những lời giải thích đi bên cạnh một bài thơ chỉ để giúp cho độc giả hiểu thêm tại sao lời thơ lại khiến ḿnh rung động. Nếu độc giả không xúc động v́ bài thơ, chỉ xúc cảm v́ có lời giải thích, khi đó người giải thích là thi sĩ. Người đó đă dịch một hệ thống tín hiệu (tiếng nói của thi sĩ) sang một hệ thống khác...”

          Với Thùy Yên:  “...Luật thơ như mọi thứ luật khác bao giờ cũng phải trải qua bao nhiêu là ḍ dẫm dăi dầu trong thực tế, rồi mới trở thành luật được. Nhưng thực tế của luật thơ là những thực tế có tính thói quen của một ngôn ngữ....

          Với Trần Mộng Tú : “... Thơ làm ra theo hứng. Không có hứng không ra thơ. Thơ mà phải suy nghĩ để t́m đề tài th́ tôi không bao giờ làm. Có thể là khi làm xong mới suy nghĩ t́m cách thay một hai chữ cho đắc ư mà thôi....

          Với Trinh Đường : “...Cái hay của một bài thơ là vô cùng. Nó không có giới hạn rạch ṛi mà chỉ qua cảm nhận của người thưởng thức. Mà người thưởng thức khác nhau về tạng và tŕnh độ... .

          C̣n nhiều phát biểu khác, không thể nào trích dẫn hết. Bạn muốn đọc, có thể vào xem mục “Quan niệm sáng tác” trên trang Vuông Chiếu của Luân Hoán.( http://luanhoan.net). Ở đây, tôi xin giới thiệu những bày tỏ về thơ, của một nhà thơ không trẻ, nhưng chỉ mới tŕnh làng tác phẩm vào năm 2003.

 

         Trong thi phẩm T́nh Thơm Mấy Nhánh, Lời Vào Tập là một bài ngũ ngôn, gồm ba đoạn:

 

          chẳng dám như Tản Đà

          quảy thơ văn đi bán

          tôi in trăm tập thơ

          gởi tặng cho bè bạn

 

          thơ chừ đang được mùa

          nên cũng đang phá sản

          viết đại và in bừa

          đầy trời thơ thiếu tháng

 

          tôi cũng tên liều mạng

          làm thơ và in thơ

          tôi cũng nên liều mạng

         yêu thơ và cứu thơ

 

          Chỉ trong 60 chữ, Lê Hân, tác giả của tập thơ, đă có đủ:

          -  nhận xét tổng về t́nh trạng thơ hiện tại (viết đại và in bừa /đầy trời thơ thiếu tháng),   .

          - bày tỏ mục đích làm và in thơ của ḿnh.

          Đọc thoáng qua, tưởng như người làm thơ thật khiêm nhường (tôi cũng tên liều mạng). Thật ra, anh rất tự tin và rơ ràng có đôi chút ngạo mạn, khi xác nhận ḿnh in thơ v́ “yêu thơ và cứu thơ”.

          Tiếp liền sau lời vào tập, Lê Hân giới thiệu ngay đến những căn nguyên cho công việc làm thơ của ḿnh:

 

          không nhớ làm thơ từ lúc nào

          h́nh như từ thuở biết chiêm bao

          thấy ông Nguyễn Khuyến ngồi câu cá

          thấy bác Kế Xương hát ả đào

 

          thơ đến với tôi bằng t́nh nghĩa

          nồng nàn trang sách Giáo Khoa Thư

          từng học thuộc ḷng bao vần điệu

          mạch nguồn từ đó đă h́nh như...

 

          Cung cách làm thơ của anh cũng rất khác lạ:

 

          tôi đă làm thơ như vọc đất

          như leo trèo, chạy nhảy, tắm sông...

          tôi đă làm thơ ngon trớn nhất

          khi niềm vui chất ngất trong ḷng

 

          Việc “chơi” thơ của Lê Hân giản dị như leo trèo, như vọc đất...vậy mà cũng bị gián đoạn. Anh kể: “tôi chợt bỏ thơ đi du học”. Cũng may, tại “quê người đôi lúc nhớ ca dao”. Và Lê Hân nhận ra “thơ với ca dao như là một / chung màu da chung giọt máu đào”. Nhờ vậy, anh bắt nối lại cuộc chơi, khi đang sung sức trong tuổi trung niên. Và một lần nữa, Lê Hân tự ngắm ngía lại thơ của ḿnh:

 

          chừ tuổi trung niên sung sức lại

          khi vui tôi vớ vẩn làm thơ

          thơ của tôi như cô gái đẹp

          hiền lành, dí dỏm lẫn lẳng lơ

 

          vẫn như xưa, nguyên quốc tịch

          phè như thể gă trai tơ

          vẫn chỉ cưu mang t́nh dân tộc

          chân thành giản dị...rất vu vơ

 

          Tự đánh giá: chân thành, giản dị, vu vơ, hiền lành, dí dỏm và nhất là vẫn nguyên quốc tịch Việt Nam, có chính xác phần nào không ? Lê Hân quan niệm thế nào về thơ và làm thơ ?

         Chúng ta có ngay những phát biểu của người đến với thơ hơi dễ tính này. Nét dễ thương của một bài thơ, h́nh như là điều tiên quyết trong chọn lựa, đánh giá của Lê Hân.

 

          “... tôi đă mê thơ của nhiều người

          Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương

         Nguyên Sa, Xuân Diệu... c̣n ai nữa ?

         ai cũng có phần, nếu... dễ thương ...”

 

          Rồi không để chúng ta suy ngẫm, phát hiện sự dễ thương như thế nào, Lê Hân giải thích ngay và khá cặn kẽ:

 

          “... thơ dễ thương là thơ có xương

          da, có thịt...rất b́nh thường

          bởi hơi thơ thở vừa là hát

          vừa khóc, vừa cười, vừa nói suông

 

          thơ dễ thương là thơ có em

          mắt mày môi má...cứ lênh đênh

          vạt hông, gót bước hơi làm điệu

          một chút buồn khan đủ lót nền

 

          thơ dễ thương là thơ có tôi

           ngơ đâu đó ở trong lời

          trong nguồn thi hứng người thi sĩ

          hănh diện tô màu những cái tôi

 

          thơ dễ thương là thơ biết yêu

          không gian vạn vật rộng muôn chiều

          với chân thiện mỹ luôn sinh động

          nhân bản ngời xanh những dáng kiều

 

          thơ dễ thương là thơ Việt Nam

          Nguyễn Du, Nguyễn Trăi... đă từng làm

          Kế Xương, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát

          Hồ Xuân Hương...để lại ngàn trang

 

          thơ dễ thương là thơ của anh

          của tôi, của chị, của em đây

         trái tim khối óc nguồn thơ Việt

          người lớn theo thơ trong tháng ngày

 

          tôi mê thơ người, mê thơ tôi

          nhờ thơ tôi khóc lúc buồn đời

          tôi cười khi thấy ḷng hào sảng

           thấy tôi là tôi chính tôi”

 

          Một phát biểu minh bạch, bộc trực như vậy, đâu cần phải thuyết minh ǵ thêm. Công việc tiếp theo của tôi, là t́m xem, Lê Hân đă thả ḷng ḿnh vào những chủ đề nào và mức độ thành công nhẹ nặng ra sao.

 

          Thi phẩm T́nh Thơm Mấy Nhánh có một mục lục rơ ràng, nhưng theo tôi, có phần... lộn xộn. Đầu tập, tác giả xếp những bài thơ t́nh yêu nam nữ dưới tên gọi: “Vạn vật dạy tôi làm thơ/ t́nh em vun bón nụ thơ sống đời”. Tiếp theo“T́nh Thơ Trong Cặp Thư Sinh”, phần này chắc chắn cũng là thơ t́nh của tác giả trong giai đoạn c̣n cắp sách vở đến trường. Phần ba, thơ ghi lại thời ấu thơ cùng những năm tháng tác giả chưa du học (người thân, thơ ấu, quê nhà/ vui buồn ngó lại vẫn là như xưa). Phần bốn, gồm những cảm xúc gởi vào thơ khi lưu cư ở xứ người.

 

          T́m hiểu tác giả là một điểm, tôi có thói quen quan tâm đặc biệt, nên thay v́ vào vạt thơ t́nh theo thứ tự tập thơ, tôi đến với phần ba, để được nh́n từ thời niên thiếu của một người làm thơ.

          Lê Hân sinh năm 1947 tại Hội An, theo gia đ́nh tản cư lên Tiên Phước. Năm 1953 về sống tại Đà Nẵng, học trựng Phan Châu Trinh. Năm 1965 vào Sài G̣n học Chu Văn An. Du học tại Hoa Kỳ năm 1966. Làm việc tại Canada.  Hiện nay định cư tại San Jose USA. Lê Hân biết làm thơ khá sớm. Tuần báo Tuổi Xanh, ṭa soạn ở số 380 đường Da Bà Bàu Chợ Lớn, là vạt đất đă cho anh bước những bước thơ đầu tiên, trong sáng và hồn nhiên, đại khái như:

 

          nhà em có cây thầu đâu

          cả ngày chim sẻ chim sâu quây quần

          cành thanh lá mỏng rung rung

          hát theo cơn gió, ḥa cùng tiếng chim

          em ngồi nhướng mắt lặng im

          tiếng chim như tiếng trái tim đập đều

          vẩn vơ em liếc nh́n theo

          con chim sâu thích leo trèo lung tung

          mấy con chim sẻ lạ lùng

          đậu chưa nóng đít đă cùng nhau bay

                                     (chim trong sân nhà em)

                                 

                                              

          ba em là một ông già

          tóc râu... xanh biếc làn da hồng hào

          dáng người thanh cảnh cao cao

          nụ cười ánh mắt chừng thao thức buồn

          một đời người giàu bi thương

          trôi theo thời thế nhiễu nhương nước nhà

          nhưng dù lận đận bôn ba

          ḷng ba là cả mái nhà yên vui

          mỗi khi ba ngồi rung đùi

          ngâm thơ, em thấy như người trẻ ra

          em trèo lên vế lân la

          sờ cằm, vuốt má là ba mỉm cười

                                                                        (ba em)

 

          em gọi mẹ bằng má

          giống thói quen, cả nhà

          má em không là lá

          cũng không là nụ hoa

 

          má em là tất cả

          mầm xanh quây quanh nhà

          má em là tất cả

          sao trăng từ cao xa

 

          má em chắc không đẹp

          nhưng khó ai sánh bằng

          bởi v́ mọi bà mẹ

          đẹp như những vầng trăng
                                                         (má em)

 

          Ở phần ba của tập thơ, Lê Hân nhờ những ḍng tâm thơ, để chở t́nh anh đến nở nụ trên những h́nh ảnh thân yêu nhất, mà anh có trong thuở đầu đời. Những đối tượng ấy, những khoảnh trời kỳ diệu ấy, là những người ruột thịt, là những ḍng sông, những cục đất, đá, thơm ngát t́nh nội, ngoại, là bè bạn, là sách vở, là tṛ chơi... Từng vật, từng người, đă cho lẫn giữ giúp anh muôn ngàn kỷ niệm.

          Với mẹ, Lê Hân có thêm một bài ngũ ngôn khác. Qua thơ, anh cho biết: mẹ anh là một người đàn bà đảm đang, là “chủ lực chính” để tạo “cho gia đ́nh thơm hoa”. Thời kháng chiến, bà đă thay người cha, chăm sóc, thương yêu và cả việc“chia đều lằn roi” cho các con. Anh là người luôn luôn cận kề bên mẹ, cho đến khi bà bất ngờ “đi về cơi hư vô”, ở tuổi “hưởng dương năm mươi bốn”. Trước mất mát lớn lao đó, nhà thơ vẫn không tin người thân yêu của ḿnh đă về với đất, dù anh đă “...khóc thật sự rồi”:

 

           “... tháng tư ơi tháng tư

           tháng nhiệm mầu của Phật

           mẹ tôi theo trăng rằm

           chẳng phải về với đất”

 

          Bài thơ thăm thẳm buồn. Cái buồn chúng ta từng gặp, khi đọc bài thơ Mất Mẹ của nhà thơ Xuân Tâm, được Thích Nhất Hạnh mang vào để trong đoản văn  Bông Hồng Cài Áo. (...tôi thấy tôi mất mẹ/ như mất cả bầu trời).

 

          Với cha, Lê Hân có những ḍng chan chứa thương yêu, cùng ít nhiều chua xót, khi không được hiện diện trong phút lâm chung của người ḿnh hằng kính yêu, thương nhớ từ ngàn dặm xa:

 

          “...cha ít nói nhưng nụ cười không hề tắt

          vui v́ con, thao thức cũng v́ con

          chẳng phải thiếu những đứa con phạm lỗi

          nhưng tay cha chưa hề biết đánh đ̣n

 

          chẳng phải bụt mà cha hiền như Phật

          con xa cùng với láng giềng gần

          ai cũng chịu ơn cha năm bảy bận

          sống với đời trọn vẹn chân tâm

 

          cũng như đất cha trở về với đất

          tám mươi tư cha vẫn giữ nụ cười

          phút nhắm mắt không có con bên cạnh

          chắc dễ ǵ cha giữ trọn niềm vui ?...”

 

          T́nh anh chị em cũng rất đậm đà trong trái tim, của người sớm xa gia đ́nh. Từ Ngh́n Trùng Khóc Chị, như tiếng khóc không thành tiếng, nhưng sâu thăm thẳm:

 

          chị tôi vừa mất hôm nay

          tin quê nhà ướt đường dây điện đàm

          tôi đang ngồi ở sở làm

          tắt computer đứng bàng hoàng mấy giây

          buồn buồn bẻ mấy đốt tay

          trông ra cửa sổ thấy mây trắng trời

          nhởn nhơ vài cánh hải âu

          lượn ṿng như chiếc lá rơi lừng khừng

          mở computeur, ngồi ngă lưng

          bốc điện thoại...bỗng ngập ngừng...gác lên

          ḷng sao lạ, ... cứ lênh đênh

          dường như bay giữa nhớ quên chập chùng...”

 

          Những câu thơ như một đoạn phim, lưu giữ đầy đủ h́nh ảnh sống thật của một người, từ phương xa nhận tin buồn ở quê nhà. Qua dây điện thoại, ta bắt gặp nước mắt của người báo tin. Ta bắt gặp cái bàng hoàng, bất ngờ của người nhận tin giữa giờ mưu sinh. Đứng lên, ngồi xuống, tắt, mở máy... bỗng trở nên   thức. Trong lúc bên ngoài vài cánh chim bay vô . Và những cái vô tư từ ngoại cảnh ấy, bỗng đồng lơa với ḷng người lênh đênh... chập chùng, đầy nghi vấn, tự trách, h́nh dung:

 

          chị tôi về cơi vô cùng

          sáng nay, bên ấy mịt mùng bóng đêm

          chị đi, ngó vói đầu thềm

          t́m đâu ra giọt lệ em đưa đường!

 

          quanh pḥng bỗng thoảng trầm hương

          đưa tay chống trán, ngồi suông...hết giờ

          nới cà vạt, nh́n đồng hồ

          bây giờ bên ấy người vào kẻ ra...”

 

          để sau cùng kêu khẩn thiết kêu lên:

 

          chị ơi nhắm mắt xin đừng ngóng em”

 

          Nằm kề bên t́nh ruột thịt là những con đất, những kỷ niện buồn vui. Với Hội An, nơi tác giả ra đời, và phải bỏ mà đi khi chưa tṛn một năm tuổi v́ chiến cuộc. Lê Hân h́nh như không trồng tỉa được nhiều t́nh cảm, ngoài trừ sự hănh diện, được ra đời trong ḷng phố cổ đó:

 

          “... tôi ngồi khẽ xuống bức tranh

          gia tài thế giới thơm danh, bảo tồn

          không thể giữ bồn chồn

          bỏ rơi cả cụm thơ c̣n non tay”

 

          Nhưng dù sao, với những đường nét thơ, Lê Hân cũng đă cho Hội An sống cùng những h́nh ảnh lạ hơn nhiều tay thơ Quảng Nam khác:

 

          “... cây xanh hát với cây xanh

          trời như lồng kính úp quanh khu nhà

          ...

          mái nhà xinh vách nhà xinh

          cái xinh của cái chênh vênh tuổi đời

          ...

          đường co ro, đường ngoằn ngoèo

          mỗi viên đá lót lưng đèo ngàn năm

          ...

          Chùa Cầu, sông, chợ, bến xe

          tôi đi ruồi nhặng vo ve đưa đường...”

 

          Với Đà Nẵng, thành phố cho tác giả đến gần mười hai năm hít thở, nên anh có khá nhiều cái chỗ để mê, nhiều cái tên để nhớ, để gọi: “...tôi mê cái Cầu Vồng...tôi mê cái Ngă Năm...tôi mê nóc nhà thờ...tôi mê cái chợ Hàn...tôi mê cái sân chùa... tôi mê cái ḍng sông...”. Sau mỗi lần thú nhận như thế, tác giả nói lên cái lư do dẫn đến sự say mê của ḿnh. Cuối cùng anh xác nhận:

 

          “... Đà Nẵng vẫn của tôi

          vĩnh viễn là của tôi

            giang hồ, lưu lạc

          vẫn cơng trên lưng đời”

 

          Với quê nội, nơi chỉ có thể tính tháng cho sự thân thiết giữa người và cảnh. Lê Hân thành thật:

 

          chỉ vài tháng với ruộng đồng quê nội

          tuổi thơ tôi không giàu lắm tiếng chim

          những con dế, con bù rầy, con châu chấu...

          chưa kịp thân đă lạc mất đường t́m

 

          chỉ vài tháng với hàng tre bụi chuối

          với con đường bờ ruộng vài gang tay

          bàn chân bước lỡ trợt nhằm lờ cá

          hỏi thất thanh cái chi lạ thế này?

 

          Nhưng t́nh đất h́nh như có sẵn sự lôi cuốn mầu nhiệm, nên tác giả cảm được sự ràng buộc, thân t́nh một cách kỳ diệu, bài thơ trở thành một bài viết về quê hương rất đằm thắm đi từ những chi tiết vụn vặt:

 

          chỉ vài tháng với làng quê, sao lạ quá

          khó mà quên cái g̣ mả, cây đa

          từng ụ đất vồng cao dày cỏ mượt

          gốc cây to nghiêm nghị giống cụ già

 

          chỉ vài tháng nhưng ḍng sông sống măi

          trong tôi những kỷ niệm tuyệt vời

          dẫu uống nước nhiều lần vẫn nhất quyết

          quậy chân tay tập lặn trước khi bơi

 

          chỉ vài tháng nhưng làm sao quên được

          nh́n con trâu thèm được cỡi trên lưng

          vui biết mấy được một lần lùa vịt

          sợ hết hồn khi đỉa bám trên chân

 

          chỉ một tháng với ruộng vườn quê nội

          suốt cả đời không thể nguôi quên

          cái nhà ngói ông tôi chừng đang gọi

          tưởng như xa, nhưng quê vẫn bên ḿnh”

 

          Có thể đúng với nhận xét: “ mẹ mất quê ngoại trở nên xa”. Không đúng với nhiều người, cũng đúng với Lê Hân. Thị trấn Vĩnh Điện thuộc Quảng Nam, quê ngoại của nhà thơ, Lê Hân chỉ có chừng mươi bận đi về, vừa đủ cho anh, tưởng tượng ra ông ngoại của ḿnh, từng chơi bắn bi, u mọi với cụ Trần Cao Vân. Bởi cùng lứa tuổi và nhà ngoại anh đối diện với nhà chí sĩ yêu nước này.

          Lê Hân viết những ḍng tám chữ cho nơi người mẹ yêu quí của ḿnh ra đời, đầy trân trọng và t́nh nghĩa. Mảnh đất tuy bé nhỏ ấy, không hiểu v́ đâu đă cho mọc lên nhiều tay thơ lộng lẫy: Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Nho Nhượn, Đynh Trầm Ca, Từ Huy, Nguyễn Nho Khiêm... Biết đâu chừng cái chất thơ của Lê Hân, cũng được dậy lên từ cái nôi quê ngoại. Cái nôi đó thật thắm ngọt t́nh người:

 

          “... mẹ tôi nói cái làng như cái túi

          tḥ tay vào là đă đụng bà con...”

 

         Và trong chính cái không gian hữu hạn ấy cái vô hạn của cái t́nh nên dù “tôi khôn lớn, đành xa nhà lập nghiệp / quê ngoại buồn mờ mịt ở sau lưng / một đôi lúc, nhớ điên cuồng Vĩnh Điện / quay xung quanh bắt bóng cũng không thành”. Lê Hân cũng đặt niềm tin:

 

          Vĩnh Điện, hăy nhiệt t́nh đổi mới

          từ đầu cầu đến ngả xuống Hội An

          mỗi hạt bụi đều dính tôi một thuở

          tôi hằng tin Vĩnh Điện sẽ nghênh ngang”

 

          Ở phần ba này, ngoài những gợi mở chân t́nh trên, c̣n là cơi để tác giả ngồi lại mân mê những kỷ niệm thời ấu thơ, thời niên thiếu của ḿnh. Quả thật nhà thơ đă có những ngày đầu đời, không óng ánh như nhiều người khác, cùng trang lứa. Tác giả vừa buồn buồn vừa tự an ủi ḿnh trong nhịp thơ nhẹ nhàng. Bạn chẳng thể không bùi ngùi khi nghe tâm sự:

 

          ấu thơ tôi nghèo tṛ chơi ghê lắm

          nghèo th́ nghèo vẫn có ấu thơ tôi

          tánh bổn thiện, tôi hiền như đá tảng

          chán lang thang hai chân xếp bằng ngồi

 

          núi và rừng nuôi tôi cùng cây lá

          cây xanh tôi nhong nhỏng nhổ gị

          gần nhật, nguyệt hơn là gần ba má

          tôi, thiên nhiên như bè bạn, thầy tṛ

 

          những buổi sáng ngồi co chân phơi nắng

          chào con chim về hót trước hiên nhà

          con chim nhỏ h́nh như thường giả dối

          đời chắc buồn nhưng vẫn phải ngâm nga

 

          những buổi trưa cúi lom khom trong bụi

          trốn tàu bay do thám đảo ṿng ṿng

          bàn tay cầm một nụ hoa dủ dẻ

          hương cùng ḷng như bay bổng lên không

 

          những buổi chiều rảo chân trong rẫy quế

          gió không đưa mà nhận hết hương rừng

          mỗi gốc quế mở ra một cánh cửa

          cửa chẳng để vào mà để dựa lưng

 

          ấu thơ tôi chẳng có ǵ nữa cả

          không bi ve cũng chẳng có dàn thun

          ngày dài quá, ngồi không, ŕnh con chuột

          tḥ thụt ngu ngơ sau cánh cửa buồng

 

          một đôi lúc vài 'con gà tự túc'

          lững thững vào nền nhà đất vải phân

          gặp mặt tôi cũng chẳng cần hấp tấp

          bước hai chân, hai chân bước phong trần

 

          ấu thơ tôi quả đúng là vậy vậy

          cánh cửa đời cho đủ vốn hồn nhiên

          chẳng ǵ quí, nhưng bây giờ ngó lại

          cảm ơn rừng, ơn núi, đất sông Tiên

 

          khó thể 'tắm hai lần cùng ḍng nước'

          nhưng con sông, ai cấm tắm trăm lần?

          về lại với ấu thơ là đă tắm

          trong con-sông-tôi đang đổ theo ḍng

                                                   (về lại ấu thơ)

 

          Thật là một bài thơ giàu h́nh ảnh đẹp và độc đáo. Bài thơ này cây bút  nữ Thảo Nguyên đă săm soi cặn kẽ, nên tôi không dám bàn thêm.

          Khác với thời ấu thơ, thời thiếu niên đến với Lê Hân tươi sáng bội phần, bởi anh có nhiều bè bạn. Chung quanh anh gần như vật ǵ cũng nên thơ. Anh làm thơ khi đá bóng, khi đánh bi da, đánh cờ tướng. Anh làm thơ khi đi trại hè, khi đi kèm trẻ. Anh làm thơ cho Thịnh, cho Thống, cho Long, cho Duyên, cho cả bác thợ hớt tóc dạo. Thơ và những thơ ấy đă được đôi lần đậu trên trang báo, gởi đến bao nhiêu bè bạn anh không biết tên, không biết mặt. Niềm vui của Lê Hân có lẽ trở nên phong phú nhờ cái tṛ chơ chữ nghĩa này. Anh đă ghi lại cảm giác khi thấy thơ ḿnh được in lên báo:

 

          “... thế là phải nặn túi

          mua báo lận về nhà

          đặt nằm trên bàn học

          lâu lâu giở ḍm qua

 

          bài thơ không có chân

          cứ nằm đó trân trân

          nhưng ḷng tôi lạ quá

          cứ như lớn lên dần...”

 

          Lê Hân không lớn lên cùng thơ, mà trưởng thành nhờ những môn học khác. Anh đă có khả năng xuất ngoại du học, trong thời kỳ việc ra nước ngoài không phải là điều dễ dàng, nhất là ở vị thế con của một viên chức nhỏ thuộc ty Ngân Khố thành phố Đà Nẵng. Ngày lên đường, anh gặp lại sự đơn độc như thời ấu thơ. Có lẽ rất hiếm nhà thơ ghi lại cảm xúc của ḿnh khi đi xa trọ học, Lê Hân cũng vậy. Nhưng nhiều năm sau, anh hồi tưởng qua sáu đoạn thơ bảy chữ:

 

          ra đi từ thuở chớm hai mươi

          môi rớt nơi đâu những tiếng cười

          vài bộ áo quần mươi cuốn sách

          tấm h́nh đen trắng thuở nằm nôi

 

          bịn rịn nh́n quanh phi trường rộng

          người đưa người, đâu kẻ đưa ta

          không phải mồ côi mà đơn độc

          nh́n mây thấy rơ bóng cha già

 

          nhớ trực lại thời năm, sáu tuổi

          rừng với cú với chồn tinh

          cục đá lâu năm là thằng bạn

          đọt chè, củ sắn xiết bao t́nh

 

          ngơ ngáo lập thân từ thuở nọ

          bây giờ hồ dễ lạnh bàn chân

          được đi du học đâu phải dễ

          sao ḷng vẫn nghe nhớ loanh quanh

 

          tay xách va li tay nắm vé

          thang lên tàu sao ngắn quá đi thôi

          không ai đưa tiễn sao c̣n vẫy

          vạt nắng chênh vênh một góc trời

 

          tàu đă vào mây, tàu theo gió

          vừa buồn vừa sợ vừa lo âu

          bàn tay lần giở trang tự điển

          vạn sự đầu nan sắp bắt đầu

                                        (trên đường du học, TXMN - trang 120)

 

         “Vạn sự đầu nan” h́nh như đă qua khá nhanh trong nhịp sống vội vă của Bắc Mỹ. Từ Boston đến Brossard, Montréal, Toronto rồi tạm dừng với Mississauga:

        

          “với những t́nh cờ trong cuộc sống

          vô t́nh làm kẻ thích bôn ba

           ta trôi ngàn dặm trong trời đất

          vẫn cơng trên lưng một mái nhà

 

          đến đây, chống nạnh nh́n con đất

          soăi nằm giữa cơi gió bao la

          mây xanh, mây xám chồm trong nắng

          ḍm xuống thầm chào khách phương xa...”

 

          Người khách phương xa ấy, “... coi bộ c̣n bay bướm” đă biến “hang hiên bỏ túi thành vườn hoa” để rồi “bưng cả  tháng ngày thơ ấu cũ / đổ ra làm nước tưới chan hoà...”. Hết ḷng với chỗ dung thân, nhưng lâu lâu, người làm thơ cũng rất là Lư Bạch:

 

          “... gối tay nằm ngó ra cửa sổ

          thấy ngay Đà Nẵng ở sau nhà...”

 

          Lê Hân làm thơ về ngoại cảnh thường cho cái tôi của ḿnh lồng vào bên trong. Điều này không có ǵ mới lạ. Hầu hết các nhà thơ đều dàn trải t́nh cảm như vậy. Sự khác nhau, tùy vào xúc cảm trước cảnh vật, ư tưởng và tài dùng chữ, chọn h́nh ảnh. Cảnh sắc sẽ mới lên từ những chất liệu cũ:

 

          “em và biển có những ǵ trùng hợp ?

          trăng và em cùng chung những điều chi ?

          thật huyền diệu, cả ba cùng họp lại

          nắm tay ta trở lại tuổi xuân th́...”

                                              (em, biển và trăng trang 38)

 

hoặc:

 

         “... em hẳn nhớ con vành khuyên đứnghót

          giữa cành xanh lá chớm ngả vàng tơ

          ta mấy lần giấy bút định làm thơ

          tại em đẹp làm vần phai điệu nhạt...”

                                                 (măi măi mùa thu trang 34)

 

          “sang thu cỏ úa lá vàng

          gió thiếu chỗ đậu lang thang khắp trời

          một đàn sáo mới thôi nôi

          nhởn nhơ cùng rủ nhau phơi nắng hồng

          vườn em nở muộn nhánh bông

          nguồn hương như một ḍng sông nước đầy

          hẳn v́ em dũa móng tay

          bụi nhan sắc nối đường mây phiêu bồng...”

                                                  (sang thu , trang 41)

 

          Lê Hân hẳn rất yêu thích các loài hoa. Anh đă dùng nhiều nhánh lục bát để vẽ lên nhiều bụi hoa rất đẹp. Xin hăy cùng thưởng ngoạn hương sắc của hồng-bluemoon:

 

          “khi em c̣n chúm chím môi

          má hồng bụ bẫm thơm thời mười ba

          khi em phơi phới cười x̣a

          trái tim hương sắc lộ ra rất t́nh”

 

         của hồng-fristprice:

 

          “ mỗi búp gồm mấy cánh thơ ?

          nét đậm nét nhạt lẳng lơ đợi người

          cành gai lá đỡ em ngồi

          bút hoa nào vẽ sáng đời sống em ?”

 

          Có lẽ nhà thơ là một người giàu hạnh phúc. Ân sũng ấy anh lượm từ thiên nhiên, vạn vật. Lê Hân xác nhận:

 

          buổi chiều tháng sáu, tôi về muộn

          cây lá trong vườn có vẻ trông

          những gốc hoa non đang chờ nước

          mùi hương đang đợi kẻ có ḷng

 

          tôi đứng giữa màu xanh lá non

          bàn tay, chẳng phải là ban ơn

          chúng tôi trao đổi cho nhau nhận

          hạnh phúc đơn sơ, vốn vẫn gần

 

          đọt lá vươn ḿnh như muốn hát

          chồi hoa nghiêng cánh vẫn chờ hôn

          chẳng cần thi phú chi cho mệt

          thơ ở quanh tôi vỗ dập dồn

 

          tôi quả thấy ḿnh yêu đời quá

          và giàu hơn cả một quân vương

          tôi đi tôi thở cùng trời đất

          hoa cỏ cùng tôi sống b́nh thường

                                             (cùng vạn vật)

 

          Hạnh phúc quả thật ở ngay bên đời sống thường nhật của chúng. Nếu biết cho và nhận một cách chân t́nh. Thơ Lê Hân không mang một dấu ấn triết lư nào. Ở anh chỉ có những nhịp thở b́nh dị. Sự thong thả của âm điệu chính là những điệu ru cho người làm thơ lẫn người đọc thơ.

          Toàn tập thơ đầu tay của Lê Hân có 180 trang. Cũng như hầu hết những thi phẩm khác của Việt Nam, trong T́nh Thơm Mấy Nhánh, nhánh chủ yếu là thơ t́nh. T́nh ở đây là sự luyến aí giữa hai nhân vật nam nữ. Đề tài này có tuổi thọ quá cao, nhưng muôn đời nó vẫn ở măi với thời xuân sắc. Dĩ nhiên, muốn được như vậy, phải tùy thuộc rất nhiều vào tài nghệ của người gieo trồng ngôn ngữ.

          Thơ t́nh Việt Nam thường có nội dung bi thảm, chia ĺa. Đây là sự thật. Nhưng bảo rằng có thất t́nh thật sự, mới làm được thơ hay. Điều này tưởng cần phải xét lại. Mượn niềm đau của kẻ khác, hoặc đặt trái tim ḿnh vào tâm trạng những người gặp chuyện t́nh buồn để diễn đạt, mới thật sự là thi sĩ. Nhiều nhà thơ của chúng ta, rất thành công trong chiều hướng này. Thơ t́nh của Lê Hân không nằm trong nhóm thất t́nh ca. Thơ t́nh của anh là những nụ t́nh vui. Có được như vậy, là nhờ: “một đời tôi chưa thất t́nh”. Để minh chứng cho lời khẳng định có nhiều khoe khoang của ḿnh, Lê Hân tuyên bố mục đích trong t́nh yêu của anh:

 

          ... yêu người

                            là để yêu ḿnh rơ hơn

          nhớ nhung

                         lăng mạn

                                     giận hờn...

          bao nhiêu chiêu giúp tâm hồn trẻ luôn

 

anh tiếp tục bày tỏ quan niệm về t́nh yêu:

 

          một đời

                          tôi chưa biết buồn

          nợ

                      duyên

                         vốn rất b́nh thường, tự nhiên

          được

                 không

                            chẳng thể ưu tiên

          người nào không có trái tim si  t́nh ?

 

          một đời

                     tôi sống hiển vinh

          bởi nhờ làm được thơ t́nh vu vơ

          yêu thương chẳng để tôn thờ

          là cho

                      là nhận                                                                            

                            tóc tơ tôi, người

 

và anh kết luận nghiêm chỉnh:

 

          thơ t́nh tôi ấm niềm vui

          từng ḍng thánh thót tiếng cười nói em

 

          Muốn biết mức độ thành thật của người làm thơ, cùng những nguyên nhân giúp anh tránh được thất t́nh, tưởng cần biết rơ hơn quan niệm về t́nh yêu của Lê Hân. Trong bài “luận về yêu” anh viết:

 

          mỗi nhánh chữ đều có tôi phục kích

          nằm lăm le t́nh mộng trong tim

          em lấp ló, tức th́ tôi nhận diện

          yêu hay không chuyện của trái tim

 

          nhiều lúc tôi nhớ thương tức khắc

          cũng nhiều khi chỉ mơ mộng linh tinh

          yêu quả thật làm cho ḿnh quên lớn

          ḷng ngây thơ mặt phơi phới xuân t́nh

 

          như thuở t́nh cờ em ghé lại

          vẩn vơ cười làm rớt những mùi hương

          đâu ai biết những mùi hương bén rễ

          trong ḷng tôi xanh cành nhớ chùm thương

 

          yêu như thể là cái ǵ cụ thể

          như  cỏ  hoa, như  muôn thú, ḍng sông...

          mắt không thấy mà ḷng th́ sờ được

          chính ḿnh càng lúc càng mênh mông

 

          em có thật và em không có thật

          buồn và vui đơn giản giống như nhau

          yêu là sống tuyệt vời riêng một cơi

          t́nh luôn luôn ở điểm khởi đầu

 

          Chính nhờ lạc quan như vậy, nên chung quanh nhà thơ luôn có những nụ hồng, những nụ hoa này không chỉ biết khoe sắc, mà c̣n biết hót giống như những nụ t́nh trong ḷng người thi sĩ, biết hát:

 

         vừa viết được khúc ca vui quá đỗi

          bởi em qua bước giạt nắng hai bên

          khúc khích cười cỏ xanh mướt ngó lên

          ṿm lá ướt đôi tay em  đang tỏa

 

          đàn chim đến chen chân vào kẽ lá

          cũng như anh háo hức đón em qua

          đôi mắt nâu hờ hững ngỡ như là

          chưa kịp thấy anh chàng câm như hến

 

          anh ngố quá cho nên cơn gió đến

          thở trong tà áo trắng ngỡ là thơ

          ḷng vói theo đâu hiểu ḿnh đang mơ

          em quá đẹp khiến anh thành khờ dại

 

          hồn rơi giữa lúm đồng tiền ngoái lại

          t́nh em e ấp tuổi mười lăm

          ngát hồn nhiên trên mỗi nhánh tay cầm

          ḷng anh rối trong vụng về mắt liếc

 

          'mi nhôn' nhé, hăy giả vờ chưa biết

          cho anh nghe từng bước gót chân ngoan

          trời đơm xuân, anh nở giữa nắng vàng

          đóa hoa hát những câu t́nh lấp lánh

                                                                      (t́nh hát trang 20-21)

 

          Và khi đă thật sự yêu, tâm trạng của nhà thơ cũng rất đặc biệt:

 

          yêu em chẳng phải dễ dàng

          lệch con mắt ngóng, ṃn bàn chân đi

          tiếng cười bỗng chợt lạ kỳ

          giọng nói bỗng đổi, nhiều khi lạ lùng

 

          đêm đêm thao thức trong mùng

          thấy con muỗi cũng bao dung giả vờ

          lầm thầm như thể làm thơ

          bài thơ không chữ nhưng vơ vẩn buồn

 

          yêu em chẳng thể chuyện thường

          như trời mưa nắng gió sương bốn mùa

          như ngày có sáng có trưa

          chiều có tối đong đưa qua đời

 

          yêu em chẳng thể như chơi

          đá banh chuyền bóng lội bơi leo trèo

          tháng ngày trong vắt trong veo

          bỗng nhiên có sợi khói treo ngang ḷng

 

          yêu em chẳng dám thong dong

          cả ngày hết nhớ lại mong cả ngày

          dũa móng chân, cắt móng tay

          chăm từng sợi tóc, lông mày mướt xanh

 

          yêu em chẳng dám để dành

          t́nh cho cây cỏ loanh quanh bên ḿnh

          mái chùa, am, miễu, sân đ́nh

          đi ngang cũng chợt vô t́nh ngó lơ

 

          yêu em, đích thực thế nào?

          chẳng lẽ chỉ việc đi vào đi ra

          yêu em, quả thực ba hoa

          nói xuôi nói ngược vẫn là có duyên

 

          yêu em, quả thực thành tiên

          không cánh mà vẫn an nhiên phiêu bồng

          cái tâm cái trí mênh mông

          chung quanh đời một màu hồng bao la

 

          yêu em quả thực đúng là

          làm con người biết vị tha tuyệt vời

 

          Nhưng người yêu của thi sĩ, t́nh nhân của nhà thơ là ai vậy ? từ đâu đến ? Lê Hân không giấu:

 

          em từ lục bát bước ra

          bốn bề hơi thở Nguyên Sa dịu dàng

          ...

          em từ lục bát bước ra

          cơng ông Bùi Giáng xuề x̣a ngả nghiêng

          ...

          em từ lục bát bước ra

          ai sau lưng giống như là Viên Linh

          ...

          em từ lục bát bước ra

          bàn chân Nguyễn Bính lân la theo cùng

          ...

 

          Với chân dung trtên ta có thể h́nh dung người t́nh của thi sĩ nếu không là thơ cũng đầy chất thơ. Có lẽ v́ vậy, ta thấy anh đă chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng ḥa đồng cùng ít nhiều thủ thế:

 

          .... tôi ngồi trong chiếu thơ tôi

          những câu sáu tám ngút hơi yêu đời

          vịn Cung Trầm Tưởng dạo chơi

          theo Huy Cận ghé vào nôi nắng sầu

          cùng Hoài Khanh ngồi bên cầu

          nh́n mây vuốt ngực lắc đầu trốn em

          cùng Luân Hoán nằm trùm mền

          sợ rơi giấc nhớ mất em bất ngờ

          cùng trăm ngàn vạn nhà thơ

          đón em từ lục bát vào thế gian”

 

         Trong một giới thiệu khác, Lê Hân tŕnh diện Em của anh với chúng ta:

 

 

          em trong mớ chữ tôi ?

                                                   

                                                    không

                                                    không

                                                    

          ...vậy thôi đó mà

 

          đời thường ví em là

                                         hoa

          tôi trầm ngâm thấy như là bụi bay

 

          đời thường ví em là

                                          mây

          tôi miên man ngắm sợi giây tơ ḷng

 

          đời thường ví em là

                                         sông

          tôi nh́n thấy dải lụa hồng thắt ngang

 

           em trong mớ chữ tôi

                                 vàng

                                 đỏ

                                 xanh

                                 trắng

                                 tím...

                                 vàn sắc hương

 

           em trong mớ chữ tôi

                                 buồn

          bởi v́ tôi vốn bất thường luôn luôn

 

          hăy em là

                         một giọt sương

          ngửa tay tôi hứng ngàn chương thơ đầy

 

          hăy em là

                        hớp rượu cay

          lưỡi tôi cuộn lại một giây tuyệt vời

 

          hăy em là

                         một chút tôi

          để cùng sống sót với đời với thơ

 

          Chắc phải nên hiểu rằng người em trong chữ, trong thơ cũng là người t́nh trong ḷng, trong đời của người làm thơ. Nhân t́nh đó không phải từ trên trời rơi xuống. Cho dù thường bắt đầu từ những t́nh cờ, muốn có người yêu, ai cũng phải cần rất nhiều tâm nguyện, công sức. Điều đơn giản mở đường, là phải biết cách thả lời ong bướm. Không hoa ḥe hoa soái. Không quá mộc mạc. Và tối kỵ sự sàm sỡ lộ liễu trong t́nh yêu. Lê Hân tán tỉnh, tỏ t́nh ra sao ?

          Trước nhất anh mục kích:

 

          “...áo em có ướp ca dao

          hai tà khép mở đường vào cơi thơ

          tôi thu ḿnh giữa hư vô

          ngắm em lẫn nắng phất phơ bên đồi

 

          Đợi một cơ hội:

 

          “ cơn mưa nặng hạt vô t́nh

          làm em bối rối bực ḿnh phải không

          ông trời xơi nước ngồi không

          lâu lâu trái chứng lông bông một lần”

 

          Có cơ hội không thể không tận dụng, và người thơ tỏ t́nh thật khôn khéo:

 

          thôi th́, em, nếu như cần

          tay tôi làm chiếc dù hồng che mưa

          em đừng ngại đứng không vừa

          bàn tay tuy nhỏ ḷng thừa che em...”

 

          Sự tỏ t́nh của Lê Hân nhiều khi bóng bẩy, tinh vi vô cùng:

 

          bỗng nhiên tôi chợt thấy tôi

          nằm săm se ở trên môi em cười

          đứng im trên mắt có đuôi

          ngồi mơ tren má đào tươi ngọt ngào

          loay hoay trên tháp cổ cao

          chờn vờn giữa cơi chiêm bao tuyệt vời

          hai tay em đỡ hương đời

          từ trang sách mở trăm lời nhớ nhung

          ...

          thơ tôi dở, đành vậy thôi

          em xinh làm rối cả lời ba hoa...”

 

         Thơ t́nh của Lê Hân c̣n nhiều, nhưng không thể măi trích dẫn, lại càng nên hạn chế trích dẫn đôi câu trong một bài. Sự cắt ĺa như vậy tuy không làm hỏng bài thơ, nhưng không giúp người thưởng ngoạn đạt được niềm thú vị trọn vẹn khi đọc thơ Lê Hân. Nhà phê b́nh danh tiếng Nguyễn Hưng Quốc nhận định: “...Làm thơ là một nghệ thuật. Đọc thơ cũng là một nghệ thuật. Làm thơ là nghệ thuật sáng tạo cái đẹp. Đọc thơ là nghệ thuật khám phá cái đẹp”. V́ thế, tôi không thể “ăn có” trong việc đọc thơ của các bạn. Những ḍng gợi mở khá vụng về trên, chỉ có mục đích giới thiệu tổng quát một thi phẩm. Và mặc dù rất dông dài, tôi vẫn bỏ sót nhiều điều đáng nói về thơ Lê Hân.          Tôi cũng đang phân vân, có nên đưa ra vài nhận xét về kỹ thuật viết của tác giả, th́ chợt nhớ nhà thơ Phan Ni Tấn đă làm điều này. Tiện nhất là xin phép anh, chép lại:

 

          “... Có nhiều người làm thơ tuy dễ nhưng dùng chữ không dễ. Ngược lại Lê Hân sử dụng từ rất nhuần nhuyễn, nhất là những động từ được tác giả thả vào câu đúng lúc, đúng chỗ, làm cho mạch thơ không những lai láng chảy qua từng vần từng ư mà c̣n gây hứng thú bất ngờ. Bài ‘Luận Về Yêu’ là một thí dụ:

 

                   mỗi nhánh chữ đều có tôi phục kích

                   nằm lăm le t́nh mộng trong tim

                   em lấp ló, tức th́ tôi nhận diện

                   yêu hay không là chuyện của trái tim

                                                    (Luận về yêu)

         

         Cái hay ở bốn câu trên những là những động từ phục kích, lấp ló và nhận diện tạo cho giọng thơ có tư thế trốn t́m mà tác giả là người chiếm thế thượng phong tuy     nghênh ngang nhưng tâm t́nh phơi phới, trong veo.   Những động từ trong bài ‘T́nh Hát’ cũng vậy:

 

          anh ngố quá cho nên cơn gió đến.

         thở trong tà áo trắng ngỡ là thơ.…. 

 

         hồn rơi giữa lúm đồng tiền ngoái lại.

         t́nh em e ấp tuổi mười lăm.

         ngát hồn nhiên trên mỗi nhánh tay cầm...

                                                                 (T́nh hát)

 

         một tứ thơ có bản lĩnh, tư tưởng th́ dồi dào. Tôi muốn dẫn thêm một trường hợp khác nữa: bốn câu đầu của bài ‘Đón Xuân’, đặc biệt, trừ hai động từ ở câu thứ ba không có ǵ đặc sắc, các câu  c̣n lại được tác giả sử dụng động từ rất tài t́nh:

 

                   tháng năm chim sáo bơi  sân cỏ

                   gió chải  từng chùm lá thanh thanh

                   em hé cửa chào ḍng nắng ấm

                   bàn tay đang hát  khúc xuân xanh

                                                 (Đón xuân)

         

         Cứ vậy, những động từ  trào ra trên đầu ngọn bút cứ hân hoan gieo xuống làm cho toàn tập thơ bật lên những chuỗi âm thanh đầy sức sống.

         Mà thật, thơ Lê Hân là thơ có âm thanh của sự  chuyển động, tha thướt  vẽ nên nhiều h́nh ảnh và nhạc điệu dễ thương. Thử đọc một đoạn  dưới đây:              

                  

                        thơ dễ thương là thơ có em

                   mắt môi mày má... cứ lênh đênh

                   vạt hông, gót bước hơi làm điệu

                   một chút buồn khan đủ lót nền

                                        (Thơ dễ thương )

 

                                             (Phan Ni Tấn - Đọc T́nh Xanh Mấy Nhánh)  

 

         Để bài viết khép lại nhẹ nhàng, xin mời các bạn đọc thêm vài bài trong T́nh Thơm Mấy Nhánh. Tập thơ được xuất bản tại Canada vào năm 2003, với trang b́a của họa sĩ Đinh Cường, cùng những bài nhận định của giáo sư Đàm Trung Pháp và các bạn thơ: Phan Ni Tấn, Bắc Phong, Thảo Nguyên, Luân Hoán.    

 

            áo vàng hoa tím

 

em yêu tất cả loài hoa tím

tất cả loài hoa rưng rức buồn

ai ướp ḷng em hương thảo mộc

em đi thơm ngát những con đường

 

phải em từ một kiếp thu

mắt xanh lấp lánh ngấn sương mù

quanh năm mặc áo vàng hoa cúc

hoàng hậu yêu thương của mọi người

 

em chứa trong tim triệu áng thơ

từng lời nói mở những ước mơ

tiếng em khoan nhặt  nguồn âm nhạc

thao thức ḷng ai những đợi chờ

 

em hỡi em yêu...hỡi tiểu thư

ḷng tôi coi bộ đă h́nh như

ánh trăng lấp ló bên song cửa

ngắm mái tóc nằm trên án thư

em hỡi em yêu...hỡi nữ hoàng

áo em vàng chở nắng thu sang

bàn tay mướt rượt nhành hoa tím

tôi lạc thơ từ em liếc ngang

 

 h́nh như đùa

 

(....cô theo chồng, anh đi theo thơ

                             Hoàng Lộc)

 

chẳng phải em theo chồng

                             tôi mới theo thơ

trái tim ngôn ngữ tự bao giờ

nằm trong tâm thất tôi lọc máu

chảy suốt một đời được phất phơ

 

tôi chẳng phải là thi sĩ đâu

thơ chẳng thể một nàng dâu

chúng tôi chẳng phải là chi cả

chỉ biết rằng... là... khó mất nhau

 

thơ vốn của người, của thập phương

tôi gom chút ít lót chân giường

những đêm đơn độc tôi nằm gác

len lỏi thăm từng những nhánh hương

 

chân thật ngă ḷng ra cảm ơn

những hoa tay mở vóc thơ thần

tôi đi lẩn quẩn trong lời nói

đủ để sống đời với thi nhân

 

chẳng phải v́ em mới theo thơ

làm thơ, giỏi lắm, biết vu vơ

yêu thơ mới thật yêu thiên hạ

yêu cả ḿnh đang được dật dờ

 

thể h́nh như tôi đang đùa

không chừng tôi sắp sửa chịu thua

em như cô bạn ông Hoàng Lộc

            bỏ rối sau lưng ngọn nước mưa

 

tôi chợt làm thơ, quả đă thua

em chết hẳn tự bây giờ

chiếc quan tài nhỏ bằng ngôn ngữ

chôn cả tôi rồi, ơi hỡi thơ!

 

Hà Khánh Quân

18g07 ngày 16-9-2009