Sẽ khó mà luận lư ra cái
tố chất thường được gọi là
bẩm sinh của mỗi thi sĩ, dường như
đấy cũng là lư do vô tận, luôn là một thực
tại thách thức vượt qua mọi khả
nghiệm. Sức sáng tạo kỳ lạ ở mỗi thi
sĩ hàm chứa những tố chất bí mật cũng
chính là sức sống của mỗi cuộc đời
thơ, mà nếu như trống vắng hoặc mất
đi cái năng lực nhiệm mầu đó, cũng
tức là thi sĩ sẽ không c̣n tồn tại, cho dù trí
tuệ có vùng vẫy gắng sức tạo dựng nên
những đền đài kiểu sức mang đủ các
tên gọi mới mẻ. Một cuộc đời thơ
có thể là dằng dặc suốt một hành tŕnh với
đồ sộ những tác phẩm, nhưng cũng có
thể là khoảnh khắc, là tia
chớp, là ánh sao bay xẹt ngang qua bầu trời rồi
vụt tắt. Ở trường hợp sau,
ví như một Phạm Hầu, một Nguyễn
Nhược Pháp chẳng hạn. Trong “Thi nhân Việt
Nam”, Hoài Thanh đă tạc nên một h́nh ảnh Phạm
Hầu thi sĩ tưởng không ai khéo bằng: “Ở giữa đời,
Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để
dấu trên đường”. Nhưng tôi muốn nói
về một thi sĩ khác, thuộc thế hệ sau xa cái
con người mong manh “Chân
đi không để dấu trên đường” kia. Vâng, người ấy là Nguyễn Nho Sa Mạc.
Họ có cùng quê hương trên cái xứ sở đă chưng cất nên “rượu hồng
đào” huyền thoại, cùng uống chung nguồn
nước Thu Bồn, chỉ có điều năm Phạm
Hầu mất lại là năm Nguyễn Nho Sa Mạc sinh ra
đời (1944). Một măn cuộc, một
sinh khai. Ngẫu nhiên thôi nhưng kẻ trước
người sau đều là những ánh sao bay xẹt qua
bầu trời mang theo cả sự bí
ẩn về cái chết.
Không được bề thế như thi sĩ
Phạm Hầu, sáng danh trong “Thi nhân Việt Nam” và c̣n là
một họa sĩ xuất thân từ trường Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từng có
tranh đạt giải nhất trong triển lăm Tokyo
(Nhật Bản) năm 1940, Nguyễn Nho Sa Mạc thuộc
lớp những nhà thơ đất Quảng xuất
hiện sau này, vào quăng những năm 1960-1964. Anh đột ngột qua đời vào một
đêm tháng Chạp, cận Tết, lúc tuổi
đương độ hai mươi, dang dở một
sự nghiệp thơ đầy hứa hẹn. Trong
thơ anh, một linh cảm, một dự báo hay là từ
cái tố chất bí mật nhiệm mầu của thi
sĩ mà Nguyễn Nho Sa Mạc đă nh́n ra đến chính
xác cái số phận mong manh mệnh yểu của ḿnh.
Tôi
gọi nhỏ tên ḿnh sa nước
mắt
Ở
trên đời vừa đúng hai mươi năm
Giữa
hư vô phần mộ nhỏ yên nằm
Đọc lên những câu thơ buồn như
thế, có thể có người v́ chưa tiếp cận
cuộc đời thi sĩ nên cho đấy là nỗi ám
ảnh của sự tuyệt vọng, một thứ “thú
đau thương”, hay là v́ lẽ một căn bệnh vô
phương chạy chữa nên ám ảnh đến cái
chết. Lịch sử thơ ca cũng đă
từng có những nỗi tuyệt vọng, những hoan
lạc với khổ đau của thi sĩ mà sinh nở
những câu thơ, những bài thơ mang âm hưởng
“linh cảm, tiên tri”. Ví như trường hợp
Phạm Hầu: “Hay đời
hỏi thịt êm và tủy sống. Tôi xin nằm yên ổn
cả hai tay. Trong đày
ải ḿnh trần tê ngọn lửa. Tiệc chim
bằng rỉa rói một ḷng đơn”. Theo “Việt
Nam Thi nhân Tiền chiến” (NXB Văn học 1996),
Nguyễn Tấn Long (tác giả) cho rằng: “Quả đúng như lời thi
nhân cam chịu (số phận). Hoàn cảnh thi bản trên
đây, th́ một năm sau thi nhân đă từ giă cơi
đời...”. Có thể
dẫn ra thêm nhiều trường hợp nữa, nhưng
hầu như khi tiếp cận cái thể trạng thơ
ấy, nhăn quan ta thường mơ hồ liên
tưởng, ứng vào từng hoàn cảnh cụ thể
mà suy diễn. Trường hợp Nguyễn Nho Sa Mạc không mơ hồ như vậy, mà
quả là sự “tiên tri” chính xác ứng đúng vào vận
hạn đời anh: “Ở
trên đời vừa đúng hai mươi năm”.
Nhà thơ Luân Hoán - người bạn đồng
thời thân thiết với Nguyễn Nho Sa Mạc kể
lại, xin được tóm tắt như sau: “Vào một buổi chiều tháng
Chạp(1964), chúng tôi (Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Hà
Nguyên Thạch, Đynh Hoàng Sa) đang lang thang ở chợ
Vườn Hoa (Đà Nẵng) th́ Nguyễn Nho Sa Mạc chia
tay với lư do, chuẩn bị tham dự buổi liên hoan
cuối năm của trường Phan Châu Trinh (lúc này
Nguyễn Nho Sa Mạc đang học lớp đệ
Nhất C tại đây). Chia tay với
anh, tôi cảm thấy bứt rứt không yên... Dẫu
vậy, ham vui, tôi vẫn tiếp tục lang
thang cùng Hà Nguyên Thạch, Đynh Hoàng Sa. Đêm hôm
đó cả ba chúng tôi đi dạo rất nhiều
nơi... cùng về ngủ tại nhà Hà Nguyên Thạch...
Mờ sáng hôm sau, th́ Châu Văn Tùng (bạn của cả
nhóm) vội vă đến cho chúng tôi biết, Nguyễn Nho Sa Mạc đang nằm trong bệnh viện
với t́nh trạng nguy kịch. Chúng tôi vội vă vào
thăm anh... Nguyễn Nho Sa Mạc ra
đi trước khi chúng tôi đến nơi. Thi thể
của anh được chuyển xuống nhà xác... Cái
chết của Bửu (tên thật nhà thơ)
được ghi trong hồ sơ vắn tắt
: Mê man, chết. Không nêu ra một căn bệnh nào,
một lư do cụ thể nào, như trúng độc
chẳng hạn...”. Ghi lại lời
kể của Luân Hoán, để hiểu thêm về
điều mà tôi viết ở phần đầu: kẻ
trước người sau đều là những ánh sao bay
xẹt qua bầu trời mang theo cả
sự bí ẩn của cái chết. (Riêng
phần Phạm Hầu xin t́m đọc “Vẫy ngoài vô
tận” NXB Thanh niên 2001). Vẫn theo lời kể
của Luân Hoán, sau ngày Nguyễn Nho Sa Mạc qua đời,
tạp chí Bách Khoa đă dành nhiều trang đặc
biệt đăng thơ của anh, cùng một số bài
tưởng niệm của Thành Tôn và Luân Hoán.
Sớm tŕnh làng thơ ḿnh trên các tạp chí: Bách Khoa,
Văn, Văn học, Mai...( đang lúc
tuổi học tṛ, thế nhưng trái tim thi sĩ
Nguyễn Nho Sa Mạc chừng như vượt qua
khỏi cái thế giới “mắt sáng với môi hồng”,
mà trĩu nặng nỗi buồn, những niềm ưu
tư khắc khoải: “X̣e bàn
tay vốc lên từng hạt cát. Bỗng vô cùng đau xót
ở trong tim. Người lặng
lẽ một ḿnh trong sa mạc. Như
một ḿnh trong tiền sử buồn tênh” (Tự
thuật). Hẳn từ ư niệm đó mà thi sĩ h́nh thành
cái bút danh Nguyễn Nho Sa Mạc như
một độc thoại thường hằng với thân
phận, một hành tŕnh thấm đẫm sự cô
đơn. Mỗi một thi sĩ sinh ra
ở đời đều mang một tố chất,
một tạng thơ riêng (chưa nói đến tư
tưởng, thi pháp, kinh nghiệm can dự vào), nó như
cung bậc định mệnh đeo bám một cuộc
đời thơ, mà nếu đánh mất, anh sẽ
trở thành một kẻ khác.
Bằng
đôi tay ôm kín nỗi buồn
Ta
đi trong trời đất hoàng hôn
Mà
nghe sữa mẹ chan ḥa chảy
Máu
ở buồng tim cũng loạn
cuồng
...
Sông
hỡi là sông! Rừng hỡi rừng
Trăng
lên từ thuở có mùa xuân
Rủ
mây nguyên thuỷ về sinh nhật
Ta
uống cùng em chén rượu mừng
...
Bằng
đôi tay ôm kín mặt trời
Hỡi
ơi khi ở trong ḷng mẹ
Ta
muốn đi cho trọn kiếp người.
(Sinh
Nhật )
Đọc thơ ấy, tôi lại liên tưởng
đến thơ Chế Lan Viên ở vào
cái thời ông “Tôi tiếp
cận trang giấy ngày mười sáu tuổi” (Hồi
kư bên trang viết). Tươi rói hoa niên vậy mà thơ
như kẻ tóc bạc: “Mùa thu
rớm máu rơi từng chút. Trong lá bàng thu
đỏ ngập trời. Đường về thu trước xa lắm lắm. Mà kẻ đi về chỉ một tôi”.
Hăy nghe Hoài Thanh nhận định thơ ấy: “Con người này quả là
người của trời đất, của bốn
phương, không thể lấy kích tấc thường mà
ḥng đo được” (Thi nhân Việt Nam). Một cách nh́n như thế hẳn không phải
v́ cuồng tín mà thành ra mắc tội phiếm thần
(panthéisme), xem cái ǵ cũng thần linh, mà chính là cách diễn
đạt về vô tận, về siêu việt. Sự
liên tưởng của tôi cũng hoàn toàn không phải vay
mượn ánh sáng của người này để ḥng
nhuộm lên kẻ khác, mà là cách quang chiếu để
đi t́m cái khả năng “con
chim th́ ta biết nó bay, con cá th́ ta biết nó lội” (Bùi
Giáng) ở nơi một thi sĩ.
Vậy rồi một ngày bất chợt, con chim
ấy sớm từ biệt bầu trời, con cá ấy
sớm từ biệt biển khơi, Nguyễn Nho Sa
Mạc “Ở trên đời
vừa đúng hai mươi năm”, để lại
sự nghiệp thơ vừa phát lộ đă sớm dang
dở. Nhưng thi sĩ tồn tại ở giữa
đời là sự tồn tại của tác phẩm, dù ít
ỏi, chưa nhiều, Nguyễn Nho Sa
Mạc cũng đă thắp lên cho ḿnh một ánh lửa
lấp lánh trong nền thơ đất Quảng, và
rộng ra hơn là cả đất nước. Gần
nửa thế kỷ, kể từ ngày thi sĩ qua
đời, mới đây những người bạn
hoạt động văn học nghệ thuật
đồng thời với anh hiện đang sinh sống
xa xôi ở nước ngoài, đă tập hợp, sưu
tầm, xuất bản tập thơ “Vàng lạnh” của Nguyễn
Nho Sa Mạc. Với tôi, ngần ấy đă là tiếng
vang ngân sâu lắng. Một thứ âm thanh gióng
lên trên mặt bằng câm lặng của ngôn từ đă khiến
ta có thể nghe ra tiếng nói của một phận
đời, một số phận. Muốn nghe
được âm thanh bí nhiệm đó, nói theo
triết lư nhà Phật, phải dùng cái Nhĩ căn viên thông
để mà nghe. Th́ c̣n ǵ nữa, Nguyễn Nho Sa Mạc từ thuở c̣n phôi thai trong ḷng
mẹ, thi sĩ đă nóí cho ta nghe ra rồi: “Hỡi ôi khi ở trong ḷng
mẹ. Ta muốn đi cho trọn kiếp người” !
Nguyễn
Nho Sa Mạc tên thật là Nguyễn Nho
Bửu, c̣n có bút hiệu: Nguyễn Thị Liên
Phượng. Sinh năm 1944 tại La Qua, Điện Bàn,
Quảng Nam. Mất vào 23 tháng Chạp năm 1964 tại
bệnh viện Đà Nẵng. Thơ Nguyễn Nho Sa Mạc từ những năm 1960 đă
đăng trên các tạp chí: Bách Khoa, Văn học, Mai,
Văn... (Sài G̣n). Gần nửa thế kỷ đă qua,
kể từ ngày thi sĩ qua đời, năm 2007 vừa
qua, tập thơ “Vàng lạnh” của Nguyễn Nho Sa Mạc mới được sưu
tầm, tập hợp và xuất bản.
Nguyễn
Nhă Tiên
(nguồn:
Văn Nghệ Sông Cửu Long)