CHẤT THƠ VÀ Ư ĐẠO

 

Nguyễn Đông Nhật

 

Đọc xong tập sách do họa Phan Ngọc Minh đưa cho vào đầu tháng 6.2009 (*), chợt nghĩ: Hẳn, đă sẽ c̣n nhiều bài viết về tác phẩm này. Tập chuyên luận về Thơ dày gần 500 trang (gồm 26 bài chọn lọc, viết trong khoảng 1963 – 2008), kết tinh của tâm huyết tài năng của một người Việt yêu tiếng Việt, am tường văn học Việt, đă giúp người đọc  hiểu được những điều bản về một nội dung phức tạp:thi pháp; những tác gia Việt Nam từ Nguyễn Trăi qua Tản Đà, đến những thi thời Thơ mới những nhà thơ đương đại như Bùi Giáng, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật. . . Trong một bài giới thiệu sách  (cho phéptối đa dưới 1.000 từ), chỉ xin được nh́n công tŕnh này từ một góc nhỏ : Chất thơ Ư đạo.

 

*

Người làm công việc phê b́nh thơ thường bị đứng trước hiểm họa: viết biên khảo th́ cần ràng”, trong khi, thơ không bao giờ sản phẩmngó thấy biết liền”, , “thơ một ngôn ngữ tự lấy ḿnh làm cứu cánh” (tr. 12), địa hạt gắn con người cũng chia rẽ con người ghê gớm nhất”.  Giải pháp được chọn lựa : tŕnh bày những kiến giải chuyên môn bằng cách viếtnên thơ” , với một ngôn ngữ giản dị. (Giản dị, cái đích cuối cùng của mọi khổ công nghệ thuật). Ư thơ, chỗ đó. . .

 

*

Tỷ như, viết về Huyện Thanh Quan, chưa ai nh́n thấysự e nôn nả trong người phụ nữ muôn nơi muôn đời” (tr.132) ở giọng thơ vốn được đóng khung trong cái nh́n quen: cổ kính, trang nhă. Ấy , khi kết thúc bài viết về nhà nhân chủng học Claude Le’vi Strauss, “chợt nhớđến nhà ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn :Cái thân th́ cũng xa, khi xót xa” (tr.39). Cách nói đầy chất thơ như thế trong suốt tập sách.

Từ nhận thức rằng, “thơ ca một thành tố tất yếu năng động của nhân lọai” (tr.67), tác giả đă đi đến một định nghĩa thấu đáo về thơ: “Câu thơ hay một thóang trần gian” (tr.62).

Đến đây, th́ không c̣n chuyện văn chương nữa, đă chuyển sang lĩnh vực triết học : Thơ như một nỗ lực vươn tới mối tương quan giữa người với người, giữa người thế giới. ( đấy mới thơ thật”). Bởi , không nên t́m kiếmthơ những cái đă sẵn của ngọai giới, Bởi , thơ một thế giới riêng, đểgặpđược , người đọc phải t́m cách thâm nhập trạng thái tâm hồn của tác giả trong khi sáng tạo bài thơ.

 

Đây một khát vọng mang tính tưởng, đồng thời, lại một ước muốn màu sắc . . . bi kịch. như, kết thúc bài viết về Nguyễn Trăi, nhà phê b́nh đă chạm tới sự Hiểu - Ngộ này :Tôi chỉ ân hận chưa điều kiện viết sâu hơn. Nhưng nghĩ cho cùng, những mối t́nh lớn trong đời ḿnh, sống, sống c̣n chưa trọn. Nói, nói làm sao nói hết” (tr.116).

Hay như, khi viết về L. Strauss, Đặng Tiến nói :Levi Strauss một kẻ ḥai nghi” (tr.37). E rằng, đó chỉ cách nói quen, bởi, tiếp liền, trích dẫn Strauss : “. . . muốn sống, phải làm như sự vật ư nghĩa; đó triết tạm bợ của cuộc đời, nhưng triết cấp 2. . .”. Vậy, triết .  . . cấp 1 , nếu không sự thăng hoa tâm linh? L. Strauss không ḥai nghi (cả ĐT cũng vậy). Nói ḥai nghi, th́ chỉ sự ḥai - nghi - cần - thiết, để dẫn đến nhận thức: Không một giá trị nào măi măi không thay đổi. Cụ thể hơn : từ một lọai thể thơ cổ, tác giả trực cảm được qui luật của trụ ( “Phải chăng, cả trụ được tổ chức theo biền lệ”-  tr.70). Cái Ư Đạo nóiđọan trên, không phải niềm tin hay nhận thức tôn giáo sựchạm tớinhịp điệu của Ḍng Sống : những Khả Hữu Bất Khả. , nghệ thuật nỗ lực của con ngừoi nhằm biến cái bi kịch thành cái Đẹp. Phê b́nh thơ, như thế, đăvượt biênchức năng chuyên môn. Để giúp con người đến với nhau nhiều hơn. . .

 

*

Mộtlục lọiđáng chú ư: định giá lại Đinh Hùng, thi bị bỏ quên lâu nay : qua đời đă 43 năm, ngày nay, đọc lại, thơ ông vẫn c̣n những ngơ ngách chưa khám phá hết.

mộtnêu rakhác : Nụ cười trong đôi mắt sáng của Ḥang Trúc Ly. (. hơinghiêngt́nh cảm về thi này: Trong một số câu thơ của HTL, ngôn ngữ không được độ bền cao. . .

 

*

Thêm một chút ghi chú cần thiết cho lĩnh vực phê b́nh văn học :Văn chương tưởng hiu hắt những biểu đồng t́nh, bùng cháy nhờ những bất đồng ư. . .(tr.78). Câu này, được viết vào năm 1970. Bây giờ, vẫn đúng. Sẽ c̣n đúng.

 

*

Bài giới thiệu sách này một việc làm. . . ích : những lời ngắn nhỏ, truớc một công tŕnh rộng. Vậy nên, mượn ư đă viết hơn 20 năm trước : nói về thơ bao nhiêu cho đủ / hăy cho thơ tự nói lời thơ  để . . . chấm hết: “Thơthi pháp chân dung” tiếng nói ấm chân t́nh, đa thanh. , độc lập.

, dẫu cholời nói rồi cũng phôi pha” (tr.146), nhưng, tin vui: nghe đâu, sách sắp được tái bản?

 

N.Đ.N

25.6.2009

 

 

 

 

 

(*): Thơthi pháp chân dung - Đặng Tiến - NXB Phụ Nữ - quư I/2009.