Bài phỏng vấn nhà thơ Đặng Hiền

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tạp chí The poet society of Asian đă thành được 9 năm và trở thành tờ tạp chí chuyên về thơ, thu hút nhiều nhà thơ của Châu Á tham gia. Tôi cùng với các độc giả Hàn Quốc xin chân thành cảm ơn ông đă gửi tác phẩm của ḿnh cho tạp chí vào số mùa thu. Tôi mong rằng hôm nay chúng ta sẽ có một buổi nói chuyện thật thoải mái và vui vẻ.

 

1.Đà Nẵng là một tỉnh thuộc miền trung của Việt Nam và trong thời ḱ chiến tranh Việt Nam đây cũng là nơi đóng quân của quân đội Hàn Quốc. Vào khoảng hơn 10 năm trước một nhà văn Hàn Quốc là Hoang Seok Yeong bằng tác phẩm của ḿnh, thông qua tác phẩm là “Chiếc bóng của vũ khí” đă ngỏ lời xin lỗi về quá khứ đă từng tham chiến ở Việt Nam. Theo tôi được biết nhà thơ Đặng Hiền đă theo học cấp 3 ở Đà Nẵng và quê hương của nhà thơ cũng ở rất gần Đà Nẵng. Vậy thời đó nhà thơ đă có suy nghĩ như thế nào về sự hiện diện của quân đội Hàn Quốc?

 

-Tôi sinh ở Hoà Vang, Quảng Nam, quận Hoà Vang sát bên thành phố Đà Nẵng. Suốt tuổi thơ, tôi được ba má tôi gởi ở nhà bà ngoại nơi thành phố để đi học bởi làng tôi ở ven sông Hàn, gịng sông chảy ngang thành phố Đà Nẵng. Một điều giản dị là v́ lúc nhỏ tôi rất mê biển cả và hay đi theo những người công nhân của gia đ́nh tôi đi đánh cá ngoài biển khơi trong mùa hè, nhưng ba má tôi muốn tôi đi học và hấp thụ đời sống văn minh của dân thành phố v́ làng tôi lúc đó vẫn chưa có điện. Khi vào Trung Học tôi lại được về nhà sống với gia đ́nh. Nhưng thời ấu thơ sống ở nhà Ngoại là một dấu ấn khó phai trong tâm hồn tôi. Quê hương tôi là Quảng Nam Đà Nẵng, người dân ở đây hiền hoà, Hà Nội là nơi nào đó cấm kỵ xa xôi, Sài G̣n là chốn phồn hoa mơ ước. Chiến tranh xảy ra trên quê hương tôi cùng khắp, người phía nầy người bên kia. Sự phân hoá và thù hận vượt ngoài t́nh cảm của gia đ́nh, bởi một lư tưởng nào đó chừng như cao đẹp nhưng thật ra chỉ là sự lầm lạc của con người trong một nước nhỏ ở Á Châu như nước Việt Nam. Trở lại câu hỏi của anh là nghĩ ǵ về sự hiện diện của quân đội Hàn Quốc trong thời gian ấy. Thật ra, với tấm ḷng ngây thơ của tôi lúc ấy, tôi rất ghét chiến tranh, những người lính nước ngoài ở quê hương tôi, họ là cái ǵ đó xa lạ, là biểu hiện của sự ác, của chết chóc và huỷ diệt yên b́nh. Gia đ́nh chú tôi chết hơn một nửa v́ trái đạn pháo kích của người Cộng Sản và bà Nội tôi cũng bỏ ḿnh trong trận pháo kích ấy. Lúc đó tôi c̣n quá nhỏ để biết thế nào là chiến tranh. Riêng quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam tôi được nghe đó là sư đoàn Thanh Long Bạch Hổ, rất kỷ luật và thiện chiến. Nhưng thỉnh thoảng gặp những người lính này tôi thấy họ b́nh thường chỉ khác người Việt là không gầy g̣ và đặc biệt là đôi mắt một mí ấn tượng, khác với các nam nữ diễn viên tuyệt đẹp ở trong các phim ảnh Hàn Quốc ngày nay.

 

2. Cũng theo tôi được biết nhà thơ đă học, tốt nghiệp trường đại học Long Beach, Califonia, Mỹ và sống tại Mỹ từ năm 1979 tức là từ lúc nhà thơ 21 tuổi .Vào năm 1975 Việt Nam được giải phóng, sự kết thúc của cuộc chiến tranh Việt Nam cũng là sự thất bại lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở nước ngoài. Vậy nhà thơ có thể cho tôi và độc giả biết lư do tại sao nhà thơ lại sống ở Mỹ?

 

-Vào năm 1975, Việt Nam chấm dứt cuộc chiến tranh gần 30 năm. Chiến tranh kết thúc trước khi tôi đến tuổi đi lính, dĩ nhiên tôi sẽ không có sự chọn lựa. Cuối tháng Tư 1975 gia đ́nh tôi đang ở Vũng Tàu, ba tôi quyết định trở lại Đà Nẵng v́ đất nước đă hoà b́nh rồi. Nhưng như bao người khác, ba tôi bị đi tù ba năm chỉ v́ có dính líu đến một đảng chính trị ở Miền Nam Việt Nam. Cũng trong thời gian nầy tôi thấm thía thế nào là sự cần thiết của người đàn ông trong gia đ́nh. Quê hương tôi có bao gia đ́nh thiếu mất người đàn ông v́ chiến tranh. Tôi tiếp tục học năm cuối cấp ba và thi tốt nghiệp, tôi đậu. Nhưng sau đó không đại học nào nhận tôi vào, v́ lí lịch quá xấu, gia đ́nh tư sản, cha bị tù cải tạo. Ở một đất nước đă “giải phóng” mà tôi xin làm chân thợ phụ hồ ở công trường xây dựng nhà máy xi măng cũng khó khăn mặc dầu đầy đủ sức khoẻ, xin làm thẻ chứng minh nhân dân cũng không được. Không như các con của tôi bây giờ, chúng có thể tiến xa trên con đường học vấn mà không cần phải tra xét lư lịch. Con gái đầu của tôi vừa tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa năm rồi, đứa con trai kế đang theo học Cao học Điện toán, đứa con gái thứ ba sắp tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa, và niềm hạnh phúc là tôi có đứa con trai út vừa vào học lớp hai. Có lẽ đây là lư do tôi chọn Mỹ làm quê hương thứ hai của ḿnh.

Vào năm 1978 ba tôi được tha về, v́ tương lai của các con nên ông đă liều lĩnh đưa cả nhà vượt biển năm 1979. Trước khi vượt biên tôi đă cưới vợ, đây là điều làm má tôi hài ḷng nhất, bà thường nói nếu gia đ́nh tôi vượt thoát vào 1975 th́ làm ǵ bà có được cô con dâu hiền như thế, vợ tôi là người đàn bà tuyệt vời, là mẹ của bốn đứa con tôi sau này. Khi ở trại tị nạn Hongkong, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phỏng vấn gia đ́nh tôi trước khi chuyển sang cho phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Gia đ́nh tôi đă chọn tiểu bang California. Gia đ́nh tôi là một gia đ́nh may mắn trong hàng triệu người VIỆT NAM liều ḿnh bỏ nước ra đi bằng đường biển, bằng đường bộ. Biết bao cảnh bi thương, nói sao cho hết. Trong lịch sử dân tộc tôi, thời điểm này là lần đầu tiên nhiều người bỏ nước ra đi như vậy. Tất cả chỉ v́ tự do, v́ quyền sống căn bản của con người. Việt Nam với ba mươi năm chiến tranh, hai miền Nam Bắc có hơn triệu người chết và thương tật, đất nước bị tàn phá tận cùng, và ḷng hận thù khó nguôi của các giai tầng xă hội. Chúng ta biết rằng chế độ chính trị nào rồi cũng qua đi, nhưng dân tộc th́ trường tồn, và lịch sử được viết bởi dân tộc vẫn c̣n măi măi. Người Mỹ thua trên nguyên tắc cuộc chiến Việt Nam với bức tường đá đen ghi tên hơn 58 ngàn tử sĩ, chính quyền và quân đội Miền Nam đă ră ngũ từ năm 1975, nhưng nhân dân Mỹ là một dân tộc văn minh và nhân ái. Xă hội Mỹ đă mở rộng ṿng tay đón nhận và tạo cơ hội phát triển cho mọi người, không riêng ǵ người Việt Nam, tôi thấy cộng đồng Hàn Quốc của các anh ở xứ nầy cũng rất giầu mạnh. Đất lành chim đậu anh ạ.

 

3. Tại sao nhà thơ lại chọn văn học để bắt đầu sự nghiệp của ḿnh? Bởi v́ ai? Khi nào? Mong nhà thơ hăy nói cho chúng tôi được biết cái lư do lựa chọn của nhà thơ.

 

- Tôi c̣n nhớ vào năm 1972, Việt Nam là thời kỳ Mùa Hè Đỏ lửa. Chiến tranh trở nên khốc liệt. Năm ấy tôi đang theo học trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Những người chạy loạn từ Quảng Trị và Huế tràn vào Đà Nẵng lánh nạn, trường tôi phải dùng làm nơi cư ngụ cho nạn nhân chiến tranh. Trước khi đóng cửa nhà trường tổ chức lễ phát thưởng cho giải văn chương và báo chí năm đó. Tôi hân hạnh được nhận giải truyện ngắn hay nhất trong năm. Truyện kể một t́nh bạn thuần khiết của hai đứa trẻ nhà nghèo, chia cho nhau từng viên kẹo từng lát cà chua ướp đường. Sau đó một đứa phải theo gia đ́nh dọn đi xa. Buổi chia tay, đứa bé c̣n ở lại chạy bộ theo chuyến xe một đoạn, khói xe mịt mù, buồn ngẩn ngơ, cứ đứng nh́n theo chuyến xe đưa bạn xa tít biến mất ở cuối đường. Nếu tin con người có số, tôi tin điều đó, tôi xin cảm ơn các vị thầy cô dậy tiểu học và dạy môn Việt văn trung học mà tôi đă may mắn được học qua. Đó chính là những ân nhân đă gieo mầm và dậy dỗ cho tôi yêu tiếng Việt và để tôi là tôi của bây giờ.

 

4. Mong nhà thơ giới thiệu cho chúng tôi được biết thêm về tạp chí “Hợp Lưu” đang được phát hành hai tháng một lần ở Mỹ. Ai sáng lập và được sáng lập khi nào? Thành viên của nhóm biên tập gồm có những ai? Và tiêu chí là gi? Các độc giả rất mong nhà thơ có thể tặng cho các độc giả một số bức ảnh quê hương của nhà thơ lúc nhỏ, hiện tại và cùng với một số các bức ảnh gia đ́nh.

 

-Tạp Chí Hợp Lưu là một tạp san văn học nghệ thuật biên khảo, được sáng lập bởi một nhóm văn nghệ sĩ vào năm 1990, phát hành hai tháng một lần. Người chủ nhiệm sáng lập là nhà văn Nhật Tiến, chủ biên sáng lập là hoạ sĩ Khánh Trường. Vào tháng Tám 2002, tôi được mời vào Hợp Lưu với tư cách Tổng Thư Kư, và sau đó đến đầu năm 2005 trở thành Chủ Biên. Tôi vẫn giữ công việc nầy cho đến hôm nay. Những văn thi hữu chủ lực của Hợp Lưu là sử gia Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu, Nhà phê b́nh văn học Thụy Khuê, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Phạm Hùng, nhà văn Phan Nhật Nam, Trần Vũ, Trần Thiện Đạo, Nguyễn B́nh Phương... cùng một số các thi văn hữu trong và ngoài nước. Tạp chí Hợp Lưu là một diễn đàn văn chương, cho tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, giới tính, không kỳ thị Bắc Nam, Trong Ngoài, ư thức hệ hay quan điểm chính trị. Nó sẽ tiếp tục đường đi đă vạch sẵn bấy lâu: đó là thủ diễn vị thế một diễn đàn phục vụ nghệ thuật, văn chương. Tạp chí Hợp Lưu không có tham vọng chính trị, không tự khoác những nhiệm vụ to lớn và hoang tưởng. Tham vọng duy nhất của chúng tôi là duy tŕ TCHL như một diễn đàn hoàn toàn độc lập, vượt ngoài sự chi phối hay khuynh đảo của bất cứ thế lực nào.

 

Tôi xin gởi đến quí vị một số bức ảnh theo như yêu cầu.

 

( 9 tấm h́nh)

 

 

5. Trong bài thơ “Xa quá quê ơi” của nhà thơ có xuất hiện h́nh ảnh những chiếc xe máy. Tôi lần đầu tiên đến Việt Nam, đă rất ngạc nhiên khi tận mắt chứng kiến h́nh ảnh những chiếc xe máy ở Việt Nam. Và tôi cũng bị đau họng v́ khói xe máy. Tuy vậy bây giờ tôi rất muốn được quay lại Hà Nội và cũng rất muốn lại được ngắm h́nh ảnh những chiếc xe máy đó. Đây là một số những câu thơ trong bài thơ này “Đà Nẵng” . Bằng vần điệu của các câu thơ th́ h́nh ảnh của Việt Nam được nổi lên một cách rất Việt Nam , đó là thông qua h́nh ảnh chiếc xe máy. Có lẽ điều này là một kỉ niệm về quê hương, đất nước thông qua một cái nh́n trực tiếp mang tính phủ định. Là sự kháng cự, là sự ô nhiễm. đối tượng sẽ cần phải giải quyết hay là đối tượng sẽ phải thúc đẩy?

 

-Đó là lần đầu tôi về lại Việt Nam sau 20 năm, vào cuối năm 2000, với tư cách của một thành viên trong phái đoàn thương mại Việt Mỹ. Hà Nội, Đà Nẵng rồi Sài G̣n, đâu đâu cũng xe máy, khói mù mịt cùng với những bụi mù của các công tŕnh xây cất. V́ đi chung với phái đoàn nên chúng tôi thường đi xe ca chở nhiều người giống như xe bus nhỏ ở Mỹ để di chuyển.Thú thật lúc ấy đầu óc tôi như tê dại, tôi là người Việt lại không phải Việt, tôi là người Mỹ lại không phải Mỹ. Không tin ai hết, tất cả đều đầu môi chót lưỡi, dùng một thứ ngôn ngữ ngoại giao, nói cho vừa ḷng nhau. Lúc ấy, Việt Nam về kỹ nghệ tin học c̣n yếu lắm, trong tấm danh thiếp của trợ lư bộ trưởng kinh tế lại dùng địa chỉ hotmail. Như một chuyện khôi hài khi đại diện của một công ty vi tính tại Hà Nội lên thuyết tŕnh về kế hoạch đưa công ty này vào thị trường chứng khoán Mỹ. Vào đến Sài G̣n người lại đông kinh khủng hơn. Sài G̣n có những cơn mưa buổi chiều buồn và tàn nhẫn. Sau đó về Đà Nẵng không khí dễ chịu một chút, nhưng lạ quá, ở đó đến ba ngày tôi vẫn mất hướng một góc chợ quen. Tối nằm một ḿnh ở nhà ba má tôi mới về mua ở biển Thanh B́nh, Đà Nẵng, nghe tiếng lá dừa xào xạc, ánh trăng lấp loáng, không khí ẩm mùi mặn của biển, đêm không gia đ́nh, cha mẹ, anh em, vợ con. Tôi hoang mang như hơn 20 năm trước nằm trốn dưới khoang tàu để đi vượt biên. Thật ra tôi đă sống ở Mỹ nhiều hơn thời gian tôi ở Việt Nam. Tôi đă thay đổi chứ quê tôi không đổi thay. Người ở đây vẫn thế, cam chịu, nhịn nhục thân phận bọt bèo, t́nh yêu là tṛ xa xỉ, thân phận chúng tôi mang h́nh ảnh của những đàn kiến... ngồi trên xe máy, cùng với những bức không sơn và những cơn mưa thầm lặng trong xă hội Việt Nam.

Rồi mới đây vào tháng 5-2009 tôi lại về Hà Nội, Đà Nẵng, Sài G̣n, nhưng với tư cách là người về thăm gia đ́nh. Lần nầy dễ chịu hơn v́ được gặp một số bạn văn thơ trong nước. Văn chương thường làm cho con người gần và thông cảm nhau hơn. Đó là món quà quí giá tôi có được trong chuyến đi vừa rồi. Nhưng xă hội Việt Nam lại có những vấn đề khác nhức nhối hơn, trong khi những vấn đề cũ vẫn c̣n đấy. Tôi cảm tưởng Việt Nam phát triển như đứa bé lớn nhanh quá, cột xương sống bị chệch, cần phải chỉnh sửa lại mới sống khoẻ mạnh. Việt Nam có một loại trật tự thật đặc biệt, tự điều chỉnh để sinh tồn. Từ những những kiến trúc tự do đến vô trật tự của phố cổ Hà Nội, nơi gần hồ Gươm, đến những công tŕnh đào núi lấp biển tại Đà Nẵng cùng những dăy khách sạn 5 sao dọc băi biển Mỹ Khê, những “lô cốt” chận đường để cải tiến hệ thống thoát nước từ nhiều năm tại thành phố Sài G̣n. Rồi đến tự do ngôn luận và báo chí như một giấc mơ không bao giờ có thật, mặc dầu nhân loại đă bước vào thiên niên kỷ mới và Việt Nam đă hội nhập vào WTO. Tất cả những ghi nhận ấy đều nằm trong những bài thơ tôi gởi cho anh mới đây. Tôi xin đọc bài thơ nầy:

 

Trật tự mới trong bài luân vũ điên

 

Mất xa em những h́nh ảnh cũ mềm ẩn hiện

Căn pḥng ẩm mồ hôi miền nhiệt đới

Danh vọng là tṛ đùa thân xác mệt lả cùng những cơn ho vật vă

Chiều tan nhanh theo trăng tháng năm đứng đường

 

T́nh cảm ô nhiễm bốc lên từ lon bia ngoại

Kỹ thuật cao ru phận đớn hèn

Ôi chao em, ḍng nước xe buổi tan tầm

Tôi trôi lềnh bềnh trong văn hoá nhậu

 

Đào núi lấp biển có thêm hạnh phúc

Giọng nói thơm mùi mạ năm xưa

Trưa nắng từng góc phố ngủ ngồi

Mùa hè sớm hơn nơi phồn hoa miệt thị

 

Mang theo quán cơm bụi ngàn năm văn vật

Cướp chó bên chiều nhậu Hồ Tây

Ấn tượng nền văn minh treo cổ Sadam

Em tôi Ô sin khi mới lên mười

 

Sài g̣n mập một cách giả vờ

Tôi chỉ in có 49 cuốn thơ

Làm sao mở miệng trong thế giới điếc

Thành phố tự hào có mùi cống rănh

 

Chiều Hồ Gươm, đứng bên Hồ Gươm

Nắng mưa giao mùa nơi trái tim trong trái tim

Trơ trẽn như cơn mưa chưa lên câu khẩu hiệu

Tất cả trật tự, tự điều chỉnh để sinh tồn, lạ ghê.

 

ĐẶNG HIỀN

Việt Nam - California 5-2009

 

 

6. Trong bài thơ “ Có lẽ ” dường như nhà thơ có một nỗi buồn mà ngay cả nhà thơ cũng không thể diễn tả được nó và cũng không thể tránh né nó được. Nhà thơ như đang chạy việt dă một ḿnh trong thế giới tinh thần của ḿnh. Nhà thơ đang muốn thoát ra khỏi thế giới đó. Nơi đó giống như một vùng núi rộng lớn. Trong bài thơ có câu “không ai yêu em”. Ở đây nhà thơ muốn một t́nh yêu ǵ? Nếu có thể được mong nhà thơ giải thích cho chúng tôi biết về tâm trạng của nhà thơ khi viết những câu thơ này? Sự phản bội của cuộc sống, sự tuyệt vọng của cuộc sống. Kết cục câu hỏi “ Có lẽ sống ở nước ngoài nhiều năm?” có vẻ là không chân thật . Trong bài thơ này lời mà tác giả muốn nói lên là ǵ? Bản chất cái bĩ cực của nhà thơ Đặng Hiền là cái ǵ?

 

-Khi nhỏ v́ sống xa nhà, tôi sớm biết tự lo cho ḿnh. Ở thành phố tôi hay bị chế diễu là dân biển, về làng th́ bị chọc là thằng đi theo dân thành thị, nên lúc nhỏ tôi hay đánh lộn với những đứa bé khác, nhưng thường thường bị thua, về nhà lại không dám khóc, khóc là bị ăn đ̣n. Khi lớn lên hoàn cảnh đă bứng tôi ra khỏi quê hương tôi. Một chiều gần cuối năm đi qua vùng rừng núi California, cái mênh mông hùng của những dăy núi, màu ráng đỏ của hoàng hôn làm tôi bần thần, những năm đó tôi chưa có dịp về lại Việt Nam. Không như bây giờ sự cách chia về địa lư đă giảm đi nhiều, có tiền mua vé máy bay mười mấy giờ sau là về ngay Sài G̣n...

Bài “Có lẽ” hơi đặc biệt một tí về ẩn dụ và đối tượng thơ. Tôi dùng h́nh ảnh một thiếu nữ để bày tỏ t́nh yêu thương của ḿnh đối với mảnh đất mà tôi đă được sinh ra và lớn lên, được dậy dỗ bằng những bài học thương yêu và ḷng nhân bản. Xă hội miền Nam tôi sống lúc đó mặc dầu trong chiến tranh, nhưng trẻ em không bao giờ bị nhồi nhét những bài học cho ḷng thù hận. Chúng tôi được học những bài học lịch sử đấu tranh trong mấy ngàn năm của những vị anh hùng đưa dân tộc Việt thoát khỏi ách nô lệ của người khổng lồ phương Bắc. Dù đầu óc non nớt lúc ấy những đứa trẻ như chúng tôi vẫn biết rằng, một lúc nào đó chiến tranh sẽ qua đi và đất nước sẽ thống nhất. Đến khi đất nước thống nhất rồi th́ những đau thương khác tiếp nối. Tôi chỉ là một phần tử quá nhỏ nhoi trong gần 3 triệu người Việt lưu lạc ở hải ngoại, định cư ở nhiều quốc gia trên thế giới. Dĩ nhiên chúng tôi mang ơn tấm ḷng nhân ái của các dân tộc khác đă cưu mang chúng tôi, cho chúng tôi một đời sống tự do thật sự. Riêng tôi, nơi sâu thẳm của hồn ḿnh, thật sự tôi không thấy ḿnh thuộc về đâu, Mỹ ư? Tôi chỉ là loại Mỹ giấy. Việt ư? Tôi không thuần Việt, v́ tôi ở nước ngoài nhiều năm, tôi sống tự do quen rồi. Vậy anh cho tôi biết đi, tôi thuộc về đâu? “Không ai yêu em” là vậy, là t́nh yêu quê hương. Trong cái tâm trạng vơ, quê hương thắm thiết như t́nh vợ chồng, bao dung như t́nh mẹ con. C̣n bỉ cực nào hơn khi cảm thấy thân phận ḿnh gần như vô thừa nhận đó.

 

7. Trong câu thơ “Chiều cuối năm với người bạn già” . Giống với một câu thơ trong bài thơ “ Ngày xanh” của nhà thơ Seo Cheong Chu của Hàn Quốc. Nh́n những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn và anh ấy hát “ Ngày xanh th́ hăy nhớ những người bạn” . Trong bài thơ này nỗi buồn trong bản thân mỗi người sống sót là ǵ? Câu cuối của bài thơ “Xanh một mùa rét căm” có ư nghĩa ǵ?

 

-Bài này tôi làm để tưởng nhớ nhà văn Mai Thảo được đăng trong Hợp Lưu số 100, số tưởng niệm đặc biệt về nhà văn nầy. Ông ấy là thế hệ trước tôi, chịu nhiều đau thương hơn thế hệ của tôi v́ những biến động đổi thay của Việt Nam. Quen biết ông qua những bài thơ tôi gởi đến đăng ở tạp chí VĂN, mà ông ấy là chủ bút. Ở Mỹ nhưng ông khước từ hội nhập vào xă hội nơi đây. Và cũng qua ông, tôi cảm được nỗi vô thường và cô đơn của đời người. Khi mà quê hương đă chợt mất, bạn bè đă ly tán, kẻ mất người c̣n, gia đ́nh không có, sống thui thủi một ḿnh, cô đơn như ngọn hải đăng hiu hắt, sống cùng rượu, chờ chuyến xe cuối cùng để về cơi vĩnh hằng. Thi thoảng được uống rượu cùng ông, tôi thường nghe ông kể về đời sống của ông ở miền Bắc khi xưa, ở Sài G̣n thời cực thịnh về văn chương miền Nam, về chiến tranh và những người bạn, những người bạn đă chết, và những người bạn c̣n sống đang lưu lạc ở xứ người. Và ông hay ngâm thơ của họ, bạn ông là những nhà thơ lừng danh của Việt Nam, là thi sĩ Vũ Hoàng Chương, là thi sĩ Đinh Hùng, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền... Với ông, h́nh như thời gian đứng lại, măi măi ở Nam Định, ở Hà Nội ở Sài G̣n. Hồn ông ở đấy.Tuyệt nhiên, ông không hề nhắc đến t́nh yêu, bởi thế “Xanh một mùa rét căm” là vậy, là sự cô độc đến tận cùng trong một chiều cuối năm ở một nơi không là quê hương, một nơi không có dĩ văng.

 

8. Trong bài thơ “Mưa Đà nẵng” , như người ta thường nói tất cả thơ của nhân loại là thơ của sự thất lạc. Mưa đang rơi , câu thơ “Ngang nhà em ḷng buồn rưng rức” Đă vẽ lên điều ǵ? Giáo sư Bae Yang Soo đă biên dịch rất hay, đă nắm được cái hồn của nhà thơ trong bài thơ, đôi mắt hiền và mơ màng của nhà thơ Đà Nẵng đang ước hẹn và chờ đợi ǵ? “Nụ cười em tôi lặng lẽ đi t́m” . Em ở đây là ai?. Là Đà Nẵng hay là Việt Nam hay cũng có thể là một người con gái.

Tôi rất xin lỗi khi đă đặt những câu hỏi khó giải thích với nhà thơ.

 

-Anh là nhà thơ, hơn ai hết anh hiểu tôi. Thơ là thơ, thơ yêu nước hay thơ yêu em cũng chỉ là thơ. Khác nhau là HAY hoặc KHÔNG HAY. Thơ là từ trái tim mà ra, thơ nếu đúng nghĩa khó có ǵ theo kịp. Thơ chỉ NHẠT khi nào tác giả không sống thật với chính ḿnh và viết toàn những câu giả dối sáo ngữ. Tuy nhiên, thơ t́nh thường là riêng tư, trong thế giới riêng tư đó, tác giả đánh thức người đọc bằng trái tim của chính ḿnh, bằng tài năng và t́nh cảm trải lên những câu những đoạn của thơ. Vâng, Giáo sư Bae Yang Soo biên dịch thật tài t́nh, theo tôi đó là sự may mắn cho thi ca của hai nền văn hoá Việt-Hàn. Những cơn mưa Á châu thường dai dẳng và ảm đạm. Những thành phố miền Trung Việt Nam rất tĩnh lặng và buồn. Bài “Mưa ở Đà Nẵng” viết vào năm 1994, in trong tập thơ đầu của tôi. Đà Nẵng trong tôi là những h́nh ảnh khi chưa ra đi. Ra đi, chia ly, thất lạc và nỗi nhớ đă làm nên thơ; ngày cũ, chốn xưa cùng với những người con gái tôi quen thời tuổi trẻ, trong đó có cả vợ tôi, và những cơn mưa, hoà vào nhau là một, th́ ra đó là quê hương anh ạ. Trong lần về lại Việt Nam lần thứ hai vào năm 2009, tôi có viết một bài thơ cũng về Đà nẵng. Hai bài thơ đều viết về Đà Nẵng nhưng thời gian và tâm cảnh đă khác, xin gởi đến anh và quí độc giả bài thơ nầy:

 

Bài Viết Lại ở Đà Nẵng

 

Ở đây mùa trốn mất theo những cơn mưa dài trong đêm

Thời gian hụt mất cơn say sâu ngang vết nhăn nụ cười buồn bă

Tuổi trẻ trôi xa theo nhau ngày cũ

Thành phố mưa

 

Không c̣n lá tương tư tuổi nhỏ

Không c̣n những chuyến đ̣ xưa

Đêm bỗng thất thường như mưa

Con nước có về theo chiều của nhau không ?

 

Trên đường ṃn mênh mông trí nhớ

Cơn mưa chạy hoài theo vết xe xa thành phố

Cơn mưa ở măi cùng anh từ buổi chia tay

T́nh không là t́nh của năm xưa

Khi ta đôi mươi qua thời thay đổi

 

Biết đến bao giờ trở lại

Đêm mơ như nước sông chảy xuôi về biển yêu thương

Và mùa chừng trốn mất nơi đây

Lạnh theo mưa...

 

ĐẶNG HIỀN

Đà nẵng-5-2009

 

 

9- Câu hỏi cuối cùng.

 

Nhà thơ sẽ tiếp tục sống tại Mỹ? Và cũng sẽ chết tại đó? nếu không th́ xin nhà thơ cho độc giả biết nhà thơ có ư định trở lại Việt Nam hay không? Nhà thơ sẽ tiếp tục sống ở California và sẽ tiếp tục sáng tác thơ? Sự thất lạc và nỗi nhớ có làm nhà thơ quay về Việt Nam không?

 

-Thành thật mà nói, ngoài Việt Nam ra, Mỹ là quê hương thứ hai của tôi, tất cả cuộc đời tôi đều ở đây. Rất may mắn cho tôi và cho thế hệ của chúng tôi không phải gánh nặng ḷng thù hận của quá khứ. Không bị mù quáng v́ tuyên truyền. Bạn bè của tôi ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng cha mẹ, vợ con, anh em, công việc hầu như tất cả đều ở Mỹ. Vậy tôi không ở California th́ tôi ở đâu hả anh? Hơn nữa con trai út của tôi mới bảy tuổi, tôi biết cháu nó rất cần tôi. Chuyện sống chết có số mạng làm sao ḿnh quyết định sẽ chết ở đâu? Tôi đang thuyết phục vợ tôi cùng tôi về thăm Việt Nam trong lần tới, cô ấy xa Việt Nam 30 năm rồi chưa trở lại. Theo tôi th́ dù sống xa quê hương nhưng lúc nào cũng hướng về vẫn tốt hơn là ở tại Việt Nam mà ḷng không ở đó. Riêng tôi, thơ vẫn là niềm đam mê và cần thiết như hơi thở cho sự sống, tôi luôn yêu thơ bằng chính trái ḿnh.

 

Đầu mùa thu năm 2010 chúng tôi dự định tổ chức hội ngâm thơ Châu Á và cũng dự định mời những nhà thơ đang sống ở Việt Nam. Hẹn gặp lại nhà thơ vào một ngày gần đây.

 

Chân thành cảm ơn nhà thơ về buổi phỏng vấn ngày hôm nay.

 

Go Hyeong Ryeol / nhà thơ, Tổng biên tập tạp chí Thi B́nh.