NHỎ  NHOI  HẠT  BỤI

 

Đọc thơ Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư

Người đọc Khuất Đẩu

 

Tôi mượn bốn chữ rất dễ thương nọ để làm tiêu đề cho bài viết này. Không phải v́ bài viết dễ thương mà v́ tập thơ Đan Tâm dễ thương như con gái một tuổi của anh.

 

Nằm im giữa trái tim ta

Nhỏ nhoi hạt bụi tên là Các Khuê.

 

Tôi chưa hề gặp anh, nhưng có lẽ anh cũng nhỏ nhoi cả trong dáng h́nh và lời ăn tiếng nói. Có nhiều người làm thơ khóc con, nhưng hoặc là bi luỵ quá hoặc sáo ngữ quá, nên tiếng khóc chỉ làm ta giật ḿnh chứ không xúc động.

 

Nằm chơi dưới một hàng cây

Lao xao lá, lá thơ ngây chuyện tṛ

Nằm thanh thản một nấm mồ

Hồn nhiên cỏ, cỏ thơm tho hơi người

Hồn nhiên bao tiếng khóc cười

Tan vào ḷng đất thắm tươi linh hồn

Hoà vào màu cỏ xanh non

Bay vào mây khói chiều hôm quê nhàø

 

Cùng năm sinh cùng năm mất. Ngắn ngủi quá, mong manh quá. Nhưng qua những câu thơ trong trẻo ta thấy bé vẫn c̣n sống măi giữa hoa cỏ đất trời, sống măi trong tim người cha cũng như trước kia đă từng sống trong ḷng mẹ.

Nhưng khóc cho một mối t́nh th́ lại khác, chẳêëng phải khác v́ người dưng mà v́ đời nông t́nh cạn/ ta bơi qua sông/ mới hay đời nặng.

 

Chảy đi chảy đi

Hỡi sông buồn lắm

Nước thôi chờ chi

Thuyền xưa đă đắm

Ngươi đi người đi

Trăm năm bến vắng

 

Chảy mau chảy mau

?ời: con nước siết

T́nh: vực nước sâu

Em: ḍng ly biệt

Ta chiếc lá ch́m.

 

Rất nhẹ nhàng, rất kín đáo nhưng cũng rất sâu xa thắm thiết.

Một người rất mực nh? nh? tế nhị như thế khi vào đ̣i l?i bị quăng vào một nơi:

 

Bốn phía rừng xanh màu nước độc

Đông tây nam bắc núi chập chùng

Một lũng đất bằng khu chén nhỏ

Trói chân ta vào chân Trường sơn

 

Nơi đó là Củng Sơn, nơi chưa hết thanh xuân đă cùng đường, nơi đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con. Một nơi đất trích nhưng không phải là Tầm Dương của Tư Mă Giang Châu, để ít ra bên trời lận đận cũng c̣n gặp được một người khiến lệ phải chứa chan. Nhưng, chính nơi sơn cùng thuỷ tận ấy, lại là nơi mà tôi tin, đă giúp anh thai nghén một bài hành thống tâm thiên cổ. Bài Biên Cương hành.

 

Biên cương biên cương chào biên cương

Chào núi non rừng thẳm nhiễu nhương

……

Đây biên cương ghê thay biên cương

Tử khí bốc lên dày như sương

…….

Cô hồn một nơi quan tái

Có khi hoá thành thú muông

…..

Cô hồn một nơi đất trích

Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng.

 

Những âm ương và uông lập đi lập lại đến mấy mươi lần nghe như những hồi chuông báo tử. C̣n hơn cả hồi chuông báo tử trong V́ ai chuông báo tử của Hemingway. Có lúc như cọp gầm núi Lá. Có lúc như con thú bị thương. Có lúc như oan hồn kêu khóc ở Quỷ môn quan.

V́ đâu một chàng thư sinh lại phải rú lên thống thiết như thế? Đó là v́ c? m?t Tr??ng S?n v?i đường Chín nam Lào, v?i Khe Sanh, Đắc Tô v?i đỏ lửa mùa hè Quảng Trị. R?i từ những cái chết của người thân, bè bạn và của chính ḿnh một ngày không xa.

 

Gớm gió Lào tanh mùi đất chết

Thổi lấp rừng già bạt núi non

. . . .

Chiến trường ném binh như văi đậu

Đoàn quân ma bay khắp bốn phương.

 

Không có những trận giao tranh ác liệt. Không có bom rơi đạn nổ ngút trời. Nhưng cái mùi đất chết đó đă chứng thực máu đă nuôi rừng xanh xanh ngắt, núi chập chùng như dăy mồ chôn. Và bao nhiêu người của cả hai bên mới làm nên kỳ tích không mong đợi ấy? Một vạn hay chục vạn hay trăm vạn? Không ai biết được v́ trên th́ giấu che dưới th́ tịt mù. Nhưng khu chiến ngày tràn lan lửa dậy/ đá Vọng Phu mọc khắp biên cương. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đă bày ra lầy nhầy cảnh nồi da xáo thịt  ói tanh trên hai mươi năm. Hai mươi năm nội chiến từng ngày nên nơi nào cũng là biên cương, nơi nào cũng đá mang dáng dấp h́nh chinh phụ/trơ chóp núi đứng bồng con.

Nhưng thân trai th́ hề chi buổi chinh chiến tang thương/ sá chi hạt cát giữa sa trường. Biết là nhất khứ bất phục phản nhưng vẫn cứ phải ra biên cương v́ cả hai bên đều ném binh như văi đậu. Đó mới chính là thân phận bi tráng của những người lính hai miền. Tuy thế, cái chết hay những tháng ngày đợi chết không c̣n làm ai kinh sợ nữa. Chính cái cô đơn giữa trời hoang mây rậm mới làm họ phát cuồng.

Đầu tiên là nỗi nhớ trông núi có khi lầm bóng vợ/ ôm đá mà mơ chuyện yêu đương. Nhưng đá th́ làm sao mà yêu đương được, chỉ có thể vỗ đá mà ca ngông hát cuồng. Rồi th́ chém cây cho đỡ thèm giết chóc/ đỡ thèm môi mắt gái buôn hương. Sau cùng th́ nói như hờn dỗi, như trăn trối

 

Thôi em, yêu chi ta thêm tội

Vô duyên xui rơi lược vỡ gương

Thôi em chớ liều thân cô phụ

Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường

Thôi em c̣n chi ta mà đợi

Ngày về thôi cạn máu khô xương.

 

Chưa có thanh niên thời nào mà tương lai lại tối ám như thế. Chưa có cuộc t́nh nào mà ngày trở về lại là tang lễ thay cho hôn lễ. Cuộc chiến quá dài khiến cho những hy sinh mất mát trở thành những tiếng kêu vô vọng. Đâu c̣n  cái hào khí đầy lăng mạn

 

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm  Hà Nội dáng kiều thơm. (Quang Dũng)

 

Ở giữa nơi mà người ta ném binh như văi đậu th́ những chữ tổ quốc tự do dù được thét gào rống rú suốt ngày đêm phía sau chiến tuyến cũng không c̣n làm ai xúc động. Tất cả đă biến thành những con- vật- người. Cho nên dù có bắt tay làm loa gọi, th́ tiếng gọi giữa sơn cùng thuỷ tận cũng chỉ là tiếng hú của con thú bị thương mà thôi.

 

Hành là một thể thơ xưa chứa chan tâm sự. Bài hành của Bạch Cư Dị trên một ngàn năm mà lệ áo xanh vẫn chưa khô. Bài hành Tống Biệt của Thâm Tâm đến tận hôm nay vẫn dậy sóng trong ḷng. Bài hành Phương Nam của Nguyễn Bính vẫn láng lai châu thổ. Bài hành Biên Cương của Phạm Ngọc Lư xé ruột xé gan cả một thế hệ đầu thai lầm thế kỷä.

 

Cần ǵ đọc lịch sử hàng chục vạn trang, chỉ cần đọc hơn sáu mươi câu thơ của một người họ Pham là thấy được, cảm nhận được, sống lại được một cách trung thực như lột truồng cả một cuộc chiến phi nhân xuẩn ngốc chẳng khác ǵ một cuộc tự sát tập thể. Với bao nhiêu tội ác như thế, người ta bảo hăy để lịch sử phán xét. Th́ đây, bài Biên Cương hành là cái phán xét ngắn gọn nhất, đau đớn nhất mà một công dân nhỏ nhoi như hạt bụi có thể có quyền và có bổn phận góp một tiếng nói vào sử lịch.

 

Rồi đến lúc: bom có ngừng rơi, đạn có ngừng nổ nhưng cái biên cương ấy vẫn c̣n mọc lên nhức nhối giữa những con người đă cạn máu khô xương. Những con người lại một lần nữa bị ném ra ngoài cuộc đời như văi đậu. Rời Củng Sơn trở về làng cũ, lại một bài hành nữa làm ta buồn muốn khóc. Bài Cố lư hành khác với Biên Cương hành, không thét gào cuồng nộ mà nhẫn nhục thầm th́ như chịu tội với quê hương

 

Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp

Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn

Sao phên dậu nghiêng đầu câm nín

Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han

Ngơ vắng bàn chân như hụt đất

Tre già đang kể chuyện chôn măng

Nương rẫy đang phơi ḷng dâu bể

Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng.

 

Phải đây là cố lư ta chăng?

Đâu bóng mẹ già sau khung cửa

Và những người em mặt trái xoan

Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ

Bên luống cà xanh liếp cải vàng

 

Muốn ở lại làng cũ làm một anh dân cày cũng không được, anh đành theo bước chân của những người thua cuộc, làm một chuyến hành phương nam. Bài Trở về Phá Tam Giang theo tôi cũng là một trong những bài hành thiên cổ luỵ

Nhớ buổi ra đi thân t́nh đưa tiễn

Vợ gói câu thơ chị gói khúc đàn

Mẹ tóc trắng nh́n theo lặng lẽ

Con tóc xanh hai đứa dùng dằng

Bước xuống thuyền nh́n trời cao dơng dạc

Gơ mạn thuyền ngâm khúc hành phương nam

Nhưng

Mưa miền Nam, nắng miền Nam

Trông mây thấp thỏm nghe gió bàng hoàng

Quá đỗi mưa đau

Quá nhiều nắng khổ

Chén rượu quê người sao mà bạc

Aân t́nh đất khách lắm đa đoan.

 

Không thể so sánh bài Binh xa hành của Đỗ Phủ, nhưng theo tôi các bài hành của Phạm Ngọc Lư cũng là những tiếng kêu đứt ruột, ngập tràn nỗi đau phận người trong từng câu từng chữ.

 

Từ một thư sinh rồi thầy giáo, giờ anh ma xui quỷ khiến ra ngồi chợ/ bán gió rao trăng một núi dừa. Bài thơ hóm hỉnh cười nhạo chính ḿnh nhưng nghe ra thật đúng là cười ra nước mắt.

Cô gái Bến Tre vừa quen mối

Đếm dừa mà đôi mắt đong đưa

Người đẹp thương ta hay chơi đẹp

Bạc tiền không nài ép hơn thua

Khổ mấy lần áo khô áo ướt

Sợ ḷng em chợt nắng chợt mưa

Thôi để ta yên bên chén rượu

Uống say…thành bại cũng bằng thừa

Uống say…ném áo lên nóc quán

Hết nợ hết duyên vĩnh biệt dừa!

 

Hết xứ dừa Bếân Tre anh lại lạc vào đất đỏ Long Khánh. Trong bài thơ Bụi đỏ gửi các con, anh đă viết những câu thơ như lời giải tội.

 

Trời sinh chi đôi vai thêm khổ

Gánh gian nan như gánh tội đồ

Sinh chi kẻ sĩ đem đày đoạ

Chôn vùi nắng bẩn với mưa dơ

 

Đi giữa rừng cao su trùng điệp

Ḷng đau như vết cạo c̣n tươi

Mủ cứ chảy bám đầy tâm sự

Tâm sự đùn cao như g̣ mối chôn người

 

Đi giữa hoang sơ ruộng bàu khe suối

Gai hổ ngươi cào nát đôi chân

Nghĩ về quê cũ ḷng thêm thẹn

Một ra đi là một lỡ lầm

 

Cứ hỏi ḿnh: chưa chán ? chán chưa?

Nh́n núi Chứa Chan mắt buồn chan chứa!

 

Mười mấy năm lưu lạc ô nhục đắng cay có khác chi Kiều. Chỉ khác có rất nhiều Thúc Sinh mà không có Từ Hải. Chút ḷng trinh bạch mà Kiều ǵn giữ trong tâm hồn để trao cho Kim Trọng th́ Ngọc Lư xin trao về Nàng Thơ.

 

Xưa ta cầm tuổi hai mươi

Vay em nhan sắc về nuôi tâm hồn

Nuôi bao mộng mị vàng son

Một đêm trắng mộng chỉ c̣n đan tâm!

 

Chính v́ thương ngày xưa không tuổi/ ôm mối t́nh không tên mối t́nh với Nàng Thơ ấy mà anh đă sống sót qua những năm tháng ở Củng Sơn, ở phương Nam nắng khổ mưa đau. Nàng Thơ không c̣n lửng thửng giữa thành cũ rêu phong,  không phơi tấm thân ngà ngọc trên sông Hương mà cùng anh mười lít gạo trộn vài cân muối/ nấu với t́nh em ăn vẫn ngon. Nàng cùng anh xé toạt đất tanh mùi máu mà kêu thét lên ở biên cương, rồi cùng anh xuôi Nam lại lộn về cố lư, qua phá Tam Giang rồi dừng lại trên bến nước thứ mười ba là sông Hàn. Nhờ có nàng mà mộng con mộng lớn dẫu tan tành th́ cũng hăy c̣n bút mực đan thanh tươi màu.

Bút mực ấy chấm vào tấm ḷng son nên dù mai sau thơ anh có nằm chết trần truồng th́ tôi vẫn tin, trong trái tim của bạn bè vẫn c̣n nhỏ nhoi hạt bụi tên là Đan Tâm.

 

 

Khuất Đẩu

Thang1 01/2010