Nguyễn
Mộng Giác
CHÂN
MANG GIẦY SỐ 6
của Song Thao
Mai sau
người đọc Việt Nam khi giở những trang
sách văn chương hải ngoại, thế nào họ
cũng ṭ ṃ t́m hiểu kinh nghiệm lưu vong và di dân
của thế hệ chúng ta. Và họ sẽ
thấy biến chuyển phong phú của kinh nghiệm
ấy.
Thật
vậy, những đợt di tản đầu tiên sang
định cư ở xứ người sau tháng Tư
năm 1975 đă trải qua những kinh nghiệm bi
thảm, những khó khăn bất ngờ thường
dành cho những người mở đường. Chưa
kịp qua khỏi cơn bàng hoàng v́ đột biến
thảm khốc của lịch sử, họ đă
phải đối diện với một tương lai
bất trắc. Như Nguyễn Bá Trạc viết trong
Ngọn Cỏ Bồng, họ ngơ ngác nhũn nhặn thu ḿnh như những củ khoai khi các
hội thiện nguyện bảo lănh họ về, tŕnh
diện họ trước họ đạo để kêu
gọi ḷng nhân đạo. Họ lạc lơng
trước một nếp sống hoàn toàn xa lạ, tự
cô lập và đầy mặc cảm. Họ là bà
mẹ quê bị bật gốc trong Chuyến Xe Về Làng
Đại Từ của Trần Diệu Hằng, là bà
ngoại lúng túng không biết cư xử thế nào
trước chàng rể dị chủng trong truyện
ngắn của Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Lớp
trẻ hơn cũng không gặp may mắn. Không phải v́
trở ngại do ḷng kỳ thị của người
bản xứ. Không phải v́ óc đố
kỵ thường có của dân địa phương
trước một lớp di dân mới. Không. Tôi nhớ thời đó cả thế
giới mở rộng ṿng tay đón tiếp những
người tị nạn Việt Nam, ḷng nhân đạo
chưa bị “mệt mỏi” như khoảng thập niên
về sau. Trở ngại chính, là một
trở ngại thuộc về nội tâm. Lịch sử chuyển biến đột
ngột quá, cuộc di tản ra khỏi nước vội
vă quá, đến nỗi đặt chân tới xứ
người, nhiều người vẫn chưa hiểu
v́ sao ta ra đi, v́ sao ta đến đây. Lời
thơ của Cao Tần, Thanh Nam diễn tả chính xác,
trọn vẹn tâm trạng bi đát của lớp
người di tản thời ấy, và tôi tin rằng sau
này, nếu muốn viết một bộ sử về các
cuộc di dân quan trọng của dân tộc chúng ta,
những lời thơ ấy là một sử liệu quí
giá.
Những
đợt vượt biên ồ ạt từ cuối
thập niên 70 kéo dài cho đến giữa thập niên 90 tuy
cũng bi thảm như đợt di tản, nhưng tâm
trạng của người vượt biển ít phức
tạp hơn. Thứ nhất, họ đă trải qua kinh
nghiệm sống dưới chế độ cộng
sản, nên quyết định ra đi là một quyết
định dứt khoát, chấp nhận
trước các bất trắc nguy hiểm và sẵn sàng
chịu đựng những rủi ro bất lợi
nếu phải bắt đầu lại từ số không
ở xứ người. Thành thực mà nói, những
người vượt biển chỉ lo cho những
bất trắc trên đường vượt thoát, c̣n
đời sống nơi xứ người th́ do thư từ của những người
đi trước, họ biết tương lai chắc
chắn sáng sủa hơn cuộc sống hiện tại. Cộng đồng người Việt ở
ngoài biên giới đă thành h́nh, tin về các thành công của
con em những người di tản trong thương
trường, giáo dục...khiến những người di
tản có căn cứ để quyết tâm hơn trong các
quyết định ra đi hay ở lại. Người vượt biển đến các
nước định cư với một gương
mặt khác. Họ hăm hở chứ
không ngậm ngùi hối tiếc. Họ
tự tín xông xáo chứ không nhũn nhặn chịu
đựng như những củ khoai. Những
cụ già mơ về làng Đại Từ, những bà
ngoại ngại mùi nhang làm phiền chàng rể vẫn c̣n
đó, nhưng trong quan hệ với dân bản xứ,
mặc cảm tự ti đă giảm bớt. Nhờ
số đông, người Việt đă tự
động tụ tập nhau lại thành những cộng
đồng, cuối tuần gặp nhau nấu
nướng nhậu nhẹt tán dóc theo
kiểu Việt Nam, nhờ thế quên được
cảm giác vong thân lạc lơng của mấy ngày phải
sinh sống trong một môi trường xa lạ. Văn chương lưu vong bắt đầu có
tiếng cười. Đọc Hợp Lưu của
Hồ Trường An, chúng ta thấy đời sống
nơi xứ lạ không phải chỉ có buồn, khổ,
lưu lạc, tiếc nuối... Nhân vật của Hồ
Trường An, nhất là các nữ nhân
vật, dù sống nơi xứ người vẫn
cười nói rôm rả, đấu hót tưng bừng
về đủ thứ chuyện đầu cua tai nheo trên
đời. Họ không hề "mang trên vai
thân phận lưu vong, thân phận nhược
tiểu" như cách nói khuôn sáo thường thấy.
Họ sống ở Pháp, ở Mỹ, ở Đức mà
như đang sống tại Mỹ Tho, Cần Thơ, Sài
G̣n... Chưa phải đă "hội nhập" trọn
vẹn vào cuộc sống mới, nhưng họ dựng
được cuộc sống cũ trên đất
mới, và t́m thấy được sự an
toàn thoải mái trong khoảnh đất tự tạo
ấy.
Hơn
hai mươi ba năm đă trôi qua, kể từ ngày Sài G̣n
thất thủ. Sau
đợt di tản và vượt biển, là các
đợt ODP đoàn tụ gia đ́nh, đợt HO
của những gia đ́nh cải tạo, đợt
"tường nhân" sau khi bức tường Bá linh
sập xuống. Lớp nọ chồng lên lớp kia, tâm trạng người mới tới
của lớp sau chắc chắn không khác tâm trạng
của những lớp trước. Vẫn c̣n
"những củ khoai" của Nguyễn Bá Trạc,
những cụ già t́m chuyến xe về Đại Từ
của Trần Diệu Hằng, những bà ngoại
của Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Nhưng xét trên
đại thể, các tâm trạng ấy, kinh nghiệm
ấy, cảnh huống ấy ngày càng trở thành cá
biệt. Lớp già đă có "đất cũ"
dễ mà sinh hoạt vào cuối tuần, ở đó họ
t́m ra được bạn bè cùng thế hệ c̣n đông
đúc đầy đủ hơn ở quê hương.
Họ thoải mái lật album để ôn chuyện cũ,
thoải mái tôn xưng nhau đúng theo
hệ thống giá trị cũ trước 1975, thoải
mái nhắc nhở cái thời hoàng kim óng ánh hào quang thủa
nào. Lớp trẻ đầy tự tín v́ trưởng thành
trong hệ thống giáo dục và xă hội mới, không
cần phải t́m đến những ghetto như lớp
đi trước, chỉ có một mối quan tâm là làm sao
thăng tiến trên "đất mới" của ḿnh.
Tôi
t́m thấy thành quả đáng mừng ấy của kinh
nghiệm lưu vong trong tập truyện ngắn Chân Mang
Giày Số 6 của Song Thao.
Nhân vật
truyện ngắn của Song Thao khác với mẫu h́nh chung trong văn chương hải ngoại
ở một điểm quan trọng: họ đă
bước ra khỏi cái ghetto, dù là thứ ghetto rộn ràng
vui vẻ như trong Hợp Lưu của Hồ
Trường An.
Họ dứt
khoát với tṛ chơi bệnh hoạn đă cũ: ngồi
thu lu ở chỗ khuất nẻo
ngắm nghía vết thương của ḿnh mà than thở,
hối tiếc; lắng nghe tiếng thở dài của ḿnh
để ráng t́m một ư nghĩa rồi khuếch
đại thành một bản hợp xướng... Không
phải truyện của Song Thao chỉ có những nhân
vật trẻ trung mạnh khỏe, và họ gặp toàn may
mắn trên đời. Không! Vào cái tuổi
đă nếm đủ mùi thăng trầm của
đời sống, ông không hồn nhiên cả tin như
những người viết trẻ. Nếu
làm một cuộc thống kê nhỏ, chúng ta sẽ thấy
nhân vật của ông thuộc lớp già nhiều hơn
lớp trẻ. Nhân vật chính của
các truyện, dĩ nhiên là người Việt. Câu chuyện diễn tiến qua "cái nh́n"
của nhân vật Việt. Nhưng điều quan
trọng nhất, độc đáo nhất trong cách
viết của Song Thao, là nhân vật chính người
Việt của ông không c̣n là tù nhân của bất cứ thứ
ghetto nào, bất cứ thứ mặc cảm nào, bất
cứ thứ hoang tưởng nào.
Ra khỏi cái
ghetto quá khứ Việt Nam, nhân vật truyện Song Thao
mới ư thức được rằng nỗi đau
Việt Nam không phải là nỗi đau duy nhất chỉ
có dân tộc chúng ta phải gánh chịu. Khi
chấm dứt tṛ chơi nuôi sẹo và ngắm sẹo,
chúng ta sẽ thấy những người di dân thuộc
các sắc tộc khác sống chung quanh chúng ta cũng có
những bi kịch riêng của họ, nhiều khi bi
kịch của họ c̣n khốc liệt hơn cả
những ǵ chúng ta đă trải qua. Như
trường hợp Eva (trong truyện Eva):
"Đại
chiến thế giới là một khúc ngoặc quan trọng
trong cuộc đời Eva.
Bằng cách này hay cách khác, nó đă cướp đi của
bà hai chỗ dựa vững chắc nhất của
đời người. Cha bà tử trận trong quân
phục của quân đội Ba lan.
Mẹ bà vùi thây ở một nơi chốn nào đó
dưới rừng bom đạn gào thét dữ dội
như những lằn roi lửa trong tay
những ngạ quỉ ở chốn địa ngục. C̣n trơ trọi một ḿnh trên cơi đời, bà
bị lùa vào trong trại tập trung. Ông
không thể tưởng tượng được
tuổi thơ của tôi đâu. Mà nói cho
cùng, tôi làm ǵ có tuổi thơ. Trong
trại tập trung, chúng tôi làm việc quần quật
như một đám nô lệ. Mùa đông, tuyết
phủ ngập trời, chúng tôi phải đi chân không làm
việc ngoài trời... ".
Như
trường hợp Liwah, cô sinh viên Hoa lục du học
lấy chồng người Việt, vừa lạc lơng
trong một gia đ́nh khác chủng tộc vừa mang
nặng mặc cảm của một người
đến từ một đất nước có thể
chế chính trị cộng sản.
Sau khi nhận
thức được rằng bất hạnh của chúng
ta không phải là duy nhất, chúng ta mới ṭ ṃ t́m hiểu
xem các di dân khác đối phó làm sao với nỗi bất
hạnh của họ. Hăy nghe Eva nói:
"Cho tới bây giờ tôi vẫn
một ḿnh. Cô
đơn vẫn hoàn cô đơn. Phải chi
tôi có được với anh ấy một đứa
con. Nhưng đâu có thể đ̣i
hỏi nơi anh ấy điều anh ấy không thể
làm được. Ḿnh cũng đâu có thể tính
lời tính lỗ với cuộc sống của ḿnh
được, ông nhỉ. Cái được
nhiều khi chẳng phải là được. Cái thua nhiều lúc cũng chẳng ra thua. Người ta bảo nó như một tṛ chơi.
Ừ th́ chơi! "
Ra khỏi cái
ghetto quá khứ Việt Nam, nhân vật truyện Song Thao
mới thấy những người cùng làm việc ở
sở, những người láng giềng, những khách qua đường
khác chủng tộc với ḿnh cũng "hiện
diện", có những nỗi lo riêng, nỗi buồn
riêng, có tiếng cười tiếng khóc của riêng
họ, và xét đến cùng th́ tiếng khóc tiếng
cười của họ không khác tiếng khóc tiếng
cười của chúng ta bao nhiêu. Nhờ
mối quan tâm chính đáng của Song Thao đối với
các nhân vật khác với chủng tộc Việt, mà các nhân
vật ngoại quốc trong tập truyện hết
sức linh động. Sở làm không c̣n là chỗ
đầy ải, chỗ phải thui thủi cam chịu
để có miếng cơm manh áo, mà trở thành một
không gian sinh động, đầy chất sống,
đầy chất người; khi vui vẻ ngộ
nghĩnh như trong Ôm Rơm, khi cay đắng ngậm ngùi
như trong Auld Lang Syne. Trong sở làm, nhân vật Việt
của Song Thao cũng không co ro thu ḿnh như những
củ khoai của Nguyễn Bá Trạc. Họ tự tín,
mạnh dạn, nói chuyện và cư xử với
đồng nghiệp ngoại quốc trong tư thế
b́nh đẳng.
Ra khỏi cái
ghetto quá khứ Việt Nam, nhân vật truyện Song Thao mang
cho bạn đọc một món quà lớn nữa: họ
xóa bỏ cho chúng ta nỗi lo bị mất gốc, bị đời
sống vật chất tha hóa, con cháu chúng ta quên mất truyền
thống và lai căng khi tiếp xúc và trưởng thành
trong xă hội mới. Có thể Song Thao quá
lạc quan trong vấn đề này. Nhưng các
dẫn chứng của anh qua các truyện Hạnh Phúc,
Tưởng Có Cơn Băo, Chân Mang Giày Số 6 cho thấy anh
không "lạc quan tếu". Anh chỉ cho chúng ta
thấy nếp sống tưởng là buông tuồng phóng
túng của người da trắng thực ra là biểu
hiện phần tích cực của quan niệm tự do cá
nhân, ḷng tự tín và nội lực mạnh mẽ của
những người ư thức được quyền
lợi và trách nhiệm của hai chữ Tự Do, giống
như phong tục cha mẹ để con cái đến
tuổi 18 được tự do dọn ra ở riêng
để tự lập. Lấy kinh nghiệm thu lượm được qua cuộc
sống bất trắc để làm khuôn thước cho
giới trẻ lớn lên trong trật tự ổn
định, liệu những nỗi lo của chúng ta có
hợp lư hay không?
Tập
truyện của Song Thao mang đến cho tôi nhiều tin
vui, trả lời cho tôi nhiều câu hỏi mà lâu nay tôi
chưa t́m ra lời đáp.
Anh là người lạc quan. Nhờ thế, nhân vật của anh lạc quan
trong những t́nh huống đáng lẽ phải buồn
thương chán nản. Người
bệnh vẫn nói cười rôm rả. Người già sống cô độc nhưng không
hề cảm thấy lạc lơng. Mỗi
truyện mới đọc tưởng là một thảm
cảnh. Đang đọc thấy
đúng là thảm cảnh. Nhưng đọc xong
thấy lóe sáng niềm tin. Con người dù sao vẫn c̣n
rất tốt. Cuộc đời dù
đầy bất trắc nhưng vẫn là nơi đáng
sống nhất. Xin cảm ơn anh Song
Thao, về món quà quí giá này.
California, 1998
Nguyễn Mộng Giác.