...Đă đẹp và thật th́ không
thể không lương thiện. Nghệ thuật cũng
như t́nh yêu không thể sống được ngoài cơi
“đẹp và thật”. Bắt chước Lăo tử
tôi nói rằng: đến lúc cảm thấy không
đẹp nữa, không thật nữa th́ người ta
bắt đầu nói đến cái “thiện”. Ngoài ra
phải tin ở chủ quan của ḿnh, chủ quan này càng
phong phú, sâu sắc càng tốt, nhưng trước hết
nó phải “vô tư”...
Tôi
viết bài này để nhắn những bạn trẻ làm
thơ và phê b́nh thơ đọc tập chuyên luận
của Đặng Tiến về Thơ
[1], chí ít đọc 6
chương đầu: Thơ là ǵ? Roman Jakobson và thi pháp,
Claude Lévi-Strauss - Bách niên giai lăo, Nguyễn Tài Cẩn trên
nền thi học Việt Nam, ư thơ và lời thơ,
Thơ và khoa Ngôn ngữ học Tây phương, qua
những chương này độc giả có thể
nắm được lư thuyết của R. Jakobson về
ngôn ngữ thơ, lư thuyết này đối với
người làm phê b́nh thơ có khi c̣n quan trọng hơn
chủ nghĩa duy vật biện chứng đối
với người nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin. Tôi
cũng muốn nói lời nhắn này với cả
những bạn trẻ viết văn xuôi và làm phê b́nh
văn xuôi, v́ tính nhạc, yếu tính của lời
thơ, cũng được đặt ra cho câu chữ
văn xuôi, trong văn xuôi, câu chữ trước hết
phải chính xác, mà “từ chính xác là từ có tính nhạc”
(Gustave Flaubert). Cả những bạn trẻ làm khoa học
xă hội và nhân văn cũng nên đọc, các bạn không
thể nào bỏ qua những cách tiếp cận cấu trúc
luận về dân tộc học cũng như về
văn chương của Lévi-Strauss được tác
giả tŕnh bày tinh tế và thoáng gọn ở chương
3. “Vả chăng Thơ được sử dụng
như một pḥng thí nghiệm của nhiều khoa học
khác: ngôn ngữ học, kư hiệu học, dân tộc
học... Thơ là con chuột bạch cho nhiều ngành khoa
học nhân văn đương đại"
(Đặng Tiến).
Cách đây gần nửa thế kỷ,
tôi đương học ở Nga th́ một nghiên cứu
sinh người Pháp đưa tôi đọc tiểu
luận của R. Jakobson “Linguistique et Poétique” (Ngôn
ngữ học và Thi pháp), ư tưởng mới lạ, tinh
khôi và tư duy rành mạch của tác giả đă hấp
dẫn tôi nhưng tôi đọc khó nhọc lắm,
lủng củng nhiều thuật ngữ lạ hoắc…
tôi chỉ mong sao có người nắm thật vững lư
thuyết này và “nói vo” tŕnh bày lại cho tôi, thay v́ những
khái niệm trừu tượng là những “ví dụ
cụ thể” thật đích đáng. Đặng
Tiến chính là người tôi chờ đợi, tập
sách thơ của ông đă giúp tôi ôn lại và nắm
được lư thuyết thơ của Jakobson trong không
đầy một tiếng đồng hồ.
Qua cách tŕnh bày của Đặng
Tiến (tác giả thấy trước có “nguy cơ
giản lược và thiên lệch lập luận” tr.58) [2] mà cũng rất có thể
tôi hiểu không đúng thuyết tŕnh của ông, tôi cảm
thấy như Jakobson hiểu rất trúng ngôn ngữ
của thơ nhưng đâu đó chưa hiểu
thấu đáo thơ.
Trước sau tôi vẫn cho rằng Paul Valéry hiểu
thơ hơn cả: “Bài thơ - cái sự dùng dằng
(hesitation) kéo dài này giữa âm thanh và
ư nghĩa” [3] (có thể tôi dịch
từ hésitation chưa sát). Trong khi trong quan niệm
của Valéry, cả “âm thanh” và “ư nghĩa” đều quan
trọng trong việc tạo ra thi tính th́ trong sơ
đồ của Jakobson, đặc tính của ngôn ngữ
thơ “không nằm trong thông điệp được
truyền đi” (tức là trong ư nghĩa) “mà
nằm trong vỏ âm thanh của từ ngữ
được sử dụng” (tr. 11, 12). Trong khi trong
quan niệm của Valéry, thi tính được tạo ra
bởi “sự dùng dằng giữa âm thanh và ư nghĩa” (tôi
hiểu “dùng dằng” như một sự tương tác
cực kỳ phức tạp, không suôn sẻ chút nào,
tạo ra sự ngân nga giao thoa giữa “thẩm âm” và
“tạo nghĩa”, sự ngân nga giao thoa này tạo ra “không
khí” và “tâm trạng” bàng bạc trong bài thơ, tắm trong
môi trường đó, từ mang những sắc thái
biểu cảm mới và những hàm nghĩa sâu xa, bất
ngờ và “âm thanh”, “tiết điệu” có khi hàm chứa
những rung động “siêu h́nh” vượt siêu thế
giới “khả niệm”). C̣n trong sơ đồ của
Jakobson, một khi tương quan giữa “ư nghĩa” và “âm
thanh” được thay bằng tương quan giữa
“chức năng thông tin” và “chức năng thẩm mỹ”
th́ chức năng thông tin chịu tác động một
chiều của chức năng thẩm mỹ (“tăng
sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho thông tin”
[tr. 23]) c̣n chức năng thẩm mỹ tự thân nó là
một “chức năng độc lập”, không dính dáng ǵ
đến ư nghĩa (xem tr. 24). Trong quan niệm của
Jakobson, ư nghĩa trong câu thơ có một vai tṛ hết
sức vớ vẩn:nghĩa chẳng
qua chỉ là làm cho người ta “chú ư” đến câu
thơ (xem tr. 16) c̣n câu thơ hay đâu phải “v́ ư
nghĩa mà hay v́ hơi nói, giọng nói” [xem tr. 16] (chúng ta
đều biết sự tham gia của âm thanh và tiết
điệu vào việc tạo ra giọng nói).
Tư
duy của con người thường xuất phát từ
sự đối lập những trái ngược: nóng và
lạnh, cao và thấp…, âm và dương… Tư duy Hy
Lạp, đầu nguồn của tư duy phương
Tây có xu thế “dựng những trái ngược lên thành
những “vật tự nó”, biến những “vật
tự nó này” thành những bản chất loại trừ
nhau”. Jakobson tư duy về thơ xuất phát từ
sự đối lập giữa ư nghĩa và âm thanh,
ngữ nghĩa và ngữ âm, ngôn ư và ngôn hiệu, chức
năng thông tin và chức năng thẩm mỹ… Trong lư
thuyết thơ của ông những trái ngược có xu
thế trở thành những thực thể độc lập,
lấn lướt nhau: đặc biệt âm thanh và
chức năng thẩm mỹ có xu thế độc
quyền tạo tác thi tính, trở thành những thực
thể áp đảo ư nghĩa và chức năng thông tin,
thậm chí vô hiệu hóa khả năng góp phần tạo
ra thi tính của chúng, xem ra chúng bị lép vế và bị
động so với âm thanh và chức năng thẩm
mỹ. Tư duy về thơ của Valéry cũng xuất
phát từ hai mặt đối lập của thơ: ư
nghĩa và âm thanh, nhưng ông đă “không trừu xuất
chúng khỏi ḍng chảy của những quá tŕnh” thơ,
ông đă “duy tŕ chúng trong một thứ liên can với nhau”,
ông không bị cuốn vào “thao tác cắt đứt và
loại trừ mà tư duy Hy Lạp đă khai thác
để kiến tạo một cơi lư tưởng tính không
có trên đời này” [4]. Valéry định nghĩa
bài thơ như là “sự dùng dằng” giữa âm thanh
và ư nghĩa, đây là một quá tŕnh kéo dài, trong đó chức
năng “thẩm âm” và chức năng “tạo nghĩa”
hợp đồng, hỗ trợ nhau, những sắc thái
âm thanh và ư nghĩa được lựa đi, lựa
lại, được ướm thử đủ
chiều, do đó mới dùng dằng, dĩ nhiên luôn
luôn có những sáng tạo và khám phá bất ngờ. Tôi
thấy trong định nghĩa của Paul Valéry về
thơ sự đ̣i hỏi kết hợp cân bằng âm
thanh và ư nghĩa, quan điểm này càng rơ nếu
được đặt vào một quan niệm rộng
lớn hơn của ông về viễn cảnh phát
triển của văn học, nghệ thuật. Đánh giá
những sự cách tân sáng giá của những trường
phái chủ nghĩa hiện đại ông viết: “…
tất cả những sự cách tân này cần thiết cho
sau đó một chủ nghĩa cổ điển mới
có thể xuất hiện...”. Mà chúng
ta biết thi pháp mọi chủ nghĩa cổ điển
đều bao hàm nhu cầu kết hợp cân bằng, hài
ḥa… Chủ nghĩa cổ điển mới đặt ra
sự kết hợp cân bằng những trái ngược
vốn có trong văn học nghệ thuật: cái phải là
và cái thực là (Aristote), cái “chính xác” và cái “mơ
hồ” (Verlaine), “siêu thực” và “hiện thực” (Aragon),
“hư “và “thực” (Tề Bạch Thạch), “âm thanh” và “ư
nghĩa” (Jakobson), cái “phôi pha” và cái “hằng hữu”
(Đặng Tiến)… Sự cân bằng trong văn học,
nghệ thuật vốn mong manh. Sự cân bằng trong
chủ nghĩa cổ điển quá khứ
thiên về sự cố định, do đó dễ
cứng nhắc. Trong “chủ nghĩa cổ điển
mới”, sự cân bằng “hoạt ứng” hơn, biến
hóa linh động, không “trung dung” một cách “rẻ
tiền”, không nhất thiết là cứ phải 50/50, có khi
lệch về phía đối cực này hoặc đối
cực kia th́ mới là cân bằng!
Đặng Tiến là
một “fan” của Jakobson.
Ông có sự ráo riết trong đầu óc phân tích, sẵn
sàng đẩy tới mọi sự trừu xuất
nhưng mặt nào đó ông gần với minh triết
của Valéry trong tư duy về thơ. Thuyết
tŕnh lư thuyết của Jakobson ông luôn có sự tỉnh táo.
Khẳng định luận điểm cơ bản
của Jakobson: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy
ḿnh làm đối tượng” ông có sự rào
trước: ở đây có “sự nói quá đi một
chút” (tr. 12). Về việc đưa luận
điểm này vào sự phân tích thi ca ông có lời dè
chừng: “… chúng ta phải dè dặt, v́ bài thơ là
một mô h́nh phức tạp. Cái nh́n khoa
học… là cần nhưng chưa đủ để
nắm bắt câu thơ” (xem tr. 16)
Cần có sự “tổng hợp nhất quán” nhiều ngữ cảnh, nhiều quan
hệ mà trực giác mách bảo, trong thao tác này tư duy suy
lư xem ra bất lực.
Đáng quư nhất trong tập sách này là
những ư kiến riêng của Đặng Tiến về
thơ và phê b́nh thơ.
– “Nguồn thơ nào mà không mang ít
nhiều nhan sắc của phôi pha,
nếu bản chất của thơ không phải chính là di
tích của phôi pha…” (tr. 135)
– “Yêu văn là yêu
người, Yêu thơ là yêu ḿnh. Cảm thơ, hội ư với thi nhân,
ta trở thành "tri âm" với nàng thơ, "ta b́nh
đẳng với tác phẩm", câu nói được
truyền tụng từ họa sĩ Raphael... (tr. 62)
– “Thi nhân dùng những v́ sao cũ
để làm nên ánh sáng mới trong một tinh hệ
mới, do ḿnh cố ư hoặc t́nh cờ tạo dựng”…
(tr. 61)
– “Tôi đi t́m một
Tản Đà nào đó, không nhất thiết phải là
Tản Đà duy nhất hoặc chân chính. Cũng không nhất
thiết là Tản Đà của tôi. Dĩ
nhiên là tôi không bao giờ nghĩ ḿnh có cái nh́n nhất quán và
dứt khoát về Tản Đà, cũng như về
bất cứ một nhà thơ nào khác".
…
Tập sách Thơ
của Đặng Tiến có gần bốn trăm trang bàn
về những tác gia và tác phẩm thơ Việt. Tác
giả đề cập đến “Quốc Âm thi
tập của Nguyễn Trăi, Tập thơ Việt Nam
đầu tiên”, "Nữ tính trong thơ Bà Huyện Thanh
Quan", "Tản Đà, thi sĩ của phôi pha",
"Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử",
"Những đóng góp của Thế Lữ vào phong trào
thơ mới", "Hành tŕnh Xuân Diệu",
"Thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp",
"Quang Dũng, Một thoáng mơ phai", "Văn Cao,
Lá khát vọng". "Lê Đạt và Bóng
chữ", "Hoàng Trúc Ly - Nụ cười trong và
đôi mắt sáng", "Thi giới Đinh Hùng",
"Bùi Giáng nguồn xuân", "Đồng chí" của
Chính Hữu, "Núi Đôi" của Vũ Cao,
"Trường Sơn" của Phạm Tiến
Duật… và nhiều thi sĩ, thi phẩm khác. Mỗi độc giả hẳn là có những chân
dung riêng của ḿnh về những tác gia nói trên, chắc
chắn là khác những chân dung Đặng Tiến phác
họa. Thi giới của Đinh Hùng – tôi muốn nói
Đinh Hùng của Đặng Tiến – là một “thế
giới hư ảo” “hoàn toàn độc lập với
thực tại” được “hư cấu” bằng
“vật liệu-ngôn từ” (xem tr. 381), nhà thơ vùng vẫy
trong cơi hư ảo ấy bằng những câu thơ
đẹp (hầu như câu nào cũng đẹp),
những câu thơ “vẽ sự thật lên mộng”,
biểu lộ “t́nh thật trong một thế giới không
thật” (xem tr. 399). “Thi giới Đinh Hùng kết tinh
bằng Thiên nhiên huyền bí, bằng dị thảo
kỳ hoa, biển Giáp, non thần…, nuôi dưỡng
bằng một mạch sống mănh liệt – hay mạch
sầu bất diệt – đă nở thành những đóa hoa
đẹp nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam…” (tr. 395). Đây là cách nh́n của Đặng
Tiến… Riêng tôi, nh́n vào cơi hư ảo
Đinh Hùng, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ
của Tề Bạch Thạch định nghĩa thi pháp
(tức họa pháp) của ông: “Hư quá th́ dối
đời / Thực quá là mị tục”. Tài
năng của Đinh Hùng trước hết là ở
chỗ đến cấm chỉ vượt quá th́ “dối
đời” ông biết dừng
lại. Hay là ông đă vượt quá mà mỹ
cảm dung tục của tôi không nhận ra
được. Thơ Đinh Hùng là “cơn mê
trường dạ” (Tạ Tỵ). Với
tiêu chí của một Valéry xác định “phẩm cách
đích thực của một nhà thơ đích thực là
ở những ǵ khác hẳn với trạng thái giấc mê”
[5] th́ chắc chắn tư
cách thi sĩ của Đinh Hùng, cả tư cách phê b́nh
thơ của Đặng Tiến nữa bị nghi
ngờ. Tôi không lấy tiêu chí của
Valéry làm chuẩn. Tôi xem đây là
những “gu” khác nhau. Tề Bạch Thạch có “gu”
của Tề Bạch Thạch, Valéry có “gu” của Valéry,
Đặng Tiến có “gu” của Đặng Tiến… Và Hoài Thanh có “gu” của Hoài Thanh. Đi vào thi giới của một Đinh Hùng, Hoài
Thanh thấy “đi trong đó, mới đầu th́
cũng thấy hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ
ngạt thở”. Tôi không khỏi ngạc nhiên
thấy Đặng Tiến trước việc Hoài Thanh
chê thơ Đinh Hùng bèn đắc ư như muốn nói
với bạn đồng nghiệp của ḿnh: “Tôi
mới là người có trong tay ch́a khóa đi vào thi giới
Đinh Hùng, bác cóc có…” (xem tr. 396). Có thể tôi không hiểu hết ư của
Đặng Tiến, có khi ông nói chuyện ch́a khóa để
nói chuyện khác.
Cách phê b́nh thơ của Đặng
Tiến chung quy lại vẫn là “diễn nghĩa”, “bàn
góp”, “tán rộng”… (những phân tích âm pháp, tiết
điệu khá tinh tế của tác giả vẫn là
những điều quá giản đơn so với
những điều tinh vi hơn rất nhiều mà
những độc giả b́nh thường cảm
nhận được bằng trực giác của họ,
tuy nhiên tôi vẫn cho rằng những phân tích đó không
phải là thừa). Số phận của những
người viết phê b́nh ở nước ta là trở
đi trở lại vẫn là ba cái
tṛ: “diễn…”. “bàn…”, “ tán…”. Hơn nhau là
ở chỗ biết “diễn…”, biết
“ bàn…”, biết “tán…”. Không biết “diễn” th́ thành “diễn
thuyết” dạy tác giả, độc giả, không
biết “bàn” th́ thành “bàn suông” hoặc “nói leo”, không biết
“tán” th́ thành “tán phét” (đành rằng biết tán phét không
phải là dễ). Đặng Tiến có một nền
văn hóa, kiến văn rất tốt, thuận cho sự
“hoạt ứng” của tác giả trong sự “
diễn…,bàn…, tán…”, tất nhiên nhân tố quyết
định vẫn là cái “gu” của tác giả. Thế nào là
biết “diễn…, bàn…, tán...” Tôi chỉ nêu lên ở
đây mấy điều kiện:
Điều kiện thứ nhất,
đúng hơn căn bản thứ nhất do Đặng
Tiến khẳng định: “Những câu chữ bao giờ
cũng đặt trên một nền chung:
niềm tin vào văn học, lẽ phải, t́nh
người, dân tộc và đất nước” (tr. 8).
Lẽ phải, t́nh người bao giờ
cũng đẹp và thật. Đă
đẹp và thật th́ không thể không lương
thiện. Nghệ thuật cũng như
t́nh yêu không thể sống được ngoài cơi
“đẹp và thật”. Bắt chước Lăo tử
tôi nói rằng: đến lúc cảm thấy không
đẹp nữa, không thật nữa th́ người ta
bắt đầu nói đến cái “thiện”.
Ngoài
ra phải tin ở chủ quan của ḿnh, chủ quan này
càng phong phú, sâu sắc càng tốt, nhưng trước
hết nó phải “vô tư” (hiểu theo nghĩa câu “vô
tư đi!” tuyệt vời của người Hà
Nội), “vô tư” c̣n có nghĩa là không vướng mắc
những món nợ “lần khân”: không mắc nợ những
ư đồ ngoài văn học của chính ḿnh, không vấn
vương những hệ lụy của “ngụy tín”,
không mang nợ những lư thuyết triết học,
mỹ học, nhân học, văn học… “thời
thượng”: phân tâm học, kư hiệu học, chủ
nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa, chủ
nghĩa hậu hiện đại, cấu trúc luận,
chủ nghĩa “tân h́nh thức”... kể cả lư thuyết
thơ của Jakobson.
Câu văn phê b́nh thơ cũng phải có
thi tính. Những câu văn có hoạt tính thơ đă
phả tươi mát vào cuốn sách Thơ
dày cộp của Đặng Tiến:
– “Vũ trụ thơ
của Ức Trai là một áng mây bên suối, một ánh
trăng trong khoang thuyền, tiếng chim kêu trong rặng
hoa, là giọt sương trên chồi cúc” (tr. 113).
– “Thế giới của Đinh Hùng
nghe như lúc nào cũng xôn xao; thiên nhiên đợi
đổi mùa, t́nh yêu đến giờ gặp gỡ hay
lúc chia phôi, nắng chiều đợi tàn phai, tiếng
dương cầm hắt hiu lời vĩnh biệt,
hoặc vàng thu sắp sửa làm thương
nhớ, Gió mùa thu sớm bao dư vị, Soi mầu
trăng cũ lẫn vào đêm (tr. 385).
– “… Quang Dũng đă
đến giữa ḷng cuộc đời, dịu dàng
như một nét hoài nghi, rồi anh lại đi nhẹ
nhàng như một thoáng mơ phai” (tr. 241).
– “Niềm tin Văn Cao
đi từ những giấc mơ thét gào thực tại,
là những rạn vỡ đ̣i lại toàn bích, là chiếc
lá gào gọi trời xanh” (tr. 285).
– “Và Quang Dũng không
phải… là người duy nhất, ba mươi năm sau
c̣n ngất ngây trong một cơn say, c̣n sống chưa tàn
một đêm hóa mộng” (tr.247).
…
Phê
b́nh thơ…, họa chăng c̣n lại trong kư ức
độc giả là những câu thơ hay được
trích dẫn, những câu chữ có thi tính của
người viết, cái sáng trong vô tư trong chủ quan
người viết,... phần c̣n
lại là… “phôi pha”.
Bản
tác giả gửi Diễn Đàn,
Đă
đăng Tạp chí nhà văn việtnam
19/06/2009.
1 Đặng
Tiến - Thơ. Thi pháp & Chân dung. Nxb Phụ Nữ,
2009.
2 Số trang sách đă dẫn.
3 le poème - cette hésitation prolongée
entre le son et le sens.
4 Ba câu in nghiêng vừa dẫn là tóm tắt
những ư kiến của F. Jullien xác định
phương thức tư duy của Trung Hoa cổ
đối lập với phương thức tư duy
của Hy Lạp cổ.
5 La véritable condition d’un véritable poète est
ce qu’il y a de plus distinct de l’état de rêve, Paul Valéry.