Tôi quen nhà văn Trà Lũ đâu chừng trên
dưới hai mươi năm. Trong khoảng thời gian
đó tôi đã nhận được từ nhà văn,
tất cả là mười cuốn sách quí được
gởi tặng. Lẽ ra tôi phải gọi nhà văn
Trà Lũ bằng thầy, bỡi vì tôi xuất thân từ
trường Sư Phạm mà nhà văn Trà Lũ đã
từng là Giáo Sư dạy ở đó. Lần
đầu tiên khi gặp nhau, tôi gọi nhà văn Trà Lũ
là thầy với tất cả những gì kính trọng, quí
mến. Nhưng mà nhà văn đã không cho tôi xưng hô
như vậy và chỉ muốn tôi gọi bằng anh trong
tình văn hữu -cung kính bất như tùng mạng, tôi
bắt buộc phải nghe theo, từ đó về sau tôi
thường gọi nhà văn Trà Lũ bằng anh,
tiếng anh thân kính, tuy bên ngoài là anh mà bên trong vẫn là
thầy.
Dầu tôi không được
may mắn học trực tiếp với thầy Trần
Trung Lương ở trường nhưng bù lại
được học hỏi rất nhiều những gì
thầy đã viết ra trong sách. Hôm nay nhân ngày thầy Trà Lũ
ra mắt cuốn thứ mười, tôi xin phép
được khoe với quí vị những nét tài hoa
của nhà văn Trà Lũ. Mà chắc là tôi không cách gì nói hết
được đâu, bỡi vì Trà Lũ viết hay
lắm. Quen biết nhà văn Trà Lũ một
khoản thời gian khá dài, con người, tánh tình và
nếp sinh hoạt của ông, tôi biết được
chút ít. Đọc
văn thì biết người. Mà đã
biết người rồi, thì thấy văn cũng
giống y như vậy. Có thể coi Trà Lũ như
một người cực kỳ thông minh, dáng vẻ
điềm đạm, khéo giao thiệp, dễ hoà mình
với mọi người, nhứt là tánh tình giản dị,
tươi vui, yêu đời đầy nét duyên dáng, hóm
hỉnh. Ông
đến với xứ Canada nầy như cá gặp
nước vậy. Ông đối
với đời đẹp quá và đời đối
với ông cũng đẹp nữa.
Cứ nhìn ông giao tiếp với
bạn thì biết, cụ Chánh, cụ B.95, ông ODP, ông H.O, ông
Từ Hòe, chị ba Biên Hòa, anh John, cha Paolo,… có nam, có
bắc, có đông, có tây, có liền ông và liền bà, có già có
trẻ. Người nào
cũng hiền lành tử tế, đối xử nhau
tương thân, tương kính, thuận thảo, có món ngon
vật lạ cùng nhau thưởng thức chia xẻ, có
chuyện gì vui cùng kể cho nhau nghe, có chuyện gì lạ
cũng báo cho nhau biết,… rồi xúm nhau
cười ào ào. Đời thiệt là vui và đáng sống hết
sức. Chưa bao giờ tôi thấy các nhân vật Trà
Lũ cau có, quạu quọ, giận hờn, tranh chấp
hơn thua, cãi vã, dèm pha, ganh tỵ,
chữi rủa nhau, bơi móc nói xấu nhau…
.
Mười
cuốn sách đã phát hành, nhan đề đều có
chữ ‘Đất’ như vậy là tác giả có dụng ý
khi đặt tên tác phẩm. Nhà văn Trà Lũ
muốn gởi gấm điều gì qua các đứa con
tinh thần của mình? Rõ
lắm, tác giả hết lời ca tụng đất nước
Canada rộng lớn vĩ đại,
giàu có và thanh bình. Canada là vùng đất tác
giả đã chọn lựa khi định cư,
được coi như là quê hương thứ hai. Tất cả các quyển
được viết theo cùng một
khí văn nhất quán -hơi văn đi một mạch,
mười cuốn như một, một cuốn như
mười. Lối
hành văn lưu loát, nhẹ nhàng, tự nhiên, lôi cuốn, ý
nhị, câu chuyện thoắt biến thoắt hiện, tài
tình. Tác giả viết tự nhiên như
là đang kể chuyện trực tiếp cho độc
giả, là chúng ta nghe. Nghe
hoài nhưng không chán, trái lại còn say mê theo
dõi nữa. Khó có ai cầm
quyển truyện trên tay rồi, lại
bỏ xuống cho được.
Câu chuyện liên tục, nồng ấm, hấp
dẫn... quá sức lẽ mình!
Ông thường tường thuật lại những
buổi hợp mặt thân hữu vào những ngày lễ
hội, ngày Tết, ngày kỷ niệm,… cùng nhau bàn luận
chuyện đông tây kim cổ, chuyện nọ chuyện
kia, những bài thơ, bài báo, sách vở, đôi khi tiếu
lâm nữa, khiến buổi họp mặt sôi nổi, hào
hứng, xen vào đó vài chuyện tiếu lâm lạt hay
mặn… có khi mặn tới quéo lưỡi, khiến các bà
đỏ mặt mà vui.
Nội dung câu chuyện lúc nào nhà
văn Trà Lũ cũng ca ngợi quê hương mới là
đất Canada, hăng say, nồng nhiệt, không hề
rụt rè, không đắn đo so bì, Canada là số một,
Canada là thiên đường.
Ban đầu tên các tác phẩm được
đặt là Miền Đất Hạnh Phúc, rồi
Đất Mới, Đất Hứa, Đất Thiên
Đàng, Đất Yêu Thương, Đất Lạnh Tình
Nồng, Đất Quê Ngoại, Đất Anh Em và cho mãi
tới cuốn thứ mười, cuối cùng thì Trà Lũ
mới dám gọi Canada là Đất Nhà. Tại sao phải
tới cuốn thứ mười tác giả mới
gọi như vậy? Cái lý do nào mà Trà Lũ đi loanh
quanh lẫn quẫn, gọi Canada là đất nầy
đất kia, đi lòng vòng mãi ở ngoại ô mà không dám
tiến thẳng vào thủ đô, không dám ôm Canada vào lòng mà
hôn hít nó, gọi là đất của mình, tuy tác giả
đã có quốc tịch Canadian đã trên 30 năm rồi ?
Rất là dễ hiểu, bỡi
vì trong đầu tác giả, còn đầy ắp một
đất nước Việt Nam, trong trái tim
tác giả còn đập nhịp tư tuởng, tình cảm
Việt Nam thiệt là lớn, làm sao một sớm một
chiều mà quên phắt cho được. Quê hương
chỉ có hai chữ đơn giản vậy thôi, sao
lại khiến người ta khắc khoải. Trà Lũ đã viết
: -nếu định nghiã quê hương là chùm khế
ngọt, là con diều biếc, là con đò nhỏ, thì ở
hải ngoại nầy chúng ta không có quê hương sao? Cụ Chánh tiên
chỉ làng đáp ngay -có quê hương chứ, có nhiều
chứ. Chúng ta đi mang theo quê
hương mà. Bao lâu chúng ta và con cháu chúng ta còn nói tiếng
Việt, ngâm thơ Nguyễn Du, đọc thơ Nguyễn
Công Trứ là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Bao lâu
chúng ta còn ăn Tết nguyên đán, còn
cúng giỗ tổ tiên, còn tri ân quốc tổ, là bấy lâu
chúng ta còn có quê hương. Bao lâu chúng ta còn nấu phở,
chiên chả giò, ăn nước mắm là bấy lâu chúng ta còn có
quê hương.
Nhà văn Trà Lũ đã bổ
túc cái nhìn thiếu sót dùm cho tác giả chùm khế ngọt
Đỗ Trung Quân, quê hương không phải chỉ là
dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình
Dương với núi non, cây cỏ, hoa thảo, sông
nước, mà quê hương còn bao gồm cả con
người Việt Nam với tất cả những nét
văn hóa đặc thù từ cách sống, cách ăn,
mặc, đi đứng cùng phong tục, tập quán,
văn học, nghệ thuật,… và các hình thái sinh hoạt
tinh thần nữa.
Các bài viết trong tác phẩm là
những chứng minh hùng hồn của Trà Lũ về lòng
thương nhớ quê hương đó. Không
phải tự nhiên rảnh rổi mà viết nhiều
tới mười cuốn như vậy. Ông muốn chứng minh cho chúng ta,
những độc giả quen thuộc, hình ảnh của
quê hương yêu dấu khi dứt áo bỏ nước ra
đi, chúng ta đã mang theo được và suốt
đời không bao giờ quên, qua các món ăn, chả giò,
phở, bánh cuốn, nem nướng, chả nướng,
thịt bò, thịt heo, thịt chó,… đến chiếc áo
dài tha thướt, chiếc nón lá bài thơ, cái yếm
phụ nữ thơ mộng, chiếc váy cùng cái quần
củn cởn… Đi du
lịch Alaska hai tuần, nhà văn Trà Lũ ăn uống
toàn món ngon vật lạ, cuối cùng rồi cũng nhớ
tới nước mắm, thèm thuồng và ước ao,
nhắc nhở cho những người đi sau
đừng quên mang theo. Ôi, nước mắm là món ăn
thuần túy quê hương, nước mắm là Việt
Nam, dù ở góc biển chưn trời,
làm sao mà quên cho được.
Nhà văn Trà Lũ
cũng đã bổ túc cho chúng ta nhiều lắm, ngoài tình
yêu quê hương tha thiết, chúng ta còn học hỏi
nhiều qua cái kiến thức rộng rãi của ông. Ông đã có lần nhắc tới cha Đỗ
Minh Vọng, khiến tôi xao xuyến. Đó là một
vị giáo sư mà tôi kính mến. Tôi đã may mắn
được học với cha mấy năm tròn. Cha
người Pháp tên Cras, to lớn con, tánh tình hiền lành
dễ thương, đi dạy thường mặc áo
chùng thâm và lái chiếc xe Lambretta
củ. Kiến
thức của cha rất rộng, nhờ cha giảng
dạy cấu trúc câu văn và tiếng Việt Nam mình so
với các ngôn ngữ khác trên thế giới mà tôi hiểu
thêm tiếng Việt, qua hai môn Văn Chương Tỉ
Giảo (Littérature Comparée) và Ngữ Nguyên Học (Étymologie). Không biết phải cần bao
nhiêu năm học hỏi nữa, bao nhiêu công sức
nữa, tôi, một người Việt Nam rặt ròng,
mới hiểu biết được ngôn ngữ Việt
Nam như cha đã hiểu biết !
Cha Cras giỏi
tiếng Việt bao nhiêu thì nhà văn Trà Lũ cũng
đâu có thua kém. Khi bàn
về cái váy của dân tộc, chúng ta thấy nhà văn
cực kỳ thông minh và bén nhạy, chúng ta cùng cười
xòa khi Trà Lũ nhắc tới bài thơ Vũng Lội Làng
Ngang của Nguyễn Khuyến.
Bài
thơ đó như vầy :
-Đầu làng Ngang có một
chỗ lội
Có
đền ông Cuội cao vòi vọi
Đàn bà
đến đó vén quần lên,
Chỗ thì đến háng,
chỗ đến gối,
Ông Cuội
ngồi trên mỉm mép cười,
Cái gì
trăng trắng như con cúi
Thời cụ
Nguyễn Khuyến, đàn bà Bắc Kỳ vẫn còn
mặc váy. Rõ ràng cụ bà mặc váy. Chữ
vén quần trong bài thơ tôi ngờ là nhà in chép sai. Tiếng VN nói vén váy chứ không nói vén quần bao
giờ. Lại nữa, theo mạch văn, nếu
mặc quần mà xắn lên thì Ông Cuội chỉ thấy
bắp đùi là cùng, không thể thấy con cúi
được, do đó câu trên phải là “đàn bà
đến đó vén váy lên” Ôi
chao, cái váy làm phiền Ông Cuội và cụ Nguyễn
Khuyến quá..
Nhận xét trên của nhà
văn Trà Lũ thật là tinh tế, sự thật là -vén
váy chớ không phải vén quần.
Nhưng câu thơ viết -đàn bà đến đó
vén váy lên, nghe không được, vén quần lên, êm tai
hơn. Tiếc một
điều, thơ văn VN mình vào cuối thế kỷ 19
chưa có trường phái ‘Bút Tre’, trường phái nầy
sanh sau đẻ muộn, mãi đến thời văn minh
Xã Hội Chủ Nghiã mới phát minh ra lận. Dù sao thì váy và
quần hình thức tuy có khác nhưng nội dung giống
nhau, mặc để che kín phần dưới con
người. Có
điều nhà văn Trà Lũ không giải nghiã cho chúng ta
hiểu chữ con cúi, nhắc tới con cúi thì ông Cuội
cười trước, chúng ta cười sau… Cứ xúm
nhau tưởng tượng rồi cười,
cười mà không hiểu rõ, con cúi là con gì? Tôi tò mò lật tự điển
Lê văn Đức và Lê Ngọc Trụ, rồi Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Của,
đọc rõ tự điển ghi con cúi có 4 nghiã
:
1/ cá cúi : cá
có nhiều mỡ như heo biển
2/ heo cúi :
con heo
3/ con cúi :
rơm cổ vấn dài để làm hỏa mai.
4/ bông cán bắn ra rồi, xe tròn từng con dài để mà kéo chỉ =
cũng hiểu là con heo.
Như vậy dầu là rơm
vấn để làm mồi lửa hay là bông vải vấn
tròn để xe chỉ (cả hai
đều có hình dáng con heo, cái bắp đùi giống con
heo), bốn nghiã cũng là con heo.
Con heo và thịt heo, tiếng Tây là cochon, là porc. Từ
chữ cochon có chữ cochonner (làm bậy) cochonnerie (dơ dáy, bẩn
thỉu, thô tục) Việt
Nam hay Tây dù là nghiã nào thì cũng là con heo, đồ con heo
với chuyện con heo… xấu thiệt là xấu, nghiã
đen lẫn nghiã bóng.
Trong quyển Người Tù
Khổ Sai Papillon, bản tiếng Pháp, tôi nhớ có
đoạn ông Papillon khi bị giam ở quần
đảo Guyane thuộc Pháp, có nhắc đến
chuyện mượn con heo của một người tù
Bắc Kỳ (Tonkinois) mà người tù nầy gọi con
heo nhỏ của ông ta là ‘con cúi’. ‘Con cúi’ ủn ỉn
đi trước, Papillon lò dò theo sau
từng bước, thì tránh được nguy hiểm,
khỏi lọt xuống các bãi sình vắt võng xung quanh
trại giam, trốn thoát được ra ngoài. Ông Papillon đã dùng chữ ‘le con
cui’ rõ ràng trong tác phẩm. Tôi đọc ngang đây thì
biết rõ ông Papillon viết đúng sự thật, không
hề thêu dệt như một số nhà văn ngồi nhà
mà tưởng tượng… Ông không dùng chữ annamite và
cochon, mà dùng chữ ‘Tonkinois’ và ‘con cui’ trong câu chuyện. Trong Nam hồi tôi còn nhỏ, nghe
mấy bà hàng xóm thường nói :
-chiều rồi phải lo cho heo cúi
ăn. Như vậy ở ngoài Bắc
thời Nguyễn Khuyến gọi con heo là con con cúi là
đúng. Nhưng con heo của
Papillon là heo Việt Nam, loại heo mọi nhỏ và đen,
còn heo của Nguyễn Khuyến, tại sao lại trăng
trắng, thiệt tình tôi không biết. (heo
Việt Nam bây giờ trắng to là giống heo ngoại
quốc mới nhập cảng sau nầy) Có vị nào biết
được, xin được chỉ giáo, thành tâm
đa tạ.
Bàn về giọng Nam, giọng
Bắc, nhà văn Trà Lũ khá công bình, ông viết không thiên
vị, mỗi miền đều có cái hay cái dỡ, tùy theo
trường hợp mà dùng giọng nầy hay giọng kia.
Giọng nào ông cũng yêu hết : -Ông
bồ chữ ODP góp thêm ý. Rằng hát tân nhạc, các ca
sĩ người Nam cũng phải hát theo tiếng
Bắc thì mới hay. Ví dụ lời ca ‘Anh ơi anh,
chuyện chúng mình ta tính đi thôi..'’nếu
hát theo tiếng Nam ‘ăn ơi ăn, chuyện chúng mìn ta
tín đi thui’ thì không thấy hay gì hết. Nhưng khi ngâm
vọng cổ thì anh nghệ sĩ Bắc Kỳ phải theo tiếng Nam thì mới thấy muồi…
Nhà văn Trà Lũ đã có
nhận xét thật chí lý. Quả là đúng như vậy,
chuyện hát tân nhạc và vọng cổ chứng minh rõ ràng
tùy theo trường hợp nào thì nên dùng giọng Nam, khi nào
nên dùng giọng Bắc. Nhưng viết ngang đây tôi xin
đóng góp vài nhận xét, đa số nhạc sĩ
đặt bài hát (compositeur) là người Bắc, nên ca
sĩ phải hát theo giọng Bắc, nhạc sĩ là
người Trung thì ca sĩ phải hát theo giọng Trung,
nhạc sĩ là người Nam phải hát theo giọng Nam
(như Phương Dung hát nhạc Lam Phương) Có một số nhạc sĩ
người Nam khi viết nhạc bắt chước
viết theo lối văn Bắc thì ca sĩ cũng
phải hát theo giọng Bắc.
Hình thể đất
nước ta thiếu chiều ngang mà phát triển theo chiều dọc, thời chúa Nguyễn
chế độ doanh điền tổ chức các
đợt di dân từng vùng ở đất Bắc vô
đàng trong khai thác đất mới. Vùng châu thổ sông
Hồng, vùng trung du, vùng thượng du Bắc Việt, vùng
biên giới, đồng bằng, núi non cao thấp, xa
gần khác nhau, giọng nói có khác nhau, khi vào trong Nam thì
định cư từng đợt một, từng
tỉnh một, theo chánh sách tằm ăn, nên giọng nói
từng tỉnh, từng vùng trong Nam cũng lại biến
đổi thêm chút nữa… Huế khác, Quảng Trị khác,
Quang Nam khác, Quảng Ngãi khác, Bình Định khác, Lục
Tĩnh khác… Giọng nói có
biến đổi và tiếng nói cũng khác biệt đôi
chút, theo thời gian. Trà Lũ đã
chứng minh..
….Tiếng Bắc
xưa nay vẫn được xem như là tiếng
gốc tiêu chuẫn, thực sự đã biến thái do
ảnh hưởng của tiếng Hán và sau nầy của
tiếng Âu Châu. Tiếng Việt nguyên thủy đã
từ miền Bắc theo chân lớp di
dân vào miền Nam. Khoa ngôn ngữ học đã cho thấy:
các di dân bao giờ cũng mang theo và
bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Cách đây mấy
trăm năm, những người di dân vào miền Nam này
thuộc gia đình vợ con lính tráng và những tù nhân
phải lưu đày. Tiếng nói của họ là tiếng
nói ban đầu, tiếng Việt tinh ròng và bình dân. Một
chứng cớ rõ ràng nhất về việc nầy là
tiếng Việt miền Nam có rất nhiều từ
giống y như tiếng người Mường miền
thượng du Bắc Việt. Mà
người Mường được coi là nhóm
người Việt cổ.
Anh John trưng dẫn một bằng chứng. Trong bài ca dao nói lên nỡi lòng
của anh con trai xứ Đàng Ngoài nhớ người yêu
đã vào xứ Đàng Trong, anh đã nói thế nầy :
Đường vô xứ Nghệ loanh quanh
Non xanh
nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh
cũng muốn vô
Sợ truông nhà
Hồ, sợ phá Tam Giang…
Trong mấy câu thơ nầy, tiếng Vô và tiếng
Thuơng là tiếng Bắc Kỳ rõ ràng chứ không
phải tiếng miền Nam đẻ ra sau nầy. Lời anh Bắc Kỳ mà. Tiếng Vô và
tiếng Thương nầy, cũng như trăm ngàn
tiếng Bắc khác, đã theo lớp di
dân từ Bắc vào Nam…
Đọc ngang đây tôi
thấy nhà văn Trà Lũ thiệt là có lý và đâm nhớ
lại một định luật căn bản của môn
ngữ học (linguistique) -dân tộc nào càng đi xa khỏi
quê hương thì càng giữ lấy cái gốc của quê
hương. Người miền Nam là
những người bỏ xứ ra đi vào các thế
kỷ 16, 17, 18… thì họ là những người giữ
lấy tiếng nói quê hương vào thời kỳ đó.
Còn ở đất Bắc quê hương gốc, thì ngôn
ngữ mỗi
ngày mỗi thay đổi, phát triển… Có
thể ví người miền Nam nói tiếng Việt khác
người Bắc, giống như dân Canada, dân Mỹ, Úc,
nói tiếng Anh, dân Quebecois nói tiếng Pháp, khác hẳn dân Anh
và dân Pháp chánh gốc.
Viết ngang đây
thì tôi sực nhớ tới chúng ta, những người
tỵ nạn xa xứ gần 30 năm nay, nếu có
dịp mà trở về quê hương, đôi lúc chúng ta
phải ngỡ ngàng vì mình và người trong xứ, nói
chuyện khác biệt nhau nhiều lắm. Khác biệt
về giọng nói như nhà văn Trà Lũ nhận xét: -Đó
là cái giọng the thé của người Hà Nội bây
giờ. Nó ngọng như người Mường nói
tiếng Kinh… Khi vợ tôi đến thăm và nghe vợ
tôi nói chuyện thì cụ ôm chầm lấy vợ tôi
rồi kêu ầm lên :’Các con ơi, các cháu
ơi, ra đây mà nghe tiếng Hà Nội nầy. Cô đây móùi thực là người Hà Nội và nói
đúng tiếng Hà Nội thời xưa nầy.”
Bà cụ nói -tiếng Hà Nội ngày
xưa, là muốn ám chỉ ngôn ngữ Hà Nội những
năm trước 1954. Có một nhạc sĩ đã nhận xét về
giọng Hà Nội bây giờ cao hơn ngày trước
một phần tư (1/4) octave. Cũng
vậy nếu bà con trong Nam bây giờ mà gặp chúng ta
từ Mỹ, Canada, Úc về thì họ sẽ kêu lên là chúng
ta nói đúng ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975. Nếu không khác biệt về giọng nói thì
cũng khác biệt nhau về tiếng nói. Có nhiều tiếng Việt bây giờ lạ lùng
lắm, trong đối thoại hoặc trên sách báo, chúng ta
hoàn toàn không hiểu. Hay
hay dở, đúng hay sai, phát triển hay thoái hóa, thời
gian sẽ gạn lọc… Duy có điều
chúng ta, những người tỵ nạn xa xứ có
thể tự hào -chúng ta là
những người bảo tồn nguồn gốc dân
tộc. (đọc
Mười Ngàn Năm, thuật chuyện cô Mùi, gốc gác
người Việt xa xăm ở Quảng Tây, Đất
Quê Ngoại, trang 167)
*
Sau khi đọc qua tất
cả các bài viết và ghi chép vài nhận xét chúng ta thấy
ngay sở trường Trà Lũ là viết theo
thể loại tùy bút, loại văn nầy có từ
thời Lê mạt Nguyễn sơ, cuối thế kỷ 18,
đầu thế kỷ 19.
Các tác phẩm buổi ấy phần nhiều ghi chép
những điều tác giả mắt thấy tai nghe, tùy bút là theo ngọn bút, gặp cái gì
chép cái ấy. Hai quyển
Vũ Trung Tùy Bút (theo ngọn bút viết
khi mưa) và Tang Thương Ngẫu Lục (ghi nhanh các
chuyện tang thương, viết chung với Nguyễn Án)
của Phạm Đình Hổ là hai tác phẩm tiêu biểu,
mẫu mực. Sau nầy
thể loại tùy bút là sở trường của nhà
văn Nguyễn Tuân (Chiếc Lư Đồng Mắt Cua,
Chùa Đàn, Vang Bóng Một Thời…
Tùy bút dễ
viết mà khó hay. Tại sao vậy? Bỡi vì khi viết một
truyện ngắn, tác giả phải suy nghĩ cho có
lớp lang, câu chuyện phải đặc biệt,
phải hấp dẫn, bên trong phải có một thông
điệp, phải có tình cảm đậm đà hoặc
tư tưởng cao xa để gởi gấm, bố
cục phải chặt chẽ, các ý tưởng phải
mạch lạc, thông suốt. Chuyện và văn không được giống
những gì người đi trước đã viết. Trong khi đó thì tùy bút không đòi
hỏi bất cứ điều gì, cứ đặt bút
xuống, thấy gì viết nấy, đôi khi không cần
đến mạch lạc, miễn sao tác giả và
độc giả vui thích là được. Đọc tùy
bút ta có cảm tưởng như đọc một
cuốn sổ tay, tác giả ghi những
điều chợt xảy ra trong óc hay nhân một việc
gì đó mà nhớ đến chuyện nầy chuyện kia…
Vì dễ viết và viết nhanh nên muốn cho
hay, cho xuất sắc là điều rất khó. Văn bản cần giản
dị nhưng phải làm sao đạt được tánh
chất sinh động và hấp dẫn, bộc lộ
được hết nét tài hoa, nét đặc thù... Nguyễn Tuân thành công lớn
được nhờ nét khinh thế ngạo vật, Võ
Phiến nhờ tánh thâm trầm, quan sát tỉ mỉ, tinh
tế… Hiện nay thì có Tưởng Năng
Tiến ngang tàng, cười cợt, châm biếm (Sổ Tay
Phó Thường Dân). Bùi
Bảo Trúc thông minh, sắc sảo, tài hoa (Thư Gởi
Bạn Ta)… Ở Canada mình cũng có hai nhà văn viết tùy
bút nổi danh, được mọi người yêu
mến, nhà văn Song Thao ở Montréal và nhà văn Trà Lũ
của chúng ta.
Ngòi bút Song Thao thì kỹ
lưỡng, tỉ mỉ, viết chuyện nào ra
chuyện đó, mỗi đề tài là một trọng tâm,
các tài liệu được dẫn chứng đầy
đủ, thượng thông thiên văn, hạ đạt
địa lý, trung quán nhân sự. Nhà văn tài hoa vùng
đất nói tiếng Tây thiệt là giỏi, bao nhiêu
chuyện của nhân gian nầy ông viết hết không
thiếu món ăn chơi nào. Ông gọi thể
loại tùy bút là chuyện phiếm. Phiếm có nghiã là
nói chơi, nói tào lao, nói bao đồng,
nói lông bông… Tuy là nói chơi mà nét tài hoa là
thiệt, nếu không thiệt tại sao có nhiều
người mê, không tin quí vị mua các quyển Phiếm (1,
2, 3, 4, 5…) mà xem qua cho biết.
Ngòi bút của Trà Lũ cũng tung hoành không kém Song Thao, nếu đem ra so
sánh thì không biết ai cao ai thấp, thôi đành phải
nhờ đến câu -xấu
đẹp tùy người đối diện. Nhà văn tài hoa của vùng
tiếng Anh xứ Canada cũng thiệt là giỏi,
chuyện đông, chuyện tây, chuyện kim,
chuyện cổ, ông đều biết hết không sót
một món nào. Nhưng khác
với cách viết xoáy vào trọng tâm đề tài của
nhà văn tiếng Tây kể trên, các câu chuyện trong bài
viết Trà Lũ thoắt biến thoắt hiện nối
tiếp nhau, xoay chuyển lẫn nhau, quấn quít lấy
nhau… độc giả không biết đâu mà rờ! Ta có thể ví Trà Lũ dẫn
dắt độc giả đi dạo phố Tàu, chưa
kịp nhìn ngắm, ăn uống cho đã thèm thì ông đã
kéo ngay đến tháp CN Tower cao nhứt thế giới,
vừa chưa kịp leo lên tháp ngắm thành phố Toronto
bát ngát dưới kia thì ông đưa chúng ta qua thác Niagara
Falls hùng vĩ, bụi nước của thác chưa
kịp làm ta ướt áo thì ông đã đẩy ta lên xe
đi nếm rượu tuyết ngọt lịm ở
thành phố cạnh bên…
Ưu điểm hay là khuyết
điểm, khó mà trả lời.
Nhưng mà cái tài hoa Trà Lũ là ở
chỗ đó. Tôi tin cách viết thoắt
biến thoắt hiện đó Trà Lũ vô tình mà đạt
được, tuy có mức độ. Tôi còn nhớ Kim Thánh
Thán khi phê bình Tam Quốc Chí đã khen cách viết của La
Quán Trung là thiên cổ kỳ văn. Gọi kỳ văn là nhờ tánh
cách -thoắt biến thoắt hiện, đương
đánh nhau long trời lỡ đất thì xoay qua nói
chuyện pháp thuật trừ ma ếm quỉ, vừa nói
chuyện mưu kế thì xoay qua bàn chuyện danh nho
tiết tháo, vừa bàn chuyện mỹ nhân xong thì nói
chuyện soán ngôi giết vua, vừa nói chuyện bói toán xong
thì quay qua thuốc men, mổ xẻ, vừa tả cảnh
quân reo ngựa hí vang vang thì xen vào cảnh đạp
tuyết bời bời, khoanh tay đứng chờ bậc
ẩn sĩ cao tọa… Vua, quan, anh hùng, gian hùng, mỹ nhân,
hòa thượng, đạo sĩ, y nho lý số,
cường hào ác bá và đám dân đen đủ mặt,…
thương yêu nhau, tranh giành nhau, chém giết nhau, không thiếu
một ai, không thiếu chuyện gì. Ai muốn tìm
hiểu sinh hoạt xã hội thời đó, cứ
đọc Tam Quốc Chí sẽ biết rõ ngọn
nguồn. Hiện tại
chúng ta cũng có ngọn bút Trà Lũ tung hoành trên các báo, liên
miên bất tuyệt, những ai muốn tìm hiểu Canada
với tất cả mọi sinh hoạt văn học,
chánh trị, kinh tế, xã hội,… thì nên tìm đọc sách
của Trà Lũ.
Đọc sách
của nhà văn Trà Lũ vừa vui vừa bổ ích. Vui là vì cây viết có
duyên, bất cứ bài nào, đoạn nào, dầu ai khó tánh
đến đâu cũng không thể đọc qua mà không
buột cười cho được. Bổ ích vì
kiến thức được cập nhật hằng
ngày, những tin tức đặc biệt trên thế
giới đều có đủ, hơn nữa sự
hiểu biết của tác giả sâu rộng, những
nhận xét ly kỳ, từng chữ từng câu gợi cho
ta nhớ lại chuyện xưa, giúp ta biết thêm chuyện
mới bây giờ. Những
cuốn sách có chữ Đất làm nhan đề của
nhà văn Trà Lũ ích lợi như vậy, vui tươi
như vậy, tại sao các bạn lại chưa có, ngoài
hội trường trưa nay, để bán nhiều
lắm với chữ ký tặng của tác giả
nữa. Xin được hân
hạnh kính mời !
VÕ KỲ ĐIỀN
(Trung Tâm Cộng Đồng
St. Christopher Toronto, ngày 6 tháng năm 2006)