Vài nét lạ

trong thơ Lưu Nguyễn

 

Vơ Kỳ Điền

 

Tôi nhớ ở bên Trung Hoa vào thế kỷ thứ sáu, Lưu Hiệp  tác giả quyển phê b́nh văn học đầu tiên, quyển Văn Tâm Điêu Long, đă từng ví von: làm thơ khó như chuyện vẽ rồng. Tại sao khó? V́ con rồng là vật của trí tưởng tượng, không có thiệt. Vậy làm sao để vẽ cho đúng? Chuyện làm thơ đă khó, việc phê b́nh thơ lại khó hơn nữa. Phê b́nh thơ như cầm dao mổ bụng rồng để coi trái tim nó. Quư vị thử tưởng tượng coi, tôi phải làm sao đây?

 

Ngoài cái khó đó ra, c̣n thêm một  nỗi nữa. hồi nào tới giờ tôi chưa làm được một câu thơ, nói chi tới một  bài. Chưa từng làm thơ mà đi nhận định thơ của người khác, có khác nào câu tục ngữ Trung Hoa nói: ‘vị tha nhân tác giá y thường» nghĩa là ‘một cô gái già may áo cưới cho kẻ khác». Trong đời cổ có bận áo cưới lần nào đâu – mà chưa bận áo cưới th́ biết được cái áo nào vừa, áo nào không vừa, khéo hay không khéo? Thật t́nh làm chuyện tréo cẳng ngỗng. Cô dâu Lưu Nguyễn thấy tôi thường khoe kim chỉ dao kéo, cầm cái áo Tri Âm đưa cho nhờ coi khéo hay vụng. Tôi đành nhận lời không dám từ chối v́ sợ lộ cái dốt của ḿnh. Thôi th́ biết bao nhiêu, nói bấy nhiêu để tạ ḷng bạn tri âm.

 

Điều làm tôi ngạc nhiên đầu tiên là thơ Lưu Nguyễn phảng phất cái không khí ngày xưa. Cái thời của kẻ sĩ, của nhà nho. Đọc hai câu này, tôi chợt sững sờ:

 

khi im lặng, người với ta là bạn

bởi vô ngôn tự nó đă nhiệm màu.

(Cuộc rong chơi, 30)

 

Cái không khí đời Đường, đời Tống bàng bạc! Thế nào là mối t́nh cao quư? T́nh vua tôi, t́nh cha con, t́nh vợ chồng, t́nh bạn bè…Giữa hai người khi thương nhau, diễn tả t́nh thương bằng ngôn ngữ, thái độ ồn ào, hay ngồi im bên nhau để lắng nghe tiếng ḷng của nhau?  Người quân tử xưa kia hằng mấy năm không gặp, khi gặp nhau chỉ ngồi im lặng bên nhau cả giờ không nói, hoặc nói rất ít. Đức Khổng Tử nhấn mạnh điều đó ‘Quân tử giao t́nh đạm nhược thủy». Người quân tử nói chuyện với nhau lạt như nước lạnh. V́ nước êm ả nhẹ nhàng, không hương, không vị. Ông Đào Tiềm đời Tấn yêu hoa cúc v́ hoa cúc màu vàng nhạt không le lói sặc sỡ và hương chỉ thoảng nhẹ hầu như không có. Quân tử đàm giao như cúc- người quân tử nói chuyện, giao thiệp đơn giản như hoa cúc. Người quân tử không ưa hoa lan v́ hoa lan là vương giả chi hoa, không ưa mẫu đơn v́  mẫu đơn là phú quư chi hoa. Đă là bạn thâm t́nh th́ cần ǵ phải nói nhiều. và cái mầu nhiệm cao quư ở chỗ không nói đó. Chữ hay nhứt trong câu này là chữ ‘tự nó’. Lưu Nguyễn cũng đă bộc lộ cái nét nghệ sĩ tài hoa trong cái nh́n chiêm ngưỡng cái đẹp của cảnh vật thiên nhiên với những cảm xúc của nội tâm đơn thuần. Cảnh thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp tự nhiên của nó mà không có một gắng sức sửa đổi nào của thi nhân.

 

ḱa thu có phải là thu

sao ta cứ ngỡ mây mù cuối đông

rằng như có, rằng như không

cho ta một chút bềnh bồng lăng quên.

(Bềnh bồng, 85)

 

Đó là đặc tính của thơ Đường. Cái man mác của khí vị thơ Đường lảng vảng ở mỗi chữ, mỗi câu. Thơ Đường thường nhắc đến ánh trăng. Như trong bài Thiên Thai Tống Biệt lúc Lưu Nguyễn về trần, Tào Đường đă làm hai câu kết như sau :

 

Trù tướng khê đầu ṭng thử biệt

Bích Sơn minh nguyệt chiếu thương đài.

(Đầu suối bâng khuâng t́nh cách biệt

Núi xanh rêu biếc ánh trăng đi)

 

Lưu Nguyễn đời nay cũng nhắc đến ánh trăng:

 

thu xứ người ngập lá

kỷ vật chiếc thuyền con

bàng hoàng như khách lạ

trăng sáng rọi đầu non.

(Chiếc lá vàng rơi, 73)

 

Lưu Nguyễn nh́n thu quê người, cảm khái thân phận tỵ nạn, chàng đă từng lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ vượt đại dương, rồi sống lưu lạc nơi xứ người, nhưng cái hay ở đây không phải là cách làm thơ giống thơ Đường  (v́ có rất nhiều người làm thơ Đường mà không hay). Tôi muốn nói đến cái khí vị của thơ Đường ở câu «bàng hoàng như khách lạ». Cái hay ở chữ khách lạ. Người tỵ nạn ở xa quê th́ tự nhiên đă là người khách lạ nơi ḿnh cư ngụ. Làm sao là khách quen được khi ḿnh khác màu da, màu tóc, khác tiếng nói, không người thân thích ruột rà… Nhưng cuộc sống mới không vui, nên tác giả quên mất không gian, quên mất thời gian, ngay tự bản thân cũng quên lửng không biết ḿnh là ai nữa. Bất chợt trong một đêm thu trăng sáng, nh́n thấy được lá vàng rơi ngập lối đi mới chợt tỉnh ra nhớ lại ḿnh đă là người khách lạ từ lâu lắm, đang sống xa quê hương nửa ṿng trái đất, đâm sửng sốt bàng hoàng. Cái cảm giác trống vắng bơ vơ. Toàn cảnh thiên nhiên cũng như trong ḷng, chỉ c̣n trơ ra ánh trăng sáng lạnh ngắt trên đầu núi. Hai chữ «khách lạ» đă khéo, nhưng chữ «như» lại càng khéo hơn. Nếu không đặt được chữ «như» ở đây th́ chữ «khách lạ» trở nên b́nh thường, đục mờ, lu câm. Lưu Nguyễn đă t́m ra chữ «như», đặt vào đúng chỗ, hai chữ «khách lạ» sáng lên, lấp lánh khiến toàn bài rực rỡ, trong suốt.

 

Nhưng nghệ thuật của Lưu Nguyễn c̣n nổi bật hơn trong những đoạn thơ với những tiết điệu kỳ lạ. Thơ khác với văn xuôi ở chỗ đặt cơ sở trên cảm giác về âm vận, tiết điệu. Cũng thời bao nhiêu chữ, bao nhiêu câu đó, phải lựa chỗ, lựa nơi, thêm chữ này, bớt chữ kia, sắp xếp làm sao tạo được cái cảm xúc bồi hồi cho người đọc. Mỗi chữ, mỗi lời phải xôn xao linh động. Từ cái tính chất xao xuyến chơi vơi đó, dẫn dắt độc giả vào cơi mông lung của cảm giác, chuyện khó như nhảy xuống nước ṃ trăng! Vậy mà Lưu Nguyễn làm được. Chúng ta cùng nhau đọc thử đoạn này:

 

vẫn có chút ngập ngừng trong ánh mắt

tay run run rượu sánh đổ tràn ly

trong hạnh phúc giữa đất trời quay quắt

thẹn thùng em khép bờ mi.

 

muốn là gió len qua từng sợi tóc

nhè nhẹ mơn man phiến má hồng

mỗi bận vui tan em có khóc

hong khô những giọt lệ nồng.

(Bài thơ cho em, 54)

 

Chúng ta đừng chú ư nhiều đến ư nghĩa của đoạn thơ, v́ chuyện hai  người yêu nhau, chuyện khóc lóc, chuyện uống rượu … thi nhân nào cũng thường nói tới. Cái mà chúng ta để ư là tiết điệu của câu thơ. Đoạn bốn câu trên, ba câu đầu mỗi câu tám chữ, câu cuối sáu.  Đoạn dưới, câu đầu tám chữ, hai câu kế bảy chữ và câu cuối cùng sáu chữ. Điều đó nói lên được cái tuyệt diệu của nghệ thuật bỏ lửng. Đương nói dài ḍng, bỏ lửng nửa vời, để tạo cái cảm giác chơi vơi ở người đọc người nghe, là một nghệ thuật rất cao. Cần ǵ phải nói nhiều, nói thêm nửa câu đă đủ ư. Cái phần c̣n lại để độc giả tưởng tượng thêm. Cái tưởng tượng bao giờ cũng hay hơn cái sự thật, cái chưa có bao giờ cũng hay hơn cái đă có… th́ như vậy, cái chữ mà ḿnh tưởng thiếu đó, tự nó đă đủ và quá hay. Nếu một người  mới tham gia vào làng thơ sẽ ráng mà kiếm thêm một chữ nào đó để thêm vô cho đủ. Các bạn tưởng tượng mà coi, câu thơ đó sẽ trở thành ra cái ǵ.

 

Nhưng cái tuyệt vời nhứt của nghệ thuật là sáng tạo. Sáng tạo ra ư, ra ngôn ngữ, ra vần điệu. Tôi thường để ư thấy thơ hay là thơ thường không nói thẳng vào ư chánh, mà nói quanh co mơ hồ, người nghe vẫn cảm thấy được ư mà thi nhân muốn nói. Điều này khá lạ lùng và tuyệt vời lắm. Nếu nói quá một chút th́ thơ hay thường là những câu không nghĩa hoặc những câu không rơ nghĩa, chỉ có âm thanh trầm bổng…vậy mà người  nghe cứ tưởng ḿnh hiểu được cái ư, cái t́nh của thi nhân gởi gắm. Trong đêm từ giă nhà để theo Mă Giám Sinh, Kiều đă nói :

 

Mai sau dầu có bao giờ

Đốt ḷ hương ấy so tơ phím nầy

 

Câu thơ đọc lên, ai cũng đều hiểu rơ - Mai này, chẳng may chị có mệnh hệ nào th́ em đốt ḷ trầm, ôm lấy đàn gảy lại bản nầy là nhớ đến chị. Thử phân tích, ta thấy là lạ. «Dầu có bao giờ» là sao? Câu này không có nghĩa ǵ hết. Chữ «mai sau» và «bây giờ» là hai tiếng đều chỉ thời gian, chữ «dầu có» đứng ở giữa lạc lơng. Đáng lẽ phải nói - Mai sau dầu có ra sao, mới đúng. V́ chữ ra sao được hiểu là sẽ chết chóc, đổ vỡ, tan nát như thế nào đó. Nhưng nếu viết như vậy th́ quá kém. Nhà thơ phải nắm lấy bất cứ  chữ nào đó, uốn nắn theo ư ḿnh muốn. Nguyễn Du thường làm điều này - chữ «bao giờ»  ở đây có nghĩa «ra sao». Cái thần t́nh của câu thơ là ở chỗ đó. Thi sĩ sử dụng âm thanh như phù thủy sử dụng âm binh. Ta thử đọc :

 

phương ấy có  lận đận

mấy năm thư chẳng về nhà.

(Phương ấy có người lận đận, 35)

 

Phương ấy là phương nào? Chỉ đọc câu trên, ta nghĩ là ở Việt Nam. Phương ấy là ở bên ấy, ở bên kia chớ không phải ở bên nầy Canada. Nhưng đọc câu dưới, mấy năm thư chẳng về nhà, th́ ta hiểu ngược lại liền. Phương ấy là khung trời Canada, nơi tác giả cư ngụ, v́ lận đận quê người nên không viết thơ.

 

Cái chữ «ấy» khiến câu thơ tuyệt vời, người Trung Hoa gọi những chữ như vậy là «nhăn tự». Chữ đó là con mắt, nó khiến cho gương mặt sáng long lanh. Cũng vậy,  chúng ta ngây ngất khi đọc tới câu :

 

mai em ở lại trường làm thầy dạy học

mai anh về như thể về không.

(Như thể về không, 46)

 

«Như thể về không» là như thế nào? Về không là ra về trong tay không có cái ǵ hết. Tiền bạc, sự nghiệp, t́nh yêu... tất cả đều không. Nhưng tại sao tác giả lại dùng chữ «Như thể»? đọc ngang đây, chúng ta hiểu ngược lại – h́nh như chưa phải là không tất cả. Vậy th́ c̣n có một thứ mơ hồ nhè nhẹ thoáng theo. Ta phải hiểu là nhà thơ không phải ra về tay không đâu. Có một thứ ǵ lưu luyến đẹp lắm quấn quưt theo măi đó. Tôi cảm thấy như vậy và tôi nghĩ tất cả các bạn đây đều cảm thấy như vậy.

 

Người thi sĩ như con tằm phải biết cách bắt lá dâu xanh biến thành tơ nơn. Chỉ có thi sĩ mới làm được điều đó và chỉ có thi sĩ mà thôi. Tôi đọc hết tập Tri Âm  trong niềm cảm xúc chơi vơi, quả thật tôi đă t́m được dáng rồng, tôi cũng chụp bắt được một vài nét lạ.  Phải bao nhiêu năm Lưu Nguyễn mới làm được tập Tri Âm? Năm năm? Mười năm? Có  người  cho rằng như vậy là quá lâu. Tôi th́ không lưu ư đến thời gian dài hay ngắn, miễn là thơ hay. Có nhiều thi sĩ nổi tiếng chỉ làm một bài trong đời. Huống chi Lưu Nguyễn có cả một tập thơ tuyệt vời. Tôi xin kết luận bằng bài thơ của Giả Đảo đời Đường:

 

Nhị cú tam niên đắc

Nhất ngâm song lệ lưu

Tri âm như bất thưởng

Qui ngọa cố sơn thu.

 

(Hai câu làm trong ba năm

Khi ngâm lên hai ḍng lệ chảy

Nếu bạn tri âm không khen được

Th́ ta trở về nằm lỳ trong núi mùa thu)

 

Vơ Kỳ Điền

(Montréal, 17 tháng 11 năm 1990)