Vơ Phiến
GIỚI THIỆU THƠ CAO
TẦN
Gần
đúng hai mươi năm sau ngày chúng ta bỏ
nước ra đi, tờ báo Bút Lửa số 1 tung ra hai bài thơ lạ lùng của một
tên tuổi lạ hoắc: Cao Tần.
Thơ Cao Tần được tán
thưởng ngay. Nó gây chấn động. Nó
thành một biến cố trong sinh hoạt văn nghệ
tha phương. Trong giới độc giả và
giới cầm bút nổi lên một thắc mắc:
“Thơ hay đấy, ‘tới’ lắm, Nhưng Cao Tần
là ai vậy ?”
Cao
Tần hành tung bí mật như T.T.Kh, v́
vậy người ta e rằng rồi cũng chỉ
thoảng qua trên thi đàn trong chốc lát như T.T.Kh.
Nhưng không, Từ số nọ sang số kia, Bút Lửa
tiếp tục đăng thơ Cao Tần gần một
năm trời. Và thơ ấy càng ngày càng “:tới”.
Nó không phải là một phút ngẫu nhiên may mắn, mà
dần dần chứng minh một tài năng có bản lănh
vững vàng. Vào khoảng tháng 11-1977 nhà văn Mặc
Đỗ, “riêng nhắc Cao Tần: Cảm lắm”. Sau
đó, nếu nhà văn c̣n theo dơi, c̣n
đọc nữa, chắc chắn sẽ c̣n “cảm”
hơn nữa.
V́ kỹ thuật làm báo, Bút Lửa đă
dành cho Cao Tần một sự xuất hiện đột
ngột, cố ư gây một kinh ngạc. Thực ra sau này chúng ta lần lần
nhận thấy sự ngạc nhiên của độc
giả không hẳn chỉ là kết quả do kỹ
thuật nghề nghiệp: Trong bản chất thơ Cao
Tần vẫn có cái ǵ đột ngột, luôn luôn khiến
người đọc ngạc nhiên.
Cái ấy trước hết là
đề tài. Nhiều bài
thơ của Cao Tần được kết cấu
như truyện, những câu chuyện khá ly kỳ: hai
người bạn tịnh khẩu uống t́ t́ giữa sa
mạc; truyện chàng cù lần có cái túi nhỏ; truyện
dăm thằng khùng bàn chuyện vá trời; kẻ
vượt suối trèo non về nước phất
cờ khởi nghĩa như “hùm
thiêng cựa móng thét rung trời” người leo lên
tượng Thần Tự Do Mỹ quốc tự
đốt ḿnh làm lửa sáng để soi t́m đáy
biển “những oan ồn ai
bỏ giữa bao la” vv..
Cái đột ngột ấy lại
ở những h́nh ảnh độc đáo, ư tưởng
bất ngờ. Hoặc
về những lá thư gời từ Sài
G̣n qua ngoại quốc, vừa phải ca ngợi cách
mạng, vừa tiết lộ sự thực bi đát qua
lời lẽ úp mở:
“thư quê hương như tên hề ốm nặng
hồn
tang thương sau mặt nạ tươi cười”
kẻ
tha hương bảo vợ thay v́ viết lách quanh co, hăy
gửi vài sợi tóc mẹ già, gửi viên sỏi nhỏ
bên đường....
“và gửi cho anh một tờ giấy
trắng
thấm nước trời quê qua
mái dột đêm mưa
để anh đọc mênh mông
đời lạnh vắng
em tiếc thương hoài ấm áp
gối chăn xưa”
Hoặc về tấm h́nh nhợt
nhạt trên thẻ căn cước mà mỗi chúng ta c̣n
mang
theo:
“Ôi trong ví mỗi
người dân mất nước
c̣n một oan hồn mặt mũi
ngu ngơ”
Cái
đột ngột c̣n ở những lời những
chữ, những cách nói không thường thấy trong
văn chương, càng không thường trong thi ca:
“Mày
có linh thiêng qua đây tao cúng
Một chầu phim X, một quả tắm hơi”
“...Cũng ngất ngư đời như con...củ
khoai”
Chắc
chắn sẽ có lời cật vấn “cái đột
ngột th́ dính dáng ǵ đến giá tri thi ca ?”
Quả vậy. Thật khó xác nhận rằng thơ hay
là thơ kỳ lạ, mặc dù xưa nay không hiếm
những trường hợp thi nhân đua nhau biểu
diễn các tṛ quái đản, tự dưng điên
loạn, đ̣i uống ánh sáng, bay lên trăng, đớp
các v́ sao v.v...
Đột ngột kỳ lạ, có
thể không phải là một giá trị. Nhưng ai biết được chính
xác đâu là những yếu tố làm nên giá trị của
thơ, gây nên xúc cảm thơ ? Chẳng qua thi ca là địa hạt của t́nh
cảm, của tưởng tượng, và nhà thơ
vẫn khoái chứng tỏ một sức tưởng
tượng phóng khoáng phi phàm, ai nấy ra sức
vượt thoát ra khỏi khuôn sáo tầm thường.
Giữa những kẻ đớp sao uống trăng vv...Cao Tần không chọn kiểu quái dị nhất.
Vậy mà Cao Tần vẫn gây được
cảm tưởng đột ngột độc đáo.
Có phải chính v́ thế mà cái kỳ lạ này đâm ra ít sáo
hơn cả ?
Tứ
thơ lạ, câu thơ đẹp – trong hoàn cảnh
một cuộc sống thanh b́nh tại quê hương,
đó hẳn là những mong ước của kẻ
chọn nghiệp thi ca. Những cái ấy đều có
ở Cao Tần. Nhưng trong cảnh ngộ lưu lạc
hiện nay, liệu c̣n có ai cầm bút chỉ v́ những lư
do nghệ thuật như thế ? Và trong số độc
giả liệu mấy ai c̣n t́m đọc thơ v́ tứ
lạ lời hay ?
Chắc
chắn khi nhà văn Mặc Đỗ “cảm” Cao Tần,
cái cảm ấy không v́ một h́nh thức nghệ
thuật độc đáo hay điêu luyện. Cái hấp dẫn của Cao Tần đó là một
tâm sự vừa bi thống vừa phẫn uất, một
phong thái ngang tàng tuyệt vọng. Người tị
nạn nh́n vào thơ Cao Tần niềm đau đớn
xót xa: niềm đau
của ḿnh; thấy nỗi cay đắng,
nỗi cay đắng của ḿnh, thấy chán nản mênh
mông: của ḿnh... Và trên chừng ấy nét tâm trạng
của chính ḿnh là một khí phách hào hùng, dù là cái hào hùng
của người lâm vào mạt lộ.
Nghĩ
đến cảnh sa cơ lỡ
vận, người thơ cười: “ông thượng đẳng cu li” Nói đến
một phi công thấy thế, lại cười: “Đời khốn kiếp
đă quăng ông xuống đất”. Kể chuyện
một người trân trọng giữ từng chút kỷ
niệm của mẹ, của vợ, của bạn bè trong
cái túi nhỏ kè kè mang theo ḿnh, lại cười: đó là
chàng cù lần ! Trong thơ
Cao Tần thường ẩn hiện nụ cười,
cười như người Việt nam vẫn
cười trong tận cùng cay đắng. Đối
với người ngoại quốc đang sống chung
quanh ta không biết họ thấy thế nào; riêng
đối với chúng ta tiếng cười ấy làm xao
xuyến đến tận đáy tâm hồn, cách xa quê
hương muôn vạn dặm, có thơ Cao Tần lúc
đau đớn ta “được” đau đớn trong
cách thế biểu hiện đặc biệt của dân
tộc. Chẳng cũng khoái sao ?
Cao Tần cười cay đắng, nói
huyênh hoang ngạo mạn, lắm khi đến tục
tằn, như thế chỉ v́ không muốn phơi bày
chỗ thảm hại.
Sự thực phía sau tiếng cười ấy, phía sau cái
nghêng ngang ấy là một cảnh thảm hại: chỗ
gặp gỡ chung của chúng ta. Gặp gỡ để thương nhau.
Con
người cười cợt ngạo nghễ có thể
là người “yếu” hơn bất cứ ai khác. Năm
chàng tráng sĩ họp nhau bàn chuyện lớn suốt
đêm, quất ngă la liệt nhiều chai rượu
mạnh, để rồi mờ sáng hôm sau:
Sàn
gác trọ những tâm hồn băo nổi
những hào hùng uất hận
gối lên nhau
kẻ thức tỉnh ngu ngơ
nh́n nắng mới
“ta làm ǵ cho hết nửa
đời sau ?”
Chàng cù lần bị
giật cái túi nhỏ bí mật:
“Cù
lần dọa đêm nay đâm chết hết
Ôi ví dầu chú mở được tim
anh
chú cũng thấy một kho tàng
thắm thiết
với khăn tay nhàu nát chữ thêu
xanh...”
Cái
nghêng ngang bên ngoài, chỉ đẹp v́ “cái kho tàng thắm
thiết” bên trong.. Nếu
không thế nó vô duyên biết mấy.
Kho
tàng của Cao Tần chưa mở hết - thời gian
xuất hiện trên thi đàn của Cao Tần c̣n quá
ngắn với một đời văn thơ- tuy nhiên
chúng ta đă bắt gặp bao nhiêu cái thắm thiết:
hoặc những nhớ nhung hướng về từng
chiếc ghế công viên, từng cái tháp chuông nhà thờ,
từng viên gạch vỡ ở góc vườn quê xưa,
v́:
“Dưới
ghế công viên anh giấu thời thơ dại
trên tháp nhà thờ anh giấu niềm
tin
trong vườn cũ anh giấu
thời hạnh phúc
nơi nụ cười em anh giâu
trái tim”
Hoặc
những thắc mắc vẩn vơ: ở cái xứ
sở muôn trùng xa cách, ở nơi thành phố ḿnh đă
rời bỏ đi không hẹn ngày về buổi sáng hôm
nay những ai đang bước đi trên con
đường quen thuộc trước nhà ḿnh
? đêm nay ai ngồi trên ngồi
đồi thở mùi gió thông mà ḿnh nhớ quay quắt ? và:
chú nào ngồi
trước hiên nhà ta chiều nay
nghe mưa Sài G̣n rạt rào thơm
mát
sau một ngày nắng lóa chín
từng mây
những mái tôn mưa cười
ran hạnh phúc
Trong thơ Cao Tần có cái cao ngạo
của tráng sĩ lẫn cái yếu đuối vô vàn
của chàng Cù Lần. Và đó cũng là hai khía cạnh
của mỗi một tâm hồn di tản tha hương. “cảm” nhau v́
thế.
Ô, mối cảm thông thảm thiết
giữa những tráng sĩ...Cù Lần.
Trường
hợp thơ Cao Tần gợi lên một vấn
đề: khả năng sáng tác của người di
tản lưu lạc. Đầu tháng tư năm ngoái,
tạp chí Newsweek có bài kiểm điểm về cái thế
giới thầm lặng của di dân: từ 1972 đến
nay, nhà cầm quyền Xô Viết đă cưởng bức
tống xuất “gần
trọn một thế hệ những văn nghệ sĩ
xuất sắt nhất của nước Nga.” thực
hiện “cuộc thanh trừng
văn học lớn lao nhất kề từ thời
Sataline”, và những văn nghệ sĩ nọ đă
mất sức sáng tạo khi ra khỏi nước.
Thi sĩ Alekxandr Galich kêu rằng ở
Paris họ mất ngôn ngữ và tất cả xung quanh
đều câm nín, họ sống giữa một thế
giới câm. Phong phú như
Alikxandr Solzenitsyn, tiếng rằng tiếp tục viết
hăng vẫn không thấy cho in được ǵ đáng
kể sau 1974. Vladimir maximov vừa xuất bản tờ
tạp chí của di dân Nga vừa bảo: “bây giờ chuyện làm người quan trọng
hơn chuyện làm nhà văn”
Jerry
Kosinski, nhà văn di cư Ba Lan thành công
bằng các tác phẩm Anh ngữ, đă mỉa mai các
đồng nghiệp Nga nọ: Thay v́ viết lách, họ
ngồi trong các quán cà phê Pháp mà nói tiếng Nga, bàn chuyện
giải phóng cố quốc. Thoát ra khỏi
một tù ngục, họ lại tự giam ḿnh vào một tù
ngục khác, cái tù ngục của thứ ngôn ngữ và
văn hoá riêng biệt của họ.
Chúng
ta lo lắng: Thế giới Tây phương quanh ḿnh
đối với chúng ta càng câm lặng
hơn
là đối với các nghệ sĩ Nga. Có phải do
đó mà thắc mắc “Cao Tần là ai ?”
Câu
hỏi ấy chứng tỏ người ta không tin
cuộc sống di cư có thể là khung cảnh xuất
hiện một tài năng mới...
Trong
lúc chúng ta đang suy nghĩ về một sự may mắn
xảy đến trong sinh hoạt văn nghệ ly
hương của Việt Nam th́ thi sĩ Minoru Fujita từ
Los Angeles bay về Đông Kinh để đọc
trước Nhật Hoàng bài đoản ca của ông trong
dịp đầu năm. (Đó là một tục lệ
đă có từ lâu đời: hàng năm nước
Nhật chọn lấy mười bài hay nhất trong
số nhiều đoản ca được viết ra
khắp trong và ngoài nước. Tết đến trong
một buổi lễ long trọng các tác giả
được mời vào hoàng cung tự ḿnh ngâm thơ
trưóc mặt vua. Minoru Fujita là thi sĩ
hết sức hiếm hoi thành công ở hải ngoại.
Người thi sĩ ấy lại đoạt
được cái vinh dự này những hai lần: một
lần vào năm 1971, lần nữa năm 1977. Fujita xa quê hương từ 1953, tức đă
gần một phần tư thế kỷ. Ngày ấy ông chưa từng làm thơ.
Tại sao cái năng khiếu đối với loạt thơ
cổ điển có một lịch sử xưa hàng ngh́n
năm lại bỗng dưng nảy sinh rồi phát
triển rực rỡ nơi người cựu thủy
thủ sống trong hoàn cảnh tha hương
? Cuộc đời vẫn dành quyền thỉnh
thoảng tung ra một chuyện lạ
thường, khó hiểu).
Fujita
khiến Cao Tần không đến nỗi kỳ quái;
nhưng liệu có khiến nổi những người
cầm bút lưu vong của Việt Nam trở nên lạc quan ?
Nghĩ
ngợi về trường hợp Fujita, một kư giả
của tờ Los Angeles Times đă t́m gặp môt bài
đoản ca Nhật mà ông dịch:
I
no longer know
What they are saying
In my native land
But I know the flowers
Smell the same
Một người lưu lạc lâu
năm, biết rằng quê hương đă trải qua
nhiều biến đổi, biết ḿnh đă xa lạc các
vấn đề xă hội cũ đến nỗi không c̣n
biết nơi cố quốc đồng bào đang suy
nghĩ về những ǵ, đang nói năng những ǵ
nữa. Dù sao người
ấy c̣n thấy có
điều an ủi là ở nơi đó hoa
xưa vẫn toả mùi hương cũ: cái ấy th́ muôn
đời không thay đổi.
Thời gian Cao Tần xa nưóc chỉ
bằng một phần mười thời gian của
Fujita. Thế nhưng
sự cách biệt giữa Việt Nam hiện nay với Cao
Tần, với chúng ta, lớn lao hơn nhiều: chẳng
những bộ mặt xă hội đổi khác, tâm lư con
người, mà tư tưởng ngôn ngữ ở
nước ta cũng đổi khác. Thật vậy, cái
tiếng nói mới do cách mạng đưa vào Sài G̣n
gần đây khác trước nhiều chứ:
Quê
xưa người đổi tiếng người
trước sau hoa vẫn một
mùi hoa thơm
Và
thế là ông Fujita cứ yên trí làm thơ, và làm thơ hay, và
thơ ông được tán thưởng cả trong
lẫn ngoài nưóc.
Cao Tần không có được hoàn
cảnh ấy.
Người cầm bút Việt Nam lưu vong không có
được hoàn cảnh ấy, Hoa quê hương
vẫn thơm một mùi, nhưng
ngửi hoa bây giờ phải có lập trường,
một lập trường ngửi hoa mới lạ. Bị bức tường lập trường
ngăn cách hoàn toàn đường giao tiếp với quê
hương. Cao Tần vừa làm thơ vửa kêu
hoảng:
Tiếng
Việt trong ta ngày mỗi héo
hồn Việt trong ta
ngày mỗi khô
Dù đang thành công Cao Tần không
lạc quan nổi, không hề lạc quan chút nào; tuy vậy
thơ Cao Tần nhất thời cũng tránh cho chúng ta
một cảnh trạng rất đáng bi quan.Bởi v́ làm
thơ trong cảnh sợ...hết tiếng hết chữ,
chuyện đă đáng thương, nhưng đáng
thương hơn có lẽ là khi một tâp thể di dân
đông đảo và buồn thảm như chúng ta mà không có
được một tiếng thơ nói lên cảnh
ngộ của ḿnh.
Cao
Tần
Vơ
Phiến
1-1978