HƯƠNG MÁU

 

Nguyễn Văn Xuân

         Quả như lời viên đại tá, ông Hường có xuất hiện.
Và h́nh như ông xuất hiện cốt để bị bắt chứ không thể để thực hiện một kế hoạch quân sự như viên đại tá hốt hoảng lầm tưởng. Ông tự để bị bắt trong một cái miếu giữa đường Hội An - Đà Nẵng. Trường hợp của ông thuộc "quân quốc trọng sự" nên phải tống giao ngay cho viện Cơ Mật và Ṭa Khâm xét xử. Lính tập Hội An lập tức tăng cường việc canh gác. Người ta tíu tít đóng cũi - một cái cũi khá lớn - để giải ông và người con trai bị bắt trước ông. Cậu này mới khoảng mười lăm, mười sáu . Cả tỉnh đều xôn xao, bàn tán về biến cố quan trọng mà họ không chờ đợi này v́ họ vẫn c̣n nuôi khá nhiều ảo vọng về ông.

          Tối hôm giải ông ra Huế, ông cử Lê gọi tôi vào mật pḥng và trầm ngâm khá lâu trước khi bảo tôi:

          - Cậu chắc hiểu được cái cảm t́nh sâu xa của thầy đối với ông Phan, ông Nguyễn. Bấy giờ, ông Nguyễn bị bắt như thế, thật là mối thương tâm, tuyệt vọng chung cho cả quốc dân. Nhưng thầy không muốn để Triều đ́nh tra tấn ông và không muốn con người cao qúi, anh hùng , cương trực nhường ấy, can đảm nhường ấy phải chết nhục dưới lưỡi gươm của tụi đao phủ hèn kém. Vậy, cậu hăy giúp thầy một việc...

          Ông rút từ dưới gối một cái dùi nhọn, bén ngọt, dài chừng hơn một tấc, ở chuôi có cái cán bằng gỗ.

          - Cậu hăy tùy nghi giao cái này cho ông để ông tự xử trên đường, khi cậu cùng đi ra Huế với ông.
          - Con sẽ đi Huế ?
          - Cả thầy, thầy cũng đi mang hồ sơ theo. Nhưng nếu thầy lại gần tù xa th́ không tiện vậy chỉ có cậu là lui tới dễ dàng theo sự điều khiển của thầy. Cậu cứ đưa và rủi có chuyện ǵ, thầy đă có cách.

          Tôi lặng lẽ cất cái dùi nhọn trong ḿnh. Trên đường đi, tôi chờ cơ hội thuận tiện. Kể ra cơ hội thuận tiện thật nhiều v́ mọi công việc cung cấp thức ăn, nước uống...đều do ông Lê định đoạt. Nhưng tôi vẫn chờ một buổi nào đó mà hành động của tôi không thể bị tiết lộ. Vào một bữa ăn tối, khi mấy người lính được ông Lê gọi lại để cho thuốc hút, tôi kẹp mũi dùi xuống dưới cái mâm gỗ đựng các thức ăn rồi mang lên cho ông Hường. Ông lơ đễnh đỡ cái mân, không nh́n tôi. Tôi đằng hắng cốt để cho ông chú ư rồi đỡ cái mâm lên, đặt mũi dùi chạm tay ông. Ông hiểu ư ngay, ngạc nhiên quay phắt sang nh́n tôi. Trái tim tôi đập th́nh thịch. Không hiểu v́ tôi sợ quá, hăi hùng như chưa bao giờ, hay v́ đó là lần đầu, sau ba năm trường ao ước mà không toại nguyện th́ bất thần được sở nguyện: Ông nh́n tôi ! Ông nh́n tôi ! Nhưng chỉ một giây, h́nh như hiểu là không nên để lộ những t́nh cảm đáng nghi giữa hoàn cảnh này nên ông vội vàng nhận ngay mâm cơm, gật đầu ra vẽ cảm ơn, nhưng rơ ràng là để có cớ nh́n lại tôi . Trong cái nh́n sau này, tôi bắt chợt đôi mắt dịu dàng trái ngược với lối nh́n xẳng xớm, nảy lửa thường ngày. Và trong cái ánh sáng của mắt đó, tôi nghe như ông ngầm báo là h́nh như ông đă nhận ra tôi, h́nh như có biết tôi là ai, đă gặp ở đâu rồi và ông rất tin cẩn tôi. Ôi nói làm sao cho hết những xúc động, những xao xuyến rờn rợn trên ót, dưới ḷng bàn chân và trên da thịt tôi. Ba năm tranh đấu cũa tôi đâu phải vô ích. Nếu không có ba năm nằm gai mếm mật đó, làm sao giờ phút lớn lao này của lịch sử, tôi được vị anh hùng đó nh́n thông cảm bằng cái nh́n sâu tự đáy ḷng. Như thế, đâu có phải là cuộc sống sau này, về lâu về dài, tôi chẳng có cái ǵ để kể cho lũ con cháu nghe đâu ! Khi ông ăn xong, tôi đến mang cái mâm đi. Ông vờ cầm cây quạt lông lên phe phẩy, úp liền xuống chỗ cái mâm mới đỡ lên rồi đưa tay sữa soạn lại cái khăn đen "chữ nhân" cho nghiêm chỉnh. Tôi bước đi và có cái cảm tưởng cái nh́n đó đang lượn ở phía sau.

          Trong đêm ấy, nghĩa là suốt đoạn cuối cuộc hành tŕnh ấy, tôi và ông Lê cùng hồi hộp chờ đợi một vụ án mạng, một vụ tự sát thảm khốc nhưng hết sức oanh liệt. Tôi có cái nôn nao vừa hăi hùng, vừa tự hào của người tạo dựng lịch sử. Tôi chỉ chờ tiếng kêu tiếng thét để trở nên con người gắn liền với lịch sử. Nhưng lạ lùng và chẳng có việc ǵ xảy ra. Cuối cùng khi rời thuyền lên viện Cơ Mật, người ta bắt gặp cái dùi ấy từ cũi rớt ra ngoài...Người ta đoán là ông đă thủ cái dùi ấy từ trước, muốn dùng nó để tự sát như hầu hết các bậc phi thường trong tưởng tượng và bây giờ bị bại lộ, phải vứt ra ngoài. Lúc tôi mang chén nước lên cho ông lần cuối cùng, ông lại nh́n tôi và khẻ lắc đầu.

          Sau này, tôi mới sực nhớ và hiểu tại sao không không tự sát. Quả tự sát là ngu muội hèn nhát, và phản bội. Ngày ở trên Tân Tỉnh, ông đă chuẩn bị cái chết này như một kế hoạch trọng đại vừa bảo toàn sinh mạng các đảng nhân, vừa biểu lộ ư chí cứu quốc công khai, chứ không phải là chọn cái chết hèn mọn, dễ dàng. Chính ông cử Lê sau này cũng thở dài hối hận đă tính một nước cờ trẻ con, đă đem cái chí mỏng cạn của kẻ phàm phu để so với tư tưởng cao cả của nhà lănh tụ. V́ sau khi dự buổi xét xử tại viện Cơ Mật - buổi ấy tôi không được dự - Ông cử Lê đă nhận thức một cách đầy đủ về hành trạng của ông Hường. Ông Cử Lê cho biết ông Hường đă khẳng khái nhận hết cả những việc ông và tất cả kẻ khác đă làm. Ông cho rằng lấy tư cách là quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng, tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết v́ giáo điều ấy, lấy tư cách là quan địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đă được vua ủy nhiệm . Như thế là ông thừa mệnh vua và bắt tất cả kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu không muốn theo cũng không được. Sau khi tŕnh bày những lư lẽ chắc nịch ấy ông bằng ḷng chịu chết v́ trách cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan là đừng theo dơi và hành hạ trả thù những kẻ khác v́ họ chỉ bị động và họ đă quá đau khổ rồi.

          Các quan lại ở triều đ́nh nói cho đúng chỉ là bọn vô lư tưởng, chúa nào chúng thờ cũng được, thời nào chúng theo cũng xuôi. Chúng vốn ngầm sợ nhất là Nguyễn Hiệu. Nay bắt được Nguyễn Hiệu tức là phương Nam đă tạm b́nh định xong, chúng có thể yên tâm về mặt đó. Chặt đầu Nguyễn Hiệu, đó là một thắng lợi quyết định, và người ấy đă tự nhận hết tội lỗi th́ cũng đủ lắm rồi. Hơi đâu mà bới bèo ra bọ, không chừng rồi dân chúng lại nổi lên lung tung th́ càng thêm khốn. Thế là bản án xử trảm đă lập thành.

          Buổi sáng đưa ông ra pháp trường, người ta đặt ông vào một cái cũi khác, lớn hơn cái cũ. Ông ngồi trên một tấm cót tre, bên cạnh có bày sẵn hộp trầu, thuốc và theo yêu cầu của ông, cả một tờ giấy bạch và cây bút lông thượng hạng. Người con trai ông đă được đưa vào đề lao để chờ phát văng làm lính ở Quảng Ngăi.

          Dân chúng nghe tin bắt được đại thủ lĩnh "phiến loạn" và đem hành quyết th́ từ nguồn chí biển đều đổ xô về tới tấp. Họ dàn sẵn từ sáng sớm trên con đường tù nhân sẽ đi qua với tất cả nghêm trang của giờ lịch sử trọng đại. Họ chờ một con người như thế nào ? H́nh như vóc dáng, kích thước và tư thế một bậc anh hùng phải khác. V́ ở đây, họ chỉ gặp một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nh́n một ai, không một chú ư đến mọi động tĩnh chung quanh của đám dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng...Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nh́n vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Điều này khiến người ta phải nghĩ là ông lầm tưởng ḿnh đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải làm thơ tuyệt mệnh trong khi đi đến pháp trường.

          Tôi không cần tả lại dông dài cái giờ phút ông chấm dứt những bài thơ tuyệt bút để mỉm cười thọ h́nh. Nó cũng diễn ra theo cái truyền thống oanh oanh liệt liệt với nụ cười lặng lẽ của các chí sĩ Việt Nam. Cái chết không c̣n có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ " trung dung tựu nghĩa" để gây một xúc động bất tuyệt trong ḷng kẻ hậu sinh, cốt truyền tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt.

          Ḷng tin ấy quả không thể dứt được , nhất là khi tôi thấy nó trong đôi mắt ông Cử Lê hôm sau khi ở Viện Cơ Mật về và ông bí mật gọi tôi vào pḥng riêng. Ông vừa ứa nước mắt vừa mừng rỡ bảo tôi :

          - Quả là vận nước c̣n may lắm, cậu ạ. Thầy có được xem tận mắt hai bài thơ tuyệt mệnh thi của Nguyễn đại nhân. Chà ! cậu mà được thấy cái nét chữ vững vàng cứng cỏi như viết bằng mũi đinh, mũi thép đó, cậu mới hiểu. Chữ viết đẹp một cách ngang tàng mà không tỏ ra chỗ nào ẩn một nét rối loạn. Tiếc quá ! không biết làm sao cho cậu xem qua, liếc qua một chút thôi cũng được để cho cậu vững ḷng tin vào vận nước c̣n tốt lắm ! tốt lắm ! Nhưng mất cái nọ cậu lại được bù cái kia. Đây, thầy thuộc ḷng hết cả hai bài thơ, cậu lấy giấy bút để thầy đọc cho cậu chép. Nhớ lấy cây bút thầy mới mua và đừng run tay nghe.

          Tôi đă chép hai bài thơ và tôi xúc động nhất khi nghe đọc tới bốn câu chót của bài thứ hai và cũng là bài cuối cùng :

Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán
Đại hạ yên năng nhất mộc chi
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui

Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng
Nhà to, cột một khó ngăn ngừa
Về chầu liệt thánh ḷng son đấy
Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa

(Huỳnh Thúc Kháng dịch )

          Tôi có cảm tưởng thấy cây tùng cao vút mọc trên những dăy núi lạnh tôi từng đi qua, từng chiêm ngưỡng bỗng đỗ nhào xuống.

          Đêm ấy , tôi ngủ chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ rong ruỗi khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lănh phiến loạn dă chết.

          Nhưng đột nhiên những kỹ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy g̣ xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sững sốt chạy lại th́ thấy toàn những bộ mặt quen mà tôi đă gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tín mà chỉ thấy một chữ " Tiệp" rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù.

Nguyễn Văn Xuân