MA

 

Trần Tiêu

 

         Thủa nhỏ, tôi tin cả ma lẫn quỷ.

         Quỷ, theo trí tưởng tượng của tôi, là những quân đầu trâu mặt ngựa, hung ác vô ngần, có những cánh tay nổi đầy bắp thịt rắn như sắt, và những bàn tay gân guốc cầm những ḱm để cặp lưỡi, vặn răng, những bàn vả, những búa ŕu, những cưa để bổ xẻ tội nhân. Tôi liên tưởng đến những h́nh cụ ghê gớm như vạc dầu, cột đồng lửa… đến cả những cầu vồng với đàn chó ngao đứng chực sẵn dưới. Những h́nh ảnh kỳ quái, ghê sợ ấy không phải tự óc non nớt của tôi nghĩ ra, mà do ở những bức tranh treo ở chùa Huệ, mỗi khi có đám chay lập đàn phá ngục.

         C̣n Ma th́ mỗi lúc tôi tưởng tượng một khác, tùy theo câu chuyện người ta kể cho tôi nghe. Có lúc tôi tưởng tượng ra một người con gái xinh đẹp như một nàng tiên. Có lúc là một vị ác thần với nét mặt thay đổi đủ các h́nh kỳ quái, dữ tợn. Những sự tưởng tượng ấy in sâu măi vào óc tôi và nung đúc tôi thành một đứa trẻ nhút nhát. Nhưng tính tự đắc của tôi lại rất mănh liệt, có khi làm át hẳn tính nhút nhát của tôi đi.

 

         Tôi c̣n nhớ, một đêm tối trời và giá lạnh, anh tôi kể xong một chuyện ma. Rồi muốn thử xem trong chúng tôi có đứa nào bạo, anh tôi đặt ra một cuộc thi rất giản dị nhưng rất khó cho những tay nhút nhát.

         Cuộc thi như thế này: ở tận cùng vườn có cây ngâu. Ai ra tận đấy, bẻ được cành ngâu cầm về, sẽ được cuộc.

         Vừa nghe nói đến cây ngâu, tôi đă rủn cả người, rợn cả tóc gáy. V́ cây ngâu không cách cây sung mọc trên bờ ao mấy. Và cây sung đă nổi tiếng sẵn ma.Chúng tôi nh́n nhau. Xem chừng anh nào cũng muốn thi tài, song chẳng một anh nào dám nhúc nhích… Bỗng một anh ló đầu ra khỏi cửa lại thụt vào ngay, lè lưỡi, trợn mắt, tỏ vẻ sợ hăi.

         Sách, người anh họ đă lớn, đứng cạnh phỉnh tôi: “Ai chứ Tíu th́ bạo lắm. Đâu nó c̣n đi được nữa là từ đây đến cây ngâu.”

 

Anh tôi nói khích:

         - có các vàng cũng đố dám!

 

          Ḷng tự đắc của tôi bỗng sôi nổi. Mặt tôi nóng bừng v́ cơn tức khí. Không nghĩ ngợi, tôi chạy vụt ra sân, bước mạnh bạo vào trong vườn. Trời tối đen như mực. Tôi đâm choạng vào các bụi cây. Luống cuống, quên cả lối, ṃ măi chẳng t́m thấy cây ngâu. Trở về không th́ bẽ quá. Anh em c̣n ai cho ḿnh là bạo nữa. Họ sẽ thi nhau chế riễu ḿnh. Ḷng tự đắc bắt tôi t́m cho được cây ngâu, dù lúc ấy trí tôi rối loạn, chân tay tôi bủn rủn và quả tim tôi đập như trống ngũ liên. Vừa đi vừa sờ soạng, tôi lần ra tận gốc sung mà không biết. Sờ đến cái da xù x́ của nó, tôi giật ḿnh, lạnh toát cả người. May mà lúc ấy yên gió. Không một quả sung nào rụng, không một con ếch, con nhái nào nhẩy xuống ao. Thật, chỉ thêm một tiếng tơm, không biết tôi sẽ trở nên thế nào?

         Tôi bước giở lại, mồm luôn luôn đọc hai câu chữ nho: “Thiên tích thông minh, thành phù công dung.” Thường tôi vẫn thấy nói: ma bao giờ cũng sợ giời, sợ thần thánh, nên lúc nào đi đêm, tôi cũng nhẩm đọc hai câu ấy để làm bùa trừ tà.

         Cây ngâu cách cây sung có vài bước. Tôi t́m được, bẻ vội một cành. Cái mừng đắc thắng làm cho ḷng tôi bớt sợ. Song chỉ một loáng, đâu lại hoàn đấy. Cái sợ có phần tăng gấp bội. Hai cẳng chân tôi như bị chuột rút. Tôi cố dấn bước mà không sao dấn lên được. Đằng sau tôi như có người đuổi theo, tiếng chân nện th́nh thịch, sắp sửa vồ lấy tôi. Lúc ấy, nếu có ai hét một tiếng, chắc tôi sẽ ngă sấp xuống, chết ngất đi.

 

         Tôi được cuộc, được tiếng bạo nhất nhà, nhưng đă hao tổn bao nhiêu tinh thần. Từ đấy, nhiều phen tôi điêu đứng khổ sở về cái bạo bề ngoài. C̣n ǵ khổ bằng một anh tí hon nhát gan, làm ra mặt bạo. Động có cuộc thử thách là bắt buộc phải đến tôi. Nhát cũng được, nào ai cấm. Nhưng mà đă trót bạo mất rồi, không sao đủ can đảm mà thú thực ḿnh nhát được nữa.

         Một buổi chiều, t́nh cờ chúng tôi đứng trước một túp lều tranh bỏ hoang, ở sau trường học. Túp lều ấy, khi trước là nhà Cai trường. Từ khi hắn chết, người kế chân hắn sợ, không dám ở. Họ đồn nhà ấy có ma. V́ thế, chưa nói đến cuộc thi, tôi đă tái mặt, đau khổ như người sắp chịu tội. Trời ơi! ước ǵ anh tôi quên.

         Tôi chưa kịp lủi th́ anh tôi đă họp lũ trẻ lại, thách vào trong túp lều, đánh nhau với ma. Sách cũng có đấy. H́nh như giời sinh ra anh chỉ để làm khổ tôi. Anh quay ra nh́n tôi, nói: “Xem chừng ở đây lại chỉ có Tíu là bạo nhất. Quỷ nó c̣n chả sợ nữa là ma”.

 

Tôi t́m cách thoái thác:

- Cuộc thi phải có thưởng.

- Một xu nhé? – Anh tôi hỏi.

- Một xu th́ chả bơ.

- Thế bao nhiêu?

- Một hào.

 

         Tôi chắc không khi nào anh tôi chịu bỏ ra một hào. Như thế cuộc thi sẽ hoăn và tôi cũng không đến nỗi mất thể diện. Chẳng ngờ anh tôi nhận lời ngay. Làm thế nào? Đành nhắm mắt bước liều vậy. Trong nhà ba gian xiêu vẹo, tường vách kín như bưng. Và hôi hám và ẩm thấp, lạnh lẽo, rùng rợn như một nhà hầm chứa… ma. Tôi chưa kịp định thần th́ hàng chục con đom đóm lập ḷe bay loạn xạ. Không biết anh tôi bắt bỏ vào từ lúc nào? Con nào con ấy như sấn lại tôi, khiêu khích. Tôi liều mạng, đấm đá, quay tít đi mấy ṿng, rồi chạy vội ra ngoài thở hồng hộc.

         Anh tôi và lũ trẻ kêu lên: “Vừa mới thoáng một cái đă ra. Không được! Thua cuộc rồi!”

         Tôi làm ra mặt giận dỗi, vừa nói vừa lảng đi chỗ khác: “Tôi biết mà! Các anh đánh lừa.”.

         Đêm ấy và luôn mấy đêm liền, tôi chiêm bao thấy toàn ma, và mắt con nào con nấy tṛn xoe, đỏ như ḥn than hồng. Con kéo lên ngực bóp cổ, con nhe răng nhọn như răng bừa, con lè lưỡi dài lê thê. Tôi thất đởm, kêu ú ú, hai tay ôm chặt lấy anh tôi.

         Thầy tôi cho v́ âm hư huyết ráo, bốc thuốc cho tôi uống. Thầy tôi biết thuốc. Me tôi vẫn mê tín, cho là bệnh nhà người, mua vàng hương đi lễ các đền miếu. Chỉ có tôi là biết rơ bệnh tôi, song v́ ḷng tự đắc quá mạnh, không khi nào tôi chịu thú…

 

*

         Tôi đă lớn, đă theo học năm thứ nhất trường Bảo hộ. Nhờ về khoa học tôi đă hiểu biết, đă quả quyết nói là không có ma. Và những ma trơi, những thần đất chập chờn, đuổi nhau trên g̣ đống, chỉ là chất lân tinh ở hồ, ao tù hăm bốc lên, gặp dưỡng khí trong khí giời, bùng cháy. Tôi hiểu biết thế. Nhưng tính tôi vẫn nhút nhát sợ ma, sợ quỷ như xưa.

Lắm đêm, ngồi một ḿnh trong căn pḥng vắng vẻ, đèn sáng hẳn hoi, tôi thấy rờn rợn, tưởng một vật ghê gớm như một con ma ở trên nóc nhà sắp rơi phịch xuống, hoặc ở xó xỉnh hay trước mặt sắp hiện lên để hại tôi. Rồi thần hồn nát thần tính, một con chuột khẽ động dưới khe ḥm, một tiếng cú vẳng ngoài xa, cũng đủ làm cho tôi mất vía. Có khi chẳng cần phải có tiếng ǵ, tôi cũng sợ. Sau lưng tôi như có một quái vật đứng lù lù, chỉ chờ tôi ngoái cổ lại là trợn mặt, lè lưỡi ra nhát. Thế là tôi phải rời căn pḥng, t́m đến chỗ đông người. Nhiều khi, vấn tâm, tôi xấu hổ, tự bỉ sao ḿnh lại nhát gan đến thế. Hay là tính nhút nhát là một bệnh, một cố bệnh không sao chữa được? V́ hiện giờ, tôi thú thực, tôi vẫn c̣n tính nhút nhát, sợ ma, mặc dầu đầu óc suy xét của tôi tin rằng: người ta cũng như các sinh vật, một khi đă chết, xác thịt sẽ mục nát, tiêu tán đi. C̣n linh hồn hoặc không có, hoặc có th́ cũng khác nào như hơi thở, tan vào trong không khí, ḥa lẫn với các linh hồn khác; óc suy xét tôi tin rằng: không khi nào linh hồn lại hiện ra được thành người, thành quái vật để dọa nạt, hăm hại người sống.

         Ngoài tính nhút nhát, tôi c̣n một tính xấu nữa, là tính dễ tin, dễ thay đổi ư tưởng. V́ thế mà khi xem xong quyển sách thuyết về chủ nghĩa vật chất “Matériellisme”, tôi đă một dạo gần như bạo dạn, dám đi đêm một ḿnh. Đến khi xem hết bộ sách thần linh học “Spiritisme”, đồng cốt học “médiumnisme”, tôi lại trở lại nhút nhát quá trước.

 

*

 

         Năm 19… tôi xin thôi giáo học, xoay về quê nhà làm ruộng. Tôi thường giao thiệp với những ông Lư, ông Khán quê mùa cục mịch. Trong câu chuyện xă giao, họ hay kể đến chuyện ma quỷ.

          V́ họ mà tôi biết được trong làng tôi, ở xóm Cơi Hùng có con ma to lắm. Nó dám cả gan đè cả cụ Thượng làng tôi xuống cái rănh sâu, ngay sát khóm tre cu. Đồng Mộ Và những đêm giăng suông, nó uốn rập một cành tre xuống mặt đường. Ai vô ư bước qua, nó sẽ bật cành tre lên, như bật cần câu để làm cho người ta ngă dập đầu, vỡ sọ. Có khi nó d́m cả người ta xuống cái ao gần đấy.

         V́ họ mà tôi biết được ở trước quán Ngói có con ma chẳng kém con ma Cơi Hùng. Con này, chính ông Quản Sâm đă gặp. Theo lời ông kể, một hôm, một hôm giăng suông, ông đi thăm bệnh cho ông Chánh Bá làng Đoài, liền cạnh làng tôi. Đến quán Ngói, ông đâm phải vật ǵ nhũn nhũn, mềm mềm. Ông cúi xuống thấy một cái đầu lâu nh́n ông, nhe răng ra cười. Cái đầu lâu, trước c̣n bằng cái đầu thường, bỗng to ra bằng cái thủ lợn, rồi bằng cái thúng. Ông vốn là người trong đạo Gia tô, lại bạo có tiếng. Sẵn gậy, ông giơ lên, vụt một cái thật mạnh, mồm nói: “Giêsu ma, lạy chúa tôi!” Cái đầu lâu biến mất, chỉ c̣n trơ lại một ḥn đất thô. Ông bước qua, chẳng tỏ chút sợ hăi. Phục thật!

         Lại một ông, ông Xă Chưởng vừa mất năm ngoái, một buổi chiều, xâm xẩm tối, ông đi chợ Hạ Am về. Cũng đến quán Ngói, ông gặp một người con gái rất đẹp cắp thúng đi ngược lại. Ông nói ghẹo:

- “Cô đi đâu đấy? Muốn lấy tớ th́ về nhà với tớ.”

Cô con gái nhoẻn miệng cười, trả lời:

- “Vâng, ḿnh cứ về trước, rồi em về.”

Xă Chưởng về đến nhà, vào buồng đă thấy người con gái ban năy, ngồi trên giường, cười nói lả lơi:

- “Ḿnh về chậm thế? Em về trước ḿnh đă lâu,”

Vừa nói vừa ôm gh́ lấy Xă Chưởng hôn. Cặp môi cô ta ép vào má Xă Chưởng, lạnh buốt đến tận ruột. Từ đấy, đêm nào người con gái cũng hiện lên, nằm sát cạnh, lạnh như bùn.

Sau Xă Chưởng phải cầu cứu đến ông Pháp Rục, một thầy phù thủy cao tay có tiếng trong làng chữa chạy ba ngày ba đêm mới trừ được nó.

 

         V́ họ, tôi c̣n biết cây đa chợ Cầm, lối đi ra trường học, có một con ma tuy không ghê gớm bằng hai con kia nhưng cũng đáng sợ. Con này là vong hồn một người đàn bà chết đuối ở giếng chùa, gần đấy. Đêm đến, nó thường ngồi chồm chỗm trên cành đa, rũ tóc xuống tận đất. Người nào yếu bóng vía, nó sẽ giương đôi mắt xanh như mắt mèo và lè lưỡi dài lê thê ra nhát.

         C̣n, c̣n nhiều chuyện ma. Tôi không tin. Tin sao được những chuyện hoang đường vô lư như thế, trừ phi là trẻ con mê tín như tôi khi xưa. Nhưng mà một đêm về… phải, về tháng chạp, hai mươi mốt tháng chạp, năm 19… Tôi c̣n nhớ rơ ràng như vừa mới hôm qua vậy.

         Tôi đến ăn cơm đằng ông Giáo. Ăn xong, chúng tôi bày ra đánh cờ. Mải nghĩ nước cờ, lúc giở ra về th́ giời tối mịt. Ông Giáo ở ngay trường. Trường có hai buồng: một buồng học và một buồng ông dùng làm chỗ ở. Trong buồng vẻn vẹn có hai chiếc giường th́ một chiếc vợ chồng ông nằm c̣n chiếc phần người vú với thằng bé lên ba, con ông. Thằng nhỏ ốm, xin phép về từ ban sáng. T́nh h́nh như thế, ở lại bất tiện.Bên ngoài, giời mưa phùn và tối đen như mực. Gió bấc thổi từng cơn mạnh. Không dùng được đèn đóm. May sao bà Giáo, hôm rằm đi lễ, c̣n để lại một thẻ hương. Đành lấy hương thay đèn đóm vậy. Hai vợ chồng ông Giáo ái ngại hộ:

-“Giời mưa rét này mà về th́ khí phiền cho anh lắm nhỉ. Hay là…”

Tôi vẫn không bỏ được tính tự đắc, vội trả lời, không kịp nghĩ:

-“Không sao. Từ đây về nhà tôi cũng gần”.

Cổ áo tơi che kín má, tôi mạnh bạo bước xuống sân, một tay thọc trong túi, một tay cầm nắm hương cháy, khua đi khua lại cho sáng. Ông Giáo đứng trên thềm nói ra:

-“Rét lắm nhỉ!”

 

          Trời ơi! Nếu chỉ có rét.Đôi cánh cửa trường vừa khép th́ một chút mạnh bạo bám hờ lấy tôi, bay đi như một hơi thở. Khắp người tôi chỉ c̣n toàn sợ. Bao nhiêu sợi tóc trên đầu tôi dựng ngược cả lên. Hai hàm răng tôi thi nhau đập. Tay chân tôi run lật bật, cầm không chắc, đi không vững. Chốc chốc lại một khối đen hiện ra, lù lù tiến đến trước mặt tôi, làm tôi rùng ḿnh lùi lại mấy bước.Không bao giờ tôi thấy tôi cô độc, sợ hăi bằng lúc này. Người lạc vào trong rừng rậm, vừa đi vừa nghĩ đến ác thú c̣n hy vọng vào đôi mắt, vào tứ chi. Tôi chẳng c̣n hy vọng vào đâu. Trước mặt tôi, đằng sau tôi, chung quanh tôi, toàn bí mật của tối đen. Một tiếng xào xạc, một tiếng rền rĩ của côn trùng, một tiếng cỏ ẹp dưới gót chân cũng đủ khiến tâm hồn tôi kinh hoảng. Không hiểu sao, lúc ấy lại là lúc tôi giầu tưởng tượng quá. Và toàn những tưởng tượng ghê gớm về huyền bí. Tiếng thông chùa Đông, theo luồng gió bấc đưa lại là những tiếng than khóc bi ai của những linh hồn đau khổ, đương quằn quại dưới mồ. Những đom đóm lập ḷe trong tối là những con ma nghịch ngợm, từ dưới mà vụt lên để đi trêu ghẹo những người yếu bóng vía. Những tiếng kẽo kẹt của những gốc tre già cọ vào nhau là những tiếng nghiến răng của những con ma hung ác hay là những tiếng vơng đưa của một Bà Nàng trên rừng xanh, núi thẳm… Rồi bao nhiêu những chuyện ma người ta kể cho tôi từ thuở nhỏ, bỗng trở lại trong trí nhớ tôi.

Bực quá. Tôi cố nghĩ sang chuyện khác để xua đuổi cái ư nghĩ vô lư ấy đi mà không sao được. H́nh như nó xuất phát từ cảm giác yếu đuối của tôi và tâm tính tôi như không chịu theo cùng một điệu với trí xét đoán xác thực của tôi. Không c̣n cách ǵ hơn, tôi bèn huưt sáo… Chợt có tiếng động trong bụi tre. Nghĩ đến rắn, tôi hoảng sợ, im bặt. Rồi như một cuồng sĩ, tôi lảm nhảm nói triết lư một ḿnh, cốt để khỏi nghĩ. Vô hiệu. Mồm tôi vẫn nói, mà ư nghĩ, mà cảm giác, nhất là cảm giác vẫn ch́m đắm trong cái sợ vô biên…

- Thế là nghĩa lư ǵ? Chậc, mặc kệ! Cứ sợ đi. Cóc cần!… Liều!

Nói đoạn, tôi vứt bó hương, v́ bó hương với cái ánh sáng đỏ ḷm của nó xem chừng cũng vô ích. Hai tay thọc trong túi áo len, tôi vươn thẳng ḿnh, ưỡn ngực, bước mạnh bạo để cố chống với cái sợ, chẳng khác lúc đứng trên phà, chống với những cơn gió rét buốt thịt.

Chưa kịp thấy công hiệu th́ vài tiếng cú thất đảm kinh hồn báo trước tôi biết: tôi sắp đến chơ. Cầm và cái giếng chùa gần đấy. Một cảm giác rùng rợn chuyển khắp người tôi, làm cho da thịt tôi tê tái, tứ chi và gân cốt tôi rời rạc, bủn rủn.

- Sắp đến cây đa rồi nhỉ. Chả c̣n mấy bước nữa đến nhà. Tôi nói to để gợi hết can đảm, nhưng chỉ tổ làm cho tôi bối rối thêm.

Khó nghĩ quá. Tránh cây đa th́ lại gần cái giếng. Mà tránh cái giếng th́…

 

         Hú… ú… ú… Một tiếng hú ngân dài vang động cả một bầu trời đen, dầy đặc, vừa ai oán, vừa ghê rợn như tiếng… ma kêu. Tiếp liền sau, một chuỗi cười khanh khách… lạnh lẽo, khô sắc, rắn chắc như hai ống xương gơ vào nhau. Đấy là cảm giác của tôi về sau, khi nhớ lại, chứ lúc ấy hồn vía tôi bay đi đằng nào rồi, c̣n đâu. Hai chân tôi như cái máy đưa xác thịt tôi về phía cây đa. Một vật ǵ lơ lửng trên không, lơ thơ như tóc, bay tạt vào mặt tôi. Chết rồi! Tóc nó! Hai chân tôi lùi lại. Tiếng hú ngân dài và tiếng cười khanh khách vang lên lần nữa. Đầu tôi díu về đằng trước, hai chân tôi chạy bán sống bán chết. C̣n hai tay tôi làm ǵ? Mắt tôi thấy ǵ? Cảm giác, trí lực tôi thế nào? Làm sao tôi chạy về được đến nhà mà không vấp ngă? Tôi chịu, không sao biết được. Có lẽ v́ hằng ngày tôi đi lại nhiều lần, nên chân tôi bước đă quen, như bước chân thầy bói vậy. Phải, chắc thế. V́ hai bên đường có ao, có ruộng, có rănh, và đường có chỗ cong, chỗ rẽ vào nhà. Nếu không quen như thầy bói quen đường th́ sao thoát khỏi ngă.

 

         Bây giờ, nếu ai hỏi tôi: “Trong đời, anh bạo nhất lúc nào?” Tôi sẽ quả quyết trả lời là lúc ấy. Lúc ấy, mặc dầu đạn bay bom nổ ngay trước mắt, tôi cũng chẳng coi vào đâu. Tôi coi như không, v́ lẽ cố nhiên là tôi chẳng c̣n hồn vía, trí giác đâu nữa mà biết để mà sợ. Có lẽ những tên lính hùng mạnh, đánh giáp lá cà, dấn ḿnh trong mưa đạn, cũng đến như tôi lúc ấy mà thôi.

         Thấy tôi tái nhợt như cái xác, nhà tôi hốt hoảng nắm lấy cánh tay tôi hỏi dồn:

-“Chết chửa! Cậu làm sao thế? Có việc ǵ thế, cậu?”

Rồi quay ra giục đầy tớ:

-“Đóng ngay cổng lại, mày!

Tôi nằm vật xuống giường, nói như người thở hắt ra:

- Ma! Ma! Mợ ạ… Tôi gặp ma!

         Cái dáng điệu với giọng nói thành thực ấy khiến nhà tôi không thể không tin được, dẫu ngày thường không bao giờ tôi ngỏ ư sợ ma, không bao giờ tôi nói đến chuyện ma hay chuyện gặp mạ

         Tôi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau tôi hoàn hồn, và tối sau tôi bắt đầu sợ, sợ quá đến nỗi không lúc nào dám ngồi một ḿnh, dám rời khỏi nhà, dám bén mảng xuống bếp. Lúc đi ngủ, tôi đă nằm len vào giữa. Một bên nhà tôi, một bên thằng con nhỏ mà vẫn thấy rờn rợn. Mỗi luồng gió lọt qua khe cửa, tôi nghe như tiếng hú của con ma. Tiếng chuột rúc, tiếng dế kêu tôi nghe như tiếng cười khanh khách của nó. Chốc chốc tôi lại lay người nhà tôi dậy, hỏi vơ hỏi vẩn cốt để nhà tôi thức giấc.

 

         Cách vài hôm, vào ngày chủ nhật, tôi đến chơi ông Giáo, Giáp và Dần, bạn tôi cũng có đấy. Tôi đem chuyện ma ra kể. Ông Giáo không tin, cười nói:

         - Thôi đi, anh đừng thấy tôi ở vào chỗ hẻo lánh, gần tha ma mà đem ma ra dọa. Tôi chẳng sợ đâu.

         Giáp không cười, nói, giọng chân thật:

         - Có lẽ thật đấy, các anh ạ. Chính tôi cũng gặp ma một lần, mà cũng ở giếng Chùa gần cây đa chợ Cầm. Đêm ấy, cách đây độ… nửa tháng, giời sáng giăng hẳn hoi, tuy sáng lờ mờ. Tôi đi đến gần giếng, th́ thấy một cái bóng người ngồi xơa tóc trên bờ bên kia. Tôi dừng bước hỏi:

         - Ai? Cái bóng lừ lừ đứng dậy, lừ lừ đi đến cái tháp rồi biến mất.

Ông Giáo căi lại:

         - Chắc đâu là ma hay là người thật.

         - Đích thực ma chứ không phải người, v́ tôi thấy cái bóng nó mập mờ, ẩn hiện như ma, và người tôi lúc ấy thấy rờn rợn. Mọi lần đi đêm, có bao giờ tôi thấy rợn đâu.

          Ông Giáo nh́n Dần, nói, coi Dần như đă biểu đồng t́nh với ông vậy:

         - Cái đó th́ đă dĩ nhiên. V́ mọi lần anh Giáp tôi không có cái ǵ để mà rùng rợn, có phải không anh Dần?

         Dần từ năy vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, yên lặng ngồi nghe, bèn cất giọng nói thong thả: “Tôi chưa gặp ma bao giờ v́ lẽ không mấy khi đi đêm. Nhưng mà người ta thường nói: “hay đi đêm lắm có ngày gặp ma. Câu ấy có lẽ đúng.”

Ông Giáo chau mày, ném mẩu thuốc lá hút dở qua cửa sổ:
“Lại nhà triết học này nữa. Nhà triết học cũng tin nhảm như hai bác mê tín kia ư? Thế th́ hỏng, hỏng bét.”

          Dần nhếch mép cười, rút một điếu thuốc lá trong bao “ba tốt” để trên bàn, cầm dỗ mấy cái xuống mu bàn tay rồi bật diêm hút ba bốn hơi liền. Đoạn anh ung dung đáp lại:

         - Tin hẳn th́ không dám chắc, nhưng mà phân vân th́ có… Các anh đă đọc quyển “Spiritisme” chưa nhỉ. Anh Tíu th́ chắc đă xem rồi, v́ quyển sách ấy chính anh cho tôi mượn… Chưa à? Vậy các anh cũng nên đọc qua. Trong sách có nhiều đoạn họ viện khoa học ra thuyết đúng lư lắm, có phải không, anh Tíu nhỉ. Như đoạn… họ nói: linh hồn một khi đă thoát khỏi xác thịt, vẫn giữ được tính chất riêng của từng cá nhân, chứ không tan vào không trung như lời của phần nhiều nhà triết học khác. Theo thuyết họ th́ linh hồn c̣n có một chất bọc ngoài là “périsprit”. Chất ấy giữ cho linh hồn nguyên tính như khi c̣n tù hăm trong phần xác vậy. V́ thế mà có linh hồn cao siêu, linh hồn tầm thường, linh hồn hèn kém, linh hồn lương thiện, linh hồn hung ác, linh hồn giảo quyệt, nghịch ngợm, đủ hạng như đủ hạng người trên dương gian… Chả biết ư tưởng các anh thế nào, chứ tôi th́ tôi cho là phải.

         Ông Giáo xem chừng không phục cái thuyết ấy, nhưng v́ ṭ ṃ muốn nghe, nên ông cũng nói:

         - Được! Nhà triết học cứ thuyết đi.

         Giáp nghe có vẻ chăm chú lắm. C̣n tôi tuy đă đọc qua, cũng muốn nghe lại.

Dần uống vài ngụm nước nhấp giọng. Đoạn, anh nói tiếp:

         - Linh hồn có khi tan ra như không khí khiến mắt ta không nh́n thấy được. ấy là theo thuyết của họ chứ không phải thuyết của tôi đâu nhé, vừa nói anh vừa tủm tỉm cười. Có khi tụ lại như sương mù, có khi đọng lại thành h́nh tùy theo ư muốn của linh hồn. V́ thế mà ban đêm, thường trong sáng trăng suông, có người nh́n thấy linh hồn hiện h́nh tức là ma…

         Ông Giáo không nhịn được, ngắt lời:

         - Thuyết ấy vô lư lắm, tôi bất phục. Có lẽ nào đương vô h́nh mà lại thành h́nh, nhất là h́nh người…

         Giáp đương thích nghe, cản lại:

        - Th́ anh hăy để anh Dần nói nốt đă nào.

        Không nể lời bạn, ông Giáo c̣n chêm một câu hỏi nữa:

        - Thí dụ như con ma ngồi xơa tóc của anh Giáp. Vậy tóc lấy ở đâu ra? Lại c̣n có người thấy ma hiện thành con gái, cắp thúng. Vậy những thức ấy ở đâu ra hay cũng ở linh hồn là chất vô h́nh? Vô lư! Vô lư!

         Dần vẫn điềm tĩnh, bật diêm châm lại điếu thuốc hút dở rồi khoan thai đáp:

        - Xem đến đoạn ấy, tôi cũng nghĩ như anh Chữ (tên ông Giáo), nhưng mà, các anh ạ, vũ trụ của Tạo hóa… Chẳng nói ǵ vũ trụ, ngay cơi dương gian chúng ta đương sống đây, biết bao nhiêu sự mà ta cho là lạ lùng huyền bí. Song đối với Tạo hóa không có sự ǵ là huyền bí, lạ lùng cả. Chữ “surnaturel” chỉ là lời nói của ta đặt, những cái mà ta thấy khác thường với ta đó thôi: với Tạo hóa nó vẫn là thường “naturel”.

          Nghỉ một lát để hút thêm vài khói (Dần vốn nghiện thuốc lá và nghiện nặng). Đoạn anh nói tiếp:

         - Lại c̣n thuyết này nữa: cái ǵ có ở thế gian, ở trên quả đất của ta, đều có hết thẩy trong không trung. Thí dụ như nước. Theo phép thí nghiệm, là hai chất dưỡng khí và khinh khí (H2O) hợp lại mà thành ra. Hai chất ấy không ở không trung th́ ở đâu? Lấy một nhẽ ấy mà suy th́ hết thẩy, từ con vi trùng nhỏ nhỏ biến, cho chí các loài các giống, các đồ đạc, các thứ, đều là những chất “éléments” sẵn có trong không của Tạo hóa cả. Vậy th́ sao linh hồn, nhờ quyền phép của Tạo hóa, lại không lấy các chất cần dùng ở đấy mà lập thành ra được. Theo lư ấy, linh hồn có thể làm ra cái nhẫn vàng, hạt kim cương, đủ mọi thức tùy theo sở thích của linh hồn… Chắc các anh sẽ bẻ: Sao những thức ấy không thành thật được, nghĩa là không thành những thức mà ta có thể cầm trong tay, giữ lấy mà dùng được. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng đó lại là bí quyết của Tạo hóa. Ta chỉ nên lấy những việc xảy ra “les faits” mà xét đoán. Ma, tức linh hồn hiện h́nh đă xẩy ra. Anh Chữ không gặp. Tôi cũng không gặp. Nhưng mà anh Tíu, anh Giáp đă gặp, th́ tức cũng như chúng ta đă gặp vậy.

          Ông Giáo vốn có óc thiết thực, vẫn không chịu, căi lại:

         - Như thế nào được. Hai anh ấy sẵn có tính nhút nhát. Động đêm đến là sợ ma, lúc nào cũng nơm nớp gặp ma. Rồi tưởng tượng giúp trí nghĩ, khiến mắt các anh ấy nh́n ra h́nh người, h́nh quái vật, khiến tai các anh ấy nghe thấy đủ mọi thứ tiếng, như tiếng hú, tiếng cười khanh khách chẳng hạn. ừ ma, nói đến tiếng, tôi lại xin hỏi tiếng hú, tiếng cười khanh khách lấy ở đâu ra hay lại cũng ở không trung? Hay chính linh hồn kêu, linh hồn cười?

 Nói rồi anh đắc chí cười khanh khách.

         Dần vứt mẩu thuốc xuống đất, rút điếu khác hút, rồi điềm nhiên hỏi lại:

         - Tiếng máy hát ở đâu ra? Tất ở cái kim chuyển trên đĩa nhựa. Cái kim, đĩa nhựa đều hợp thành bởi những chất có sẵn trong không. Vậy th́ linh hồn có thể lấy ở đấy mà ra, lập thành tiếng hú, tiếng cười khanh khách.

 Nói rồi anh cũng cười trả lại. Đoạn anh tóm tắt:

         -Tạo hóa huyền bí vô cùng. Ta cũng là một huyền bí của Tạo hóa. Tạo hóa tạo ra ta, cho ta biết đến đâu, ta được biết đến đấy. Ta không thể lấy triết lư mong manh và kiêu hănh của ta mà quyết đoán được Tạo hóa.

 

         Cuộc đàm đạo đă thấy lâu. Sau chiếc b́nh phong, tiếng bát đũa chạm vào nhau lạch cạch. Bà Giáo ra vào, băn khoăn. Thằng nhỏ nói th́ thầm. Tôi biết ư đứng dậy. Dần, Giáp sực nhớ tới bữa ăn của nhà chủ, đứng dậy theo. Ông Giáo cũng đứng dậy nói:

         - Cứ kể căi lư với anh Dần th́ tôi căi măi được. Nhưng thuyết ấy, tôi không phục lắm. Nhưng mà, nếu có thể được, anh cho mượn quyển “Spiritisme, của anh Tíu. Chắc trong ấy c̣n có nhiều thuyết nó sẽ làm cho tôi phục lăn

.Ông Giáo vừa cười như chế nhạo.

         Giáp xem chừng đă ham mê quyển sách, vội nói:

         - Anh Chữ xem xong lại chuyển sang cho tôi nhé. Hay là anh c̣n bận dậy học, anh để tôi xem trước.

         Ông Giáo vui vẻ xua tay:

         - Không! Không được! Phải để mỗ xem trước. Mỗ nói mượn trước.

Dần đập vào vai tôi, cười nói:

         - Được hay không, c̣n phải hỏi chủ nhân của nó đă chứ đệ không có quyền.

Tôi vội đáp:

         - Được, anh nào muốn mượn th́ mượn, tôi xin sẵn ḷng. Miễn là anh Giáo tôi đừng cáu với nó quá mà ṿ nát nó ra thôi.

Tôi cười theo và tiếp liền:

        - C̣n quyển “Đồng cốt”, anh nào muốn học lên đồng cô, đồng cậu, đồng quan lớn quan liếc th́ tôi cho mượn nhân thể.

Ông Giáo vốn lười đọc, hỏi:

         - Có dầy lắm không, anh?

Tôi cười:

         - Dầy chẳng kém quyển “Spiritisme”

         - Thế quyển “Spiritisme”?

          - Dầy bằng quyển “Đồng cốt”.

Mọi người cười ồ.

Dần nói dọa:

         - Bằng hai quyển tự vị của anh kia ḱa. Thấy ông Giáo chau mày, thở dài, Dần thương hại, nói tiếp:

         - Đùa đấy. Dầy độ gấp rưỡi quyển Tiêu Sơn tráng sĩ của anh để trên ngăn tủ ấy.

 

         Ra khỏi cổng trường, chúng tôi bắt tay nhau, rồi mỗi anh một ngả. Tôi vừa đi, vừa nghĩ đến những lời của Dần. Cả ngày hôm ấy, tôi thơ thẩn như một thi sĩ đương t́m vần thơ. Những thuyết trong quyển “Thần linh học” lần lượt thức dậy trong trí nhớ. Tôi c̣n nhớ mang máng một câu: “Nhờ Tạo hóa, nhờ cả khoa học mở mang tột bực, rồi một ngày kia ta sẽ biết rơ đời vô h́nh của linh hồn trên thế giới vô h́nh của họ, rơ như một với một là hai vậy. Lúc ấy chỉ có kẻ nào điên hay loạn óc mới dám nói: Không có linh hồn. Người chết đi là hết, là hư vô…”

         Không biết bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm, trí tôi luẩn quẩn trong quyển “Thần linh học” đến nỗi nhăng bỏ cả thực hiện. Trong nhà, ngoài sân, ngoài đường, trên không, chỗ nào cũng nhan nhản những linh hồn.

         Tôi sắp thành một người mê tín như các ông đồng, bà cốt th́ một buổi chiều, đi thăm đồng về, gần đến chơ. Cầm, tôi thấy một đám đông, phần nhiều là trẻ con, đứng vây bọc chung quanh gốc đa. Tôi thoáng nghe thấy tiếng hát lanh lảnh, rồi những tiếng cười reo của lũ trẻ làm lấp đi. Tôi lại gần, dăn lũ trẻ ra. Một người đàn bà c̣n trẻ, quần áo lấm láp và rách để hở từng mảng da sém nắng. Đầu óc rối bù, xơa xuống trông không rơ mặt. Hai tay ôm khúc chuối áp vào vú để lơa lồ. Biết bà là con điên, tôi quay gót giở ra… Bỗng một chuỗi cười khanh khách gịn tan, khô xác, rắn chắc… làm tôi rùng ḿnh ghê rợn. Từ đấy, tôi như trút được gánh nặng. Trí tôi và tâm hồn tôi trở lại b́nh tĩnh. Linh hồn và thế giới vô h́nh cùng với quyển sách thần linh học cũng dần dần ch́m trong bể quên.

 

Trần Tiêu

(Sau luỹ tre - nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1942)