CON NGƯỜI SỞ KHANH

 

Phạm Duy Tốn


          Thầy thông Ất làm việc ở sở... tỉnh, mới kết duyên với cô Giáp, là lệnh ái ông bá hộ Đinh. Hai bên lấy nhau cũng là xứng đôi phải lứa. Thiên hạ chẳng ai chê cười điều ǵ. Thầy Ất đẹp trai, mặt mày nhẵn nhụi. Chàng vừa trạc tuổi thanh xuân; h́nh dung chải chuốt, áo quần bảnh bao. Cô Giáp, người mũm mĩm, trông cũng xinh xinh. Nàng đương xuân chỉ nhị đào, rượu nồng dê béo, ai nào chẳng ưa!
          Nhà ông bá, bà bá cũng có, cho nên đám cưới to. Đồ tư trang sắm đủ: ṿng, xuyến, hột, hoa, mớ ba, mớ bảy, chẳng thiếu thứ ǵ. Giá người không kể, chỉ những đồ vàng cô dâu đeo ở trong ḿnh, cũng đă ngót ngh́n đồng bạc. Lại c̣n tiền hồi môn, kẻ đồn một ngh́n, người nói năm trăm; nhưng thực sự th́ chỉ có bốn gói mà thôi, mỗi gói là năm mươi nguyên (Đồng, tiếng Hán) chẵn. Quư hóa lắm thay! Thầy Ất được cả người lẫn của! Thật là chuột sa chĩnh gạo...
          Cưới xong, hai vợ chồng mới, dọn nhà ở riêng. Trừ lúc nào thầy thông đi làm việc th́ thôi, c̣n khi ở nhà, hai người cứ bám chặt lấy nhau, không chịu rời ra một phút. Ngày đêm đóng kín cửa lại, vợ chồng hú hí với nhau: Loan ôm phượng, phượng bồng loan. Miệt mài trong cuộc truy hoan, trai tơ gái nơn, xuân đang mặn mà. Tha hồ vui chữ "nghi gia"!...

*

          Cách ít lâu, một hôm chồng bảo vợ rằng:


          - Ḿnh ơi, ḿnh với tôi, ta lên Hà Nội chơi một phen cho phỉ chí. Tôi sẽ đưa ḿnh đi coi hát tuồng, đi ăn cao lâu; lên xem Quán-thánh, trại Hàng-hoa, xuống chơi Bôn-be, hồ Hoàn-kiếm. Thuê xe cao su dạo khắp nơi cho thỏa thích. Ḿnh có ưng không ? Vợ hớn hở vui mừng, hỏi:

          - Thế th́ hôm nào đi?
          - Để yên xem... Hôm nay thứ mấy?... Thứ tư, có phải không?... Vậy th́ mai tôi xin phép, đến thứ bảy ta đi.
          - Thật chứ?
          - Thật.
          - Ừ, thế th́ nhẤt định thứ bảy đi, nhé!
          - Nhất định.

 Tối thứ sáu, vợ bảo chồng rằng:

          - À này, ḿnh ạ. Hai trăm bạc, tôi đem gửi thầy đẻ, nhé? Mang đi làm ǵ cho nó phiền, nhỉ?

          Chồng đáp:

          - Ừ, đem cả đi làm ǵ!... Ơ! Thế nhưng mà ngộ ḿnh c̣n muốn mua bán sắm sửa ǵ nữa chăng? Bất nhược cứ đem quách cả đi cho tiện.
          - Ừ, mà phải. Mấy khi lên Hà Nội, tội ǵ chẳng sắm? Để mai đổi cả lấy giấy, mang đi cho khỏi nặng.



         
Chiều hôm sau, lúc sắp ra tàu, bố vợ dặn rằng:

          - Trong ḿnh mang nhiều tiền bạc, đi đường phải cẩn thận lắm mới được. Tôi chỉ lo vợ chồng trẻ, mê ăn mê ngủ, mà ở tàu thủy, th́ kẻ cắp như rươi.

          Chàng rể thưa:

          - Xin thầy đừng ngại. Con ở sở, lắm khi chủ giao cho bạc ngh́n, giắt ở trong lưng, một ḿnh con c̣n chẳng hề ǵ, huống hồ nay lại có cả nhà con nữa, th́ thầy c̣n lo sợ ǵ!

          Bà bá bảo rằng:

          - Ấy ở nhà không sao, chứ đi tàu th́ phải giữ. Tiền đă bỏ cả trong ví, mà để vào va-lít cẩn thận rồi, có phải không?... Thế th́ những hoa, hột, ṿng, xuyến, nhẫn của chị thông, cũng nên tháo hết ra mà cất vào trong va-lít ấy. Người ngồi đâu th́ để liền ngay bên cạnh; hễ nằm th́ gối đầu lên trên, nhé.

          - Vâng, vâng.

          Vội vàng miệng nói tay làm, bao nhiêu bộ cánh thu cả vào va-lít, chỉ để lại đôi hoa đeo tai mà thôi.


*

          Tàu xúp-nê (Tiếng Pháp souffler: thổi c̣i), kéo neo, xịch xịch chạy. Hai giờ đêm, đến bến Hà-thành. Đèn hiệu sáng trưng, cô thông nom cũng choáng mắt. Chồng bảo vợ rằng:

          - Ta thuê xe cao su vào ô-ten (Tiếng Pháp hôtel: khách sạn) cho tiện.

          Vợ ưng:

          - Ừ, đi đâu cũng được. Nhưng mà có xa không?

           Chồng nói:

          - Không. Chỉ năm xu xe, chạy nhoáng một cái đến nơi ngay.

           Rồi gọi:

          - Cao su!... Hai cái!

         Vợ lên một xe, chồng lên một xe. Xe vợ chạy trước, xe chồng chạy sau. Xe kéo rập ŕnh, qua hết phố này sang phố khác. Đêm khuya, đường sá vắng ngắt, thiên hạ ngủ im. Đến Hàng-đào, phu xe hỏi:

         - Đi cà-phê nào đây, cô?
         - Tôi cũng chẳng biết nữa. Anh thử hỏi xe sau xem.

          Phu xe ngoảnh lại, chẳng thấy bóng cao-su nào. Cô thông tḥ đầu ra, bảo quay xe lại; nh́n măi cũng không thấy ǵ. Hai bên hàng phố, cửa đóng kín mít; bốn bề im lặng như tờ. Dăy đèn điện sáng choang, thăm thẳm một dải đường dài trắng xóa... Cô thông giật ḿnh:

          - Ô, hay! Xe kia đi vào đường nào?... Đây là phố ǵ, hử bác?
          - Phố Hàng Đào.
          - Bác có biết xe sau chạy ngả nào, không?
          - Không biết!
          - Chết chửa! Coi khéo chẳng lại lạc, nhé!...

          Cậu cu-li (Tiếng Pháp: coolie: phu) giở giọng ngay:

          - Ơ, hay! Có lẽ bây giờ cứ đứng giữa đường này, ư? Cô bảo tôi kéo đi đâu, chứ?
          - Hăy khoan đă, bác. Thử đợi tí nữa, xem sao. Ngộ xe nhà tôi đi chậm chăng, v́ c̣n mắc cái va-lít nặng.

         Cu-li bèn nạc mỡ rằng:

         - Thôi, mất câu rồi. Đừng mong người với va-lít nữa. Hụt món này, ta lơng món khác vậy.
Cô ta nghe nói, lạnh gáy cả người; những lo ngay ngáy, bụng bảo dạ rằng: "Chết nỗi! Bây giờ làm thế nào đây? Bơ vơ phận gái, đêm khuya một ḿnh ở nơi đẤt khách, biết nương vào đâu?... Mà chồng th́ đi đường nào? Sao lại có lạc được? Lẽ đâu vô ư thế!...".

          C̣n đang lúng túng, th́ có phu-lít (Tiếng Pháp: police: cảnh sát) đi qua hỏi: "Cái ǵ?" Cô kia vừa buồn, vừa hăi, thấp cao kể rơ sự t́nh. Phu-lít bảo: "Đi lên bóp!" ấy mới rầy rà! ấy mới thật là chết! Làm thế nào được bây giờ. Trời ơi?...May sao, giữa lúc ấy, có một thầy ra dáng làm việc Tây, cũng đi qua đó, thấy lôi thôi, đứng lại gần, xem. Thốt nhiên, thầy ta giương mắt trừng trừng, nh́n vào tận mặt người đàn bà mà hỏi:

          - Có phải cô Giáp đấy không?

          Cô Giáp ngạc nhiên, đổi lo ra mừng:

         - Phải, tôi đây... Ḱa, thầy Bính!...
          - Chết rồi! Cô lên đây bao giờ?... Lên làm ǵ trên này?... Đi với ai?... Đêm hôm khuya khoắt, sao lại chỉ có một ḿnh thôi?
          - Tôi vừa ở tàu thủy lên với nhà tôi...
          - Vậy... thầy đâu?
          - Xe tôi đi trước, xe nhà tôi đi sau. Bây giờ trông lại, không thấy đâu nữa. Dễ thường lạc rồi, thầy ạ.
          - Hừ!... Lạ thật! Sao lại lạc được?

         Thầy Bính nghĩ một lát, rồi lại đoán rằng:

          - Hay là gặp anh em, c̣n đứng lại nói chuyện, chăng?... Nhưng cũng không có lẽ... Ai lại bỏ vợ bỡ ngỡ, đi một ḿnh trong thành phố đêm khuya như vậy!... Thôi, để tôi nói với thầy đội. Xin mời cô hăy về tạm đằng nhà, nghỉ ngơi với mẹ cháu cho tiện. Rồi sáng mai ta sẽ liệu.


*

          Mai cũng chẳng thấy ǵ; kia cũng chẳng thấy ǵ. Trong hai ba ngày, tịnh vô âm tín. Cô Giáp sốt gan sốt ruột. Hai vợ chồng thầy Bính trong ḷng cũng áy náy mà phân vân: "Ô, hay! T́m hết nơi này, hỏi hết chỗ kia, sao mà chẳng thấy tăm hơi đâu cả, là nghĩa làm sao? Kỳ thật!..."
          Đến ngày thứ tư nhân ngồi nói chuyện việc cưới ḿnh, cô Giáp mới thuật lại cả đầu đuôi: "Chồng tôi nghe đâu như người ở tỉnh X (nguyên in: XXX). Cha mẹ mẤt sớm, mồ côi một ḿnh, trước sau chẳng có ai cả; thân lập lấy thân. Thầy đẻ thương t́nh mà gả, chứ nào có phải rằng là tham của tham cải ǵ đâu! Vả chưng chồng tôi vốn là thanh bạch. Thôi th́ nhờ trời, nhờ quan trên, có lẽ nay mai cũng lo được bổ vào làm việc Nhà nước. Tiền của bây giờ chẳng ngại, chỉ cốt lấy chút công danh với họ hàng làng nước. Nay hai vợ chồng đem nhau lên Hà Nội chơi. Có mang cả mấy trăm bạc đi nữa..."
          Thầy Bính bèn hỏi rằng:

          - Thế th́ bạc ấy đâu?
          - Ấy, nhà tôi giữ. Bỏ ở trong va-lít... Va-lít nhà tôi mang... Lại bao nhiêu đồ vàng của tôi, cũng để cả trong va-lít ấy.

        Thầy Bính lắc đầu, thở dài nh́n cô Giáp mà nói rằng:

        - Thôi, cô mắc lừa rồi, cô ạ.

Cô Giáp không hiểu:

          - Mắc lừa ai?... Thầy bảo tôi mắc lừa ai?...
          - Mắc lừa thằng bợm, chớ mắc lừa ai?... Nó cuỗm cả vàng lẫn bạc, nó tếch lên ngàn rồi... Sao lại tin cái đứa vu , trên không chằng dưới không rễ thế?!...
          - Nhà... nhà... nhà tôi ấy, ư?

          - Chứ lại ǵ!

          Cô Giáp chết điếng người. Ngồi lặng im một lát, rồi bưng mặt khóc ̣a lên:

          - Trời đất ôi! Ngờ đâu con người thế, mà xỏ lá ba que!...
          - Cô ơi, đời bây giờ thiếu ǵ những giống tốt mă dài đuôi, làm nghề cậu Sở!... Thôi đà mắc lận th́ thôi, đi đâu chẳng biết con người Sở khanh!...


*


            Cách hai ba tháng sau, ḍ la măi, quả nhiên biết rơ tin rằng: cậu Sở ấy đồng mưu với một ả giang hồ, để lập cái kế tàn nhẫn này, mà lấy của và hại một đời người đờn bà đầu xanh tuổi trẻ. Xong rồi, hai đứa đem nhau đi trốn sang đâu Xiêm, Lào, để cùng vui hưởng cái của bất nhân bất nghĩa.

Phạm Duy Tốn 

(tháng 2 năm 1919)