cu Chó

Chu Thp

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Cậu Chó” là tên tôi đặt cho con chó “mất dậy” bên nhà ông hàng xóm của tôi. Thật ra, đây chẳng phải là một danh xưng do tôi chế ra. Tôi đă “đạo” được từ ít nhứt một quyển tiểu thuyết và một truyện ngắn.

Trước năm 1975, trên một tờ nhựt báo mà tôi không nhớ rơ tên, mỗi ngày tôi đều đọc được một trang của truyện dài có tựa đề “Cậu Chó” của nhà văn Trần Đức Lai. Không rơ có phải là một câu chuyện có thật không, nhưng trong những ḍng mở đầu, tác giả viết rằng “cách đây không lâu những ai đă từng ở Huế đều biết tiếng hoặc đă từng nghe thiên hạ kể chuyện Cậu Chó của gịng dơi họ Hồ Nhứt Phẩm triều đ́nh, thân làm Quan Quốc Trượng (Cha vợ Vua). Gịng họ thuộc vào hàng danh giá lênh tộc, một năm trong họ đứng đầu Triều Nguyễn...”

Theo câu chuyện, “Cụ Hồ Đại Thần sanh được hàng chục người con, người nào cũng làm lớn. Kẻ Tri Huyện, người Tri Phủ, kẻ Bác sĩ, người Tham Tá. Thế mà không hiểu có phải v́ Cụ Ông chơi bời mà sanh ra hay là v́ nghiệp chướng mấy đời làm Quan ác đức, kẻ oan bị ghép tội nặng v́ không có tiền hối lộ, kẻ có tội v́ nhiều tiền cho Quan nên được ung dung ngoài ṿng pháp luật, tha hồ bóc lột dân nghèo áp bức người cô thế, nên Trời giáng họa cho Cụ lớn thấy rơ những điều nghiệp chướng mà Cụ và gia đ́nh đă gây ra”.

Câu chuyện kể về người con thứ bảy của Quan Hồ Nhứt Phẩm. Cậu Bảy khi vừa sanh ra mặt mũi không những không giống anh chị trong nhà mà c̣n phủ đầy lông tơ. Cậu rất khỏe mạnh, thường không khóc mà chỉ tru lên như chó tru. Cuối cùng th́ cậu chẳng khác nào một con chó Berger Đức với lông là đầy người và di chuyển bằng bốn chân. V́ xấu hổ, ông bà cụ Hồ đành phải xây một khu riêng để “biệt giam” cậu Bảy.

Chuyện đáng nói là ngoài nhu cầu ăn uống, Cậu Bảy lại có những đ̣i hỏi sinh lư mạnh hơn người thường. Cho nên để thỏa măn nhu cầu này, ông bà Cụ Hồ phải rước về không biết bao nhiêu cô gái để cho cậu thỏa măn t́nh dục...

Trong lời mở đầu, tác giả Trần Đức Lai viết: “Từ trước đến nay, trong họ nào cũng thế, có vài đời làm Quan th́ họ đó thế nào cũng nẩy sinh ra một người con hoặc cháu tật nguyền, điên khùng hoặc dở dang mặt người tánh thú vật hay có dáng điệu thú vật”. Rồi ông khẳng định: “Đó là nghiệp chướng ác đức bị báo oán nhỡn tiền”.

Nhiều người thường nại đến quả báo để giải thích về một số bệnh tật hay bất hạnh trong cuộc sống. Đời cha ăn mặn đời con khát nước là chuyện thường xảy ra. Tuy nhiên, ngày nay, khách quan hơn, khoa học gần như không đổ lỗi cho ai cả. Có khi cha chẳng ăn mặn chút nào cả, mà con vẫn cứ khát nước. Như trường hợp những người bẩm sinh mắc chứng mà khoa học gọi là “hội chứng Ambras” hay bệnh “hypertrichosis”. Kể từ thời Trung Cổ đến nay, người ta chỉ ghi nhận được 50 trường hợp như thế. Ḿnh mẩy của những người này mọc đầy lông lá như thú vật. Gần đây nhứt có cô bé 11 tuổi người Thái lan tên là Supatra Sasuphan: gương mặt cô đầy lông lá, trông chẳng khác nào một con chó Berger. Nhưng cô bé này không những sống vui vẻ hồn nhiên, mà c̣n tự hào về gương mặt đặc biệt của ḿnh.

Đọc lại chuyện “Cậu Chó” của ông Trần Đức Lai, tôi thấy thương hại cho Cậu Bảy. Gia đ́nh ông bà Cụ Hồ Nhứt Phẩm thương con, nhưng lại đối xử với cậu chẳng khác nào một con thú: một con thú được cho thỏa măn mọi nhu cầu, kể cả nhu cầu sinh lư mà không màng đến luân thường đạo lư của con người. Câu chuyện gợi lên cho tôi những ngược đời trong cuộc sống: thú vật được lên làm người, người xuống hàng thú vật!

Không hiểu tại sao mỗi khi nh́n thấy con chó của người hàng xóm, tôi lại nghĩ đến câu chuyện trên đây của nhà văn Trần Đức Lai. Ngoài ra, khi đặt tên “Cậu Chó” cho con chó của người hàng xóm, tôi cũng liên tưởng đến truyện ngắn “ Tấm Ḷng Cậu Chó”của nhà văn Tràm Cà Mau, tác giả của tập truyện “Triết Lư Củ Khoai”, mặc dầu ông xác nhận rằng ông chưa được thưởng thức truyện “Cậu Chó” của tác giả Trần Đức Lai.

Truyện ngắn “Tấm Ḷng Cậu Chó” của Tràm Cà Mau kể lại số phận may mắn của một con chó nhỏ có h́nh dáng “hệt một con nai tư hon”, nhưng lại có khuôn mặt chồn. Không biết v́ lư do nào đó, nó bị chủ sa thải và rơi vào nhà của một người không mấy ưa chó mèo, nhưng v́ nể vợ nên cho nó tạm trú. Nhưng dần dà, từ dửng dưng đến thương hại và sau đó là thương mến, ông chủ nhà đă giang rộng tay để chính thức đón nhận nó làm một thành viên của gia đ́nh. Con chó được dành cho một chỗ đặc biệt nhứt trong gia đ́nh. Ngoài ra, con chó c̣n được dẫn sang một nhà hàng xóm Mỹ để “ở rể” một thời gian. Ban đầu người chủ gọi con chó bằng “nó” với thái độ miệt thị, xem thường. Nhưng khi bị nó chinh phục, th́ ông lại gọi nó là “em”. Đến khi cảm tài, đức của nó, th́ ông gọi nó là “cậu chó”. Sau đó, ông thấy học được của nó nhiều điều hay, lạ, bổ ích, hiệu nghiệm, làm cho gia đ́nh hạnh phúc hơn, làm cho mọi người chung quanh thương mến nhau hơn, th́ bèn tôn sư, gọi nó bằng “ông thày” và “ngài”.

Một hôm đi chợ về, người vợ thấy khói um tùm ngoài vườn, c̣n chồng ḿnh th́ “nhảy nhót quanh một cái thùng sắt lửa nghi ngút, như dáng múa của người da đỏ đang hành lễ. Theo sau là cậu chó vẫy đuôi chạy loăng quăng.” Thỉnh thoảng ông quay lại vái cậu chó mấy cái và gọi cậu là ngài. Người vợ nh́n vào thùng sắt đang bốc cháy và nhận ra đó là mấy chục cuốn sách triết lư của chồng. Nào là Khổng Tử, Mạnh Tử, Lăo Tử, Trang Tử, Platon, Descartes, Hegel, Jean Paul Sartre và cả mấy chục cuốn sách thuộc loại nhức đầu khác nữa.

Thấy người vợ thắc mắc, người chồng mới giải thích: “Mấy chục cuốn sách triết học Đông Tây kim cổ này, chẳng ích lợi thiết thực chi cho hạnh phúc gia đ́nh, cho cuộc sống nhân sinh bằng cái triết lư t́nh thương chân thật của ngài chó đây. Ngài là bực tuyệt khôn, đại trí. Loài người thường kiêu hănh tưởng ḿnh khôn ngoan nhất, nhưng biết đâu loài chó nó cười cho thối đầu. Khôn hơn sao phải lao động cực khổ để cung phụng, thương yêu, phục vụ kẻ ăn rồi nằm không? Loài chó chỉ ban cho loài người chút t́nh thương thôi, rồi phè ra mà sung sướng một đời. Thế th́ ai khôn hơn ai?”

Người “chồng xá thêm cậu chó mấy cái cung kính lắm. Bao nhiêu sách triết lư đều thiêu thành tro bụi, tàn bay lả tả”.

Tôi không biết nhà văn Tràm Cà Mau có viết những ḍng trên đây với giọng điệu mỉa mai không. Riêng tôi, mỗi khi nh́n “Cậu Chó” của người hàng xóm, tôi luôn thấy có điều ǵ đó “không ổn” trong cuộc sống của “cậu”. Thực t́nh mà nói, tôi không “ưa” cậu. Cậu không có dáng điệu “nai tơ” và dễ thương của “cậu chó” trong “tấm ḷng cậu chó” của nhà văn Tràm Cà Mau. Cậu cao lớn như giống Berger Đức, nhưng có cái tai cúp xuống và cái bụng thon của giống Danois. Thấy cậu nh́n lừ lừ th́ cũng đủ sợ rồi, chớ đừng nói tới chuyện cậu nhào tới tấn công.

Tôi vẫn chưa nguôi giận v́ tội cậu xơi tái một con gà mái đẻ và một con gà con của tôi. Ngoài ra, chuyện cậu cứ chơ mơm sang nhà tôi mà sủa bất cứ lúc nào th́ tôi không tha được. Cứ như ḿnh là kẻ gian không bằng. Đêm xuống, ở một nơi yên ắng đến độ có thể nghe tiếng côn trùng rù ŕ như khu tôi đang sống, tiếng sủa của cậu làm cho tôi khó chịu vô cùng, bởi v́ nó cứ làm cho ḿnh nhớ lại giai đoạn mấy ông du kích Việt cộng đêm đêm ḅ về làng để sát hại dân lành và nhứt là thời kỳ vượt biên, khi ḿnh trốn chui trốn nhủi mà mấy cậu chó cứ sủa inh ỏi.

Giận “cậu chó” th́ giận, nhưng tôi vẫn thấy thương hại cậu. Bị giam một ḿnh trong cái vườn sau nhà, dù cho cái vườn có rộng thoáng đến đâu, làm sao cậu không cảm thấy “cô đơn”. Tôi hiểu được nỗi cô đơn ấy của cậu chó. Có lúc, tôi thấy cậu cố gắng đưa cái mơm vào kẽ hở của hàng rào, nh́n “lén” sang chuồng gia cầm của tôi. Như người xem phim “hành động”, cậu nhảy nhót theo những “diễn biến” của đám gà vịt. Nhứt là khi cậu “theo dơi” chuyện cặp vịt nhà tôi đang làm nghĩa vụ truyền giống, mặt cậu trông đờ đẫn. Thấy tôi, cậu lại sủa oang lên như để phân bua rằng cậu đang rất cô đơn, cậu cần có đời sống “bầy đàn”, cậu muốn sang chơi với mấy anh chị gà vịt nhà tôi.

Năm th́ mười họa, ông bà chủ, vốn là một cặp vợ chồng trẻ đi làm suốt ngày, mới đưa cậu lên chiếc xe Ute và chở đi một ṿng. Những lúc đó, tôi thấy mặt cậu hí hửng, miệng sủa inh ỏi. Ngoài những giây phút đó ra, cậu bị buộc phải làm một ẩn sĩ bất đắc dĩ, lủi thủi một ḿnh, chẳng có ai để mà tṛ chuyện hay than thở. So với cậu, tôi thấy mấy con chó cỏ ở nhà quê tôi sống kiếp chó đầy đủ hơn: ban đêm lo canh giữ nhà cho chủ, ban ngày tha hồ đi rong chơi từ đầu trên xuống xóm dưới, bè bạn không thiếu, “quan hệ xă hội” rộng răi và chuyện t́nh ái cũng rất b́nh thường. Dù cho cuối cùng chẳng mấy con được hưởng cái cảnh nhắm mắt “xuôi chân” vào lúc tuổi già, chó nhà quê có lẽ cũng măn nguyện v́ đă vui hưởng trọn kiếp chó.

Cậu chó của ông hàng xóm của tôi không có cái may mắn được sống trong nhà, được người chủ dắt đi dạo mỗi ngày hay ngay cả được người chủ “hạ ḿnh” xuống mà hốt phân cho. Nhưng liệu những cô cậu chó có được cái may mắn ấy có thực sự “hài ḷng” với cuộc sống đó không? H́nh ảnh của cái giây tṛng vào cổ, đi đâu cũng không được tự do, lúc nào cũng bị ông bà chủ lôi kéo, khiến tôi nghĩ rằng những cô cậu chó “cưng” này cũng chẳng cảm thấy sung sướng lắm.

Trong khi ngày xưa Cậu Bảy của Trần Đức Lai mang tiếng là con nhà quan nhưng bị coi và phải sống như một con thú th́ ngày nay lại có nhiều con thú cưng được hưởng những đặc quyền đặc lợi mà rất nhiều con người không dám mơ tới: từ “cơm bưng nước rót”, xe hơi nhà lầu đến được ở nhà có máy lạnh 24/24 như một số đại gia ở Việt Nam nhập chó Alaska về đến chuyện được mua bảo hiểm y tế, thừa hưởng những tài sản kếch sù và khi chết th́ được chôn trong một nghĩa trang riêng. Liệu những con thú “may mắn” này có thật sự sung sướng không? Con người hay thú vật, ai mà chẳng thích tự do, được ăn được sống theo ư muốn. Dù được đủ thứ, nhưng từ động vật ăn “thịt sống” bị biến thành động vật ăn “thịt hộp”, từ động vật 4 chân biến thành động vật không “chân” trong cảnh cá chậu chim lồng như thế, th́ sung sướng cái nỗi ǵ? Nhứt là khi mấy cô cậu chó lại bị giải phẫu để cướp đi cái chức năng truyền giống và bắt phải làm “hoạn quan, hoạn bà”, th́ sống như thế không thể nào gọi là sống trọn kiếp chó được.

Ngày nay, dường như ngày càng có nhiều người hăng hái tranh đấu cho “quyền của súc vật”. Lại cũng là chuyện ngược đời. Trong khi những quyền căn bản nhứt của con người tại không biết bao nhiêu nước trên thế giới vẫn c̣n bị chối bỏ, chà đạp, trong khi quyền tối thượng nhứt là quyền được sống của những người vừa bắt đầu hiện hữu trong ḷng mẹ bị khước từ một cách không xót thương th́ lại có những người rỗi việc lấy việc tranh đấu cho quyền súc vật làm ưu tiên hàng đầu cho cuộc sống.

Tựu trung, tôi nghĩ rằng điều bị con người lạm dụng nhứt vẫn là hai chữ “yêu thương”. “Yêu thương” súc vật mà giam giữ nó như một thứ “nô lệ” trong nhà, không cho nó sống hết kiếp thú vật của nó theo cách thức của nó, như thế có phải thực sự là “yêu thương” không? Tôi nghĩ chỉ có trong những sở thú “tự do” như tại một số nước bên Phi châu th́ may ra thú vật mới thực sự hưởng đầy đủ “thú quyền” của chúng.

Nghĩ xa một chút, trong quan hệ giữa người với người, người ta cũng thường tô điểm cho hành động của ḿnh bằng hai chữ “yêu thương”. Kỳ thực, nếu không được thực thi một cách vô vị lợi, nếu không làm v́ lợi ích và ư muốn của người nhận, th́ mọi hành động bác ái cũng chỉ là những việc làm ích kỷ mà thôi. Tôi vẫn thường lấy nhận xét mỉa mai của văn sĩ Pháp La Rochefoucauld hồi thế kỷ 17 để tâm niệm và tự vấn lương tâm: “Tất cả những ḍng sông bác ái đều chảy vào biển cả của ích kỷ”.

Chu Thập