Rồng trong Mỹ thuật Việt
Đặng Tiến
Rồng là linh vật
truyền thuyết của nhiều dân tộc trên thế
giới. Mỗi địa phương, mỗi thời
điểm, nó mang chức năng và h́nh dạng khác nhau.
Bài này chỉ giới
hạn trong h́nh dạng con Rồng qua lịch sử mỹ
thuật Việt
- Rồng
Văn Lang, từ vùng sông Hồng đến Thanh Hóa,
trước Tây lịch
- Rồng Giao
Chỉ, từ thời Bắc thuộc đến thế
kỷ X, chịu áp lực văn hóa Hán tộc.
- Rồng
Đại Việt, thời Lư Trần (TK X – XIV)
- Rồng
thời Lê Nguyễn, (từ TK XVI) dần dần bị
ảnh hưởng Trung Quốc.
Miêu tả như
vậy, là theo ḍng lịch sử. Nhưng lịch sử
nghệ thuật không nhất thiết phải liên tục,
phải duy lư, trải qua bốn ngàn năm ghềnh thác. Có
thể h́nh dạng con Rồng ta thấy ngày nay không can
hệ ǵ đến những hoa văn trên đồ
đồng của tổ tiên ta thời Đông Sơn, cho
dù có đôi đường nét chung. Liên hệ có khi chỉ
là thành kiến : chúng ta tự cho là con Rồng cháu Tiên,
vậy con Rồng của chúng ta ngày nay phải là hậu
duệ của con Rồng Lạc Long Quân. Cái t́nh là như
vậy. Cái lư muốn như vậy. Nhưng lịch sử mỹ
thuật chưa chắc đă liên tục.
Bài này cung cấp h́nh
tượng Rồng qua những giai đoạn, nhưng
không dám khẳng định con rồng này là tiến tŕnh
của con rồng kia. Nghệ nhân thời Lê, và ngày nay,
vẽ con rồng, chưa chắc ǵ đă biết
đến con Rồng thời Lư – đặc biệt
Việt Nam – đừng nói ǵ đến con Rồng Văn
Lang. Chúng ta không nên v́ tự hào dân tộc mà suy luận
sơ đẳng.
Khái niệm Rồng có
thể xuất hiện từ thời rất xa xưa,
dĩ nhiên không phải dưới danh xưng “Rồng”.
Tổ tiên ta gọi “con ấy” là con ǵ th́ không ai biết.
Sử sách có nói đến con thuồng luồng, con giao long
: người Văn Lang thời đó “xuống
nước đánh cá thường bị giống giao long
làm hại nên có tục xâm ḿnh theo dạng thủy quái
để tránh tai họa giao long” ,theo Lĩnh Nam Chích
Quái, truyện họ Hồng Bàng. “Dạng thủy quái” ra
sao, chúng ta không rơ, nó có phải là tiền thân con Rồng hay
không, cũng chỉ là suy đoán. Có thuyết nói : chữ
“thuồng luồng” phát sinh ra chữ “long” rồi biến
âm thành chữ “rồng”. Nhưng theo cố giáo sư
Nguyễn Tài Cẩn, th́ ngược lại, từ
“rồng”có trước, vào thời Hán, chữ “thuồng
luồng” xuất hiện về sau, vào thời
Đường. Theo ông, thời tiền sử,
người Việt gọi rồng bằng cái tên ǵ khác,
như là rắn hay cá sấu [1].
Hai chữ giao-long có nghĩa là “cá sấu-rồng”. Nhà nghiên
cứu mỹ thuật Huỳnh hữu Ủy cho biết,
trong tiếng Mường c̣n chữ “con khú – con rôông”
để chỉ con cá sấu, con rồng, và c̣n câu tục
ngữ “con khú làm chồng, con rồng làm nhân ngăi” [2].
Nói chung, nhiều
sử gia cho rằng giao long
trong sử cũ là cá sấu,
bách hại đời sống nông dân và ngư dân cả vùng
Đông Nam Á, bằng cớ là măi đến đời
Trần, Nguyễn Thuyên c̣n phải làm văn tế cá
sấu (1282). Mặt khác các vua nhà Trần có truyền
thống thích h́nh rồng vào đùi, cho đến
đời Trần Anh Tông (1299) mới bỏ. Sử sách c̣n
chép rơ chuyện này.
1. Giao long
khắc trên thạp đồng Đào Thịnh
Đây là thời
kỳ các bộ tộc Lạc Việt Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ bắt đầu định cư
chắc chắn và liên kết với nhau thành nước
Văn Lang vùng châu thổ sông Hồng và trung du lân cận
dưới triều đại Hùng Vương. Các bộ
tộc Âu Lạc Việt đă bắt đầu xây
dựng huyền thoại về nguồn gốc, sùng bái
vật tổ (totem, Rồng Chim) sau này sẽ trở thành
truyền thuyết (chim) Lạc (rồng) Long Quân. Dĩ
nhiên là tên Lạc Long Quân sẽ xuất hiện về sau,
có lẽ vào giữa thời Bắc Thuộc dưới
ảnh hưởng của Đạo giáo,”quân” là chức
sắc cao cấp trong tín ngưỡng Đạo giáo.
Nhưng huyền thoại th́ có trước. (Lạc c̣n có
nghĩa là ruộng Lạc).
Rồi con giao long của sông
Hồng dần dần được cách điệu
hóa. Trên lưỡi giáo tại Núi Voi thế kỷ
thứ VI trước T L, h́nh
giao long thon dài, đứng trên bốn chân, sống
lưng và có đuôi có xương mọc thẳng
đứng (h́nh 2).
Gần gần với niên đại cặp giao long
trên thạp đồng Đào Thịnh, Yên Bái , th́ ở
Trung Quốc trên thạp
đồng An Dương đời Thương đă
xuất hiện h́nh rồng hoàn toàn khác, vóc dáng khác,
đầu có sừng giống sừng cừu. Từ đó
ta có thể nghĩ đến tính cách độc lập
của “con rồng bản địa” của Văn Lang
2.
Lưỡi giáo núi Voi, tk VI trước TL
Theo học giả Bezacier: “con
giao long (sấu) này sẽ được cách
điệu để thành h́nh rồng về sau,
thường gặp trong nghệ thuật Hoa, Việt”
[1].
Trên một mũi lao Đông Sơn, thế kỷ VI
trước TL, giao long có bốn chân, bờm hất
ngược, đuôi cong
(h́nh 3).
3. Lưỡi giáo Đông Sơn, tk V truoc Tl
Theo sử gia Lê Thành
Khôi h́nh rồng của Việt
Khi nước Âu Lạc thời
An Dương Vương (257-208 trước TL) bị
nhà Hán thôn tính, nhất là sau khi khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng thất bại (0040-0043) th́ nền văn
minh Đông Sơn cũng tàn phai và xă hội lạc
hầu, lạc tướng bị phân hóa. Con rồng bản địa,
con giao long của văn hóa sông Hồng cũng
đứt đoạn, dù cho, về sau, nó c̣n xuất
hiện như ở Lạch Trường, trên một
đĩa đèn có cán h́nh đầu rồng,đă
cải tiến, thế kỷ thứ III sau Tây lịch
(h́nh 5 bis).
5. bis, Đĩa đèn, đồng, tk
III Dưới thời Bắc
thuộc, con rồng Giao Chỉ có bốn chân, đuôi
cong, thân h́nh thon dài mềm mại, c̣n giữ h́nh dạng
đầu cá sấu ở giai đoạn đầu
như trên một viên gạch nung thế kỷ 1 sau Tây
lịch, t́m thấy ở một ngôi mộ vùng Lim (h́nh 6). 6. Gạch nung, Giao Chỉ, tk I
Nhưng sau đó, h́nh rồng
sẽ thay đổi : đầu cá sấu biến
dạng, nhường chỗ cho đầu một con
vật tưởng tượng, kết hợp nhiều
nét động vật khác nhau, đặc biệt có
vẩy và có cánh, có râu hàm và lông chân, giống con rồng
Trung Quốc (h́nh 7). Sau khi đất nước
tự chủ, Ngô Quyền phá quân Nam Hán (938) con rồng
Đại Việt thoát ly ra khỏi ảnh hưởng
phương Bắc :
rồng thời Ngô, trên mảnh gạch nung ở
Cổ Loa, thân ngắn, không
có cánh, đă báo hiệu những nét rồng Đại
Việt thời kỳ sau (h́nh 8). 7. Gốm Giao
Chỉ, tk III
8. Gạch nung, thời Ngô, tk X
Phải đợi
đến triều Lư (1010-1225) h́nh rồng dạng rắn
mới phát triển dưới vóc dáng rồng-rắn
đặc biệt Việt Nam trong nhiều ư nghĩa : rồng
là biểu tượng của vương quyền “thiên
tử”, theo gương vua Hán
Cao Tổ. Rồng c̣n tượng trưng cho các vua nhà Lư, là
h́nh tượng của chủ quyền dân tộc “ḍng
giống rồng tiên”, ước vọng phồn thịnh,
mưa thuận gió ḥa v.v... Khi Lư Thái Tổ dời đô
từ Hoa Lư về Đại La (1010) đặt tên
quốc đô là Thăng Long, là chọn một cái tên giàu ư nghĩa;
chuyện “rồng vàng bay lên” để đón vua e chỉ
là truyền thuyết. Hai chữ Thăng Long chắc đă
được Lư Thái Tổ và quốc sư Vạn
Hạnh chuẩn bị từ trước, chẳng
cần đợi rồng bay. (Thuyền vua đỗ
dưới chân thành vào tháng 7 mưa ngâu, trông lên trời mây
ắt thấy rồng : tổ tiên ta tuyên truyền chính
trị rất giỏi).
Con Rồng triều Lư
là một sáng tạo dân tộc, khác với rồng Trung
Quốc : thân h́nh thon dài như thân rắn uốn
lượn trên một nhịp dần dần nhỏ
lại về phía đuôi nhọn, chân là chân chim móng vuốt
nhọn sắc. Đầu có mào h́nh chữ S, như mào chim
hay rắn thần trong truyền thuyết, không có sừng
như rồng Tàu, nhưng có ṿi, ban ơn mưa móc, uốn
ḿnh trong ngọn lửa; cái ṿi có lẽ do ảnh
hưởng phương Nam, con rồng makara Chàm-Ấn.
Miệng há rộng, răng sắc đớp ngọc minh
châu, nguyên là quả cầu tượng trưng cho mặt
trời và sấm sét. Râu, bờm, lông móng oai dũng kết
hợp thành những đường nét nhịp nhàng, hài ḥa
như một đất trời gợn sóng (h́nh 9 , và
bản vẽ lại của Trần Tuy).
9. Rồng nhà Lư, tk XI
Tư tưởng chính
trị, triết học, tôn giáo là của triều thần
nhà Lư, nhưng h́nh rồng là sáng tạo của nghệ
sĩ dân gian. Ngày nay chúng ta tự hào và ngạc nhiên tự
hỏi : sao vào thời trung cổ cách đây cả ngàn năm
dân tộc ta đă có nền nghệ thuật tạo h́nh
phong phú và tinh tế như thế ? Con rồng thời Lư là
bản sắc dân tộc, đỉnh cao của mỹ
thuật Việt
Triều Trần
(1225-1400) phải trải qua nhiều cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm từ phía nam phía bắc.
Cuộc chiến đấu gian lao và kiên cường
đă tạo một khí thế cho con rồng nhà Trần
: nó vạm vỡ hơn, mập mạp hơn và tự
nhiên là phải bớt phần hào hoa, mềm mại (h́nh
10). Nhưng dần
dần Khổng giáo chiếm ưu thế trên một
nền phong kiến mỗi ngày một chuyên chế,
về cuối đời Trần con rồng Việt,
phần nào đó, đă bắt đầu chịu thêm
ảnh hưởng rồng Trung Quốc. Cho đến
đầu thời Lê (1428-1527), con rồng dù vẫn c̣n
giữ đôi nét truyền thống, chuyển dần
sang những đường nét phong kiến
phương bắc : nó là biểu tượng thiên
tử, bay lượn trên trời mây, bộ dáng oai
vệ, hung hăn phun ra lửa, mửa ra khói. Đầu
mọc thêm sừng như con rồng nhà Minh. Rồng
phong kiến toàn thịnh dưới một triều
đại phong kiến toàn thịnh : thời Lê Thánh Tông
(h́nh 11). 10. Rồng khắc gỗ, thời
Trần
11.
Rồng khắc bia Lê Thánh Tông
Nhà Mạc ngắn ngủi
(1527-1592) đă để lại một nghệ
thuật tạo h́nh đáng kể : con rồng nhà
Mạc bớt vẻ uy nghi dù vẫn phương phi.
H́nh rồng uyển chuyển, nét vẽ lưu loát
như phục hồi nghệ thuật Việt Rồng nhà Mạc
Khi nhà Lê trung hưng (1592-1788) các
vua chúa phục hồi lại h́nh rồng vương
giả trong nghệ thuật cung đ́nh (h́nh 16). Nhưng
xă hội đă đổi thay, đô thị phát
triển, hàng hóa luân lưu, ảnh hưởng
nước ngoài... đă tạo ra nếp sống khác; và
phát triển văn học dân gian, truyện tiếu lâm,
truyện nôm và nghệ thuật dân gian, với con
rồng dân gian c̣n thấy trong điêu khắc gỗ :
con rồng gia súc sống chung với gà lợn (h́nh 13),
rồng ôm con cuộn ḿnh trong rơm ổ, rồng đùa nghịch
với trẻ con (h́nh 14), rồng làm phương
tiện vận chuyển cho dân gian (Nguyễn Đỗ
Cung, và Thái Bá Vân, sđd). Rồng
vui, tếu của dân gian
đối lập với
Rồng của triều đ́nh, dù là thời Tây
Sơn (h́nh 17) hay thời Nguyễn Gia Miêu (h́nh 18).
Đến thế kỷ XIX, nhà Nguyễn giành
độc quyền h́nh rồng cho biểu tượng
vua chúa, và lại đúc khuôn
theo mẫu h́nh Rồng Trung Quốc. Con rồng nhà Nguyễn không
độc đáo, nhưng gần gũi trong thời
gian, nên quen thuộc với chúng ta nhất. Các nhà lư
luận mỹ thuật có khi chê tính cách cầu kỳ, phức
tạp của nó, nhưng con “rồng Huế” là thành
phần văn hóa thân thuộc trong tâm cảnh chúng ta ngày
nay. 16. Rồng Lê Mạt, tk XVIII 14. Trẻ em đùa Rồng, khắc gỗ, tk XVII
17. đồng tiền
Cảnh Thịnh, tk XVIII
Họa sĩ Vĩnh
Phối, gần đây đă có lời miêu tả nồng
hậu : “nghệ nhân Huế đă vận dụng
biến hóa tài t́nh thành rồng Huế, thường có
sừng mọc ở vị trí tai, khác rồng Trung Quốc
và rồng Lư Trần. Vảy bao phủ toàn thân, một
tứ bờm có ngạnh. Bờm và đuôi soắn tṛn
biến thành những ngọn giáo đă xuất hiện
thời Lê, chân có móng sắc. Những con rồng trang trí
thời Nguyễn có t́nh cách oai
vệ, khí thế sinh động và toát lên uy quyền nhà
Nguyễn” [6].
Mô h́nh trang trí khá
phổ biến tại Huế, trong kiến trúc, điêu
khắc ở cung đ́nh hay các nhà quyền quư, dưới
dạng con giao bốn móng, hay con cù, gần với cá sấu.
Chỉ có con rồng năm móng là biểu tượng dành
riêng cho bậc đế vương.Trong một thuyết
tŕnh ngày 30-9-1914 tại Huế, P.Albrecht, có mô tả chính xác
mô típ rồng trong nghệ thuật trang trí Huế [7]
****
Sử sách ghi rơ là
tổ tiên ta, từ thời Văn Lang đă có tục xâm
h́nh thủy quái trên thân thể để tránh tai nạn cá
sấu. Có lẽ từ đó đă nảy ra truyền
thuyết Rồng Tiên. Hoặc là huyền thoại có
trước. Nhưng nhất định là có tương
quan. H́nh thủy quái ấy ra sao th́ ta không biết, không
chắc ǵ đă giống con giao long trên các di tích thời
Đông Sơn.
Mô h́nh giao long sẽ
biến đổi thành con rồng thời Lư, đặc
sắc của dân tộc truyền sang đời Trần.
Đến đời Lê th́ con rồng cung đ́nh bị
ảnh hưởng Trung Quốc trong khi con rồng dân gian
lại phát triển theo phong cách riêng. Vào triều Nguyễn
mô h́nh rồng bị triều đ́nh chiếm hữu và, nói
chung, chịu ảnh hưởng Trung Quốc. Ngày nay, nó
chỉ c̣n là một đề tài trang trí, như trên bát
đĩa thông dụng, và mất dần ư nghĩa tín
ngưỡng hay xă hội.
Từ giao long
đến con rồng hiện đại, mô h́nh đă
nhiều lần biến chuyển, nhưng không nhất
thiết phải theo một lịch tŕnh liên tục,
đơn tuyến, v́ thường xuyên chịu ảnh
hưởng thời cuộc, ngoại lai, có lúc bị áp
đặt, có khi v́ giai cấp thống trị sao chép.Tuy nhiên,dù
không lư luận đơn
giản, chúng ta cũng có thể kết luận mô h́nh
rồng phản ánh nhiều nét lớn trong lịch sử
dân tộc.
Một đề tài
lớn lao và lư thú, là biểu tượng con rồng
Việt
Đặng Tiến
Orléans, Tết Nhâm Th́n, 16.01.2011
nguồn: nhận từ tác giả
[1] Nguyễn Tài Cẩn, báo Diễn Đàn, tháng 3-2000, Paris
[2] Huỳnh Hữu Ủy, Hành Tŕnh Con Rồng qua Văn Hóa và Mỹ Thuật Việt Nam, báo Hợp Lưu, California, số 50, Xuân Canh Th́n 2000.
[3] Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr. 78, 1981, Paris
[4] Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật, tr. 292, 1998, Hà Nội.
[5] Nguyễn Đỗ Cung, Bàn về mỹ thuật Việt Nam, tr. 37, 117, 1993, Hà Nội.
[6] Vĩnh Phối, Nghiên cứu Huế (nhiều tác giả), tr. 116, 1999, Huế.
[7] P.Albrecht, Bulletin des amis du vieux Huê, tr 1-13, tháng1-3, năm 1915