Trn Dz L,

Nhà Thơ Hát Do Bên Tri

 

Nguyn Vy Khanh

 

                                    

Nhà thơ Trần Dzạ Lữ (c̣n kư Trần Yên Hồ) tên thật Trần văn Duận, sanh năm 1949, khởi làm thơ từ thập niên 1960 và đă có thơ đăng trên các tạp chí Văn, Văn Học, Thời Tập, Khởi Hành, v.v. Các tác phẩm Hát Dạo Bên Trời (NXB Trẻ, 1995) và Gọi T́nh Bên Sông (1997) được xuất bản sau hơn 30 năm góp mặt với làng thơ. Mở đầu tập Hát Dạo Bên Trời, nhà thơ đă ghi : “được thai nghén trên 30 năm nay đứa con đầu ra đời và hiện đang đứng Hát Dạo Bên Trời …”.

Từng được đọc thơ ông từ trước 1975 và mới đây sau khi đọc Hát Dạo Bên Trời (1995), chúng tôi xin ghi lại một số nhận xét (phần thơ trích từ tập HDBT và một số tạp chí trước 1975 cũng như trên mạng). Đọc thơ Trần Dzạ Lữ với những người từng theo dơi văn-chương, cũng là một cách hồi tưởng, sống lại những năm 1960, 1970 là một thời nghệ thuật đáng nhớ của những con người từng sống ở miền Nam tự do.

*

Trước hết, thế giới thi ca của Trần Dzạ Lữ là cả một khung trời t́nh yêu, bắt đầu với thơ t́nh một thời học tṛ. Ở đây là những mối t́nh hoa mộng, lời hoa mà ḷng gấm, lời đan thanh mà ḷng đă nhiều đam mê. Không gian học đường đă đóng khung những bước chân chim non, những gót son thấp thoáng nơi sân trường và tản đi nhiều phương khi tan trường về. T́nh thuở môi hồng được viết thành thơ :

 

Anh chưa nh́n sao em đà cúi mặt

Để buổi chiều bẽn lẽn ở sau lưng ?

Bước chân chim h́nh như cũng ngại ngùng

Anh sửng sốt thả rơi t́nh, ân hận…

(…) Anh chưa nh́n sao em đà hấp tấp

Ướt mi chi cho xa lắc trăng rằm ?

Đến mây trời cũng ngừng cuộc lang thang

Để bịn rịn theo ai về cuối ngơ …

(…) Anh chưa nh́n sao em đà cúi mặt

Hay là anh giống hệt một gă khờ ?

Em – tháng giêng ngon cũng vừa bay mất

Và cuối hồn anh c̣n chút dư hương

(Tặng người áo trắng)

 

Những hẹn ḥ khi t́nh đă chín, những nuối tiếc v́ tuổi học tṛ đơn sơ không tính toán, để phải “bây giờ thu bên đời lận đận” :

 

Sao không nói những khi ḿnh gặp gỡ

Những khi ngày c̣n chở mộng qua sông,

Để bây giờ ḷng chỉ mới hỏi ḷng

Mà đêm đă chia sầu t́nh vanh vách

(…) Sao không nói những khi trăng c̣n hẹn

Với lầu khuya say ngợp cả đất trời

Để bây giờ trăng bỏ về phương khác

Cho chim buồn kêu lẻ dưới sương rơi

(…) Sao không nói những khi ḿnh vương vấn

Những chiều thu vàng thầm bước theo nhau

Để bây giờ thu bên đời lận đận

Lạ nhau rồi c̣n ai ngóng ai đâu

(Sao không nói?)

 

Người t́nh ấy từng da diết, rồi cũng có lúc chia phôi, t́nh chỉ c̣n trong nỗi nhớ:

 

Tháng giêng gợi nhớ môi người,

Trong đêm tóc rối một trời yêu thương.

Bây giờ thêm nhớ mùi hương,

Một giai nhân đă đổi đường chim bay

(Khúc tháng giêng)

 

Tiếc nuối trên những dấu chân xưa, nơi “phố chợ đó cũng hoang đường cổ tích”:

 

Người đă xa như một v́ sao nhỏ

Cuối chân trời thương nhớ vẫn chưa nguôi

Tôi đếm những mùa xuân qua hút bóng

Nghe trong hồn hoa cỏ cũng tàn phai

1967.

(Xuân lối cũ, HDBT tr. 12)

 

Tiếc hơn nữa mỗi khi mùa Xuân lại đến rộn ràng, hoa quỳ vàng đă choán hết kư ức :

 

Dừng bên cầu hát quạnh / Nghe mưa bụi qua hồn

Mới hay xuân trở lại / Xui nhớ người yêu thương

Mùa nào hoa quỳ nở / Ta trao nhau mộng đầu

Tuổi mười lăm mười bảy / Em ngọt đời như dao

(…) Bây giờ Tết rồi nhỏ / Ḿnh vẫn c̣n xa nhau

Chắc em quàng khăn nhớ / Đợi anh về, xôn xao !

Đừng có buồn nghe nhỏ / Ở thị trấn hoa vàng

Có hồn anh theo nhỏ / T́nh vẫn nồng trăm năm.

1975

(Mùa Xuân gửi thị trấn hoa vàng HDBT tr. 38-39)

 

Thị trấn hoa vàng của mộng đầu t́nh non xanh tuổi mười bảy. Hoa quỳ vàng nhắc nhở người yêu bé nhỏ :

 

Bên sông t́nh tự, nay gọi t́nh bên sông :

Có một lần nhớ quá / ra sông đứng gọi t́nh

t́nh xa, người hoá lạ / chiều mồ côi cánh chim…

Có một đời xưa quen / đă mù sa cổ tích

kỷ niệm sầu chia nhánh / Địa Ngục và Thiên Đàng

(…) Có đôi lần đứng ngóng / ngày t́nh nhân chia ĺa

vỗ đàn mà hát hỏng / nhớ sum vầy xưa kia…

Có nhiều lúc chơi vơi / hôn Cúc vàng thầm lặng

thương ơi tờ lụa mỏng / em biệt dạng bên trời.

1990

(Gọi t́nh bên sông, HDBT tr. 59-60)

 

Bài thơ sau được dùng lại làm chủ đề cho cả thi tập Gọi T́nh Bên Sông xuất bản năm 1997.

Rồi cũng có “ngày vẫy biệt khu rừng mơ tuổi nhỏ / ta xuống đời, biết chắc đă xa em …” (tr. 29) để đi vào đời, “anh đi lẳng lặng bóng c̣ / chỉ mang theo lá thư ḥ hẹn xưa” (tr. 30).

T́nh đă dở dang, sao đổi ngôi, hay vật đă đổi sao đă dời :

 

Trên đời có sao đổi ngôi

Trong em kẻ lạ thay tôi đổi t́nh

Tiếc công giữ mộng, canh h́nh

Gương xưa đă vỡ sao lành được em?

Chong đèn soi cổ tích đêm

Thấy trong tiền kiếp bóng ḿnh ngu ngơ…

1991

(Sao đổi ngôi, HDBT tr. 69).

 

Lẳng lặng một bóng, nhưng đă là ṇi t́nh th́ t́nh vẫn đeo đuổi măi, nhưng sau này th́ theo thời thượng vi tính :

 

Ngày xưa anh nhấp t́nh / Bây giờ th́ nhấp chuột

Dơi t́m trên vi tính / T́nh trôi vào vô minh…

Ấn tay vào bàn phím / Anh lại nhớ về em

Mang mang tà áo tím / Thiếu nữ qua sông buồn!

(…) Nhấp chuột – cũng không vui / Nhấp t́nh – t́nh vời vợi…

Làm sao quên được người / Nụ hoa đỏ trên môi?

Mùa xuân về dưới phố / Gác trọ ḿnh đơn côi!

(Nhấp t́nh)

*

T́nh ở Trần Dzạ Lữ rốt cùng là t́nh Huế, t́nh với Huế, của Huế, của Huế hôm nay hoặc của quá văng, trong tâm tưởng, hoặc Huế của trống vắng thần khí. Huế nơi nhà thơ sinh trưởng nhưng sống ở đó ngắn hơn Sài-G̣n và những chân trời lận đận của chiến tranh và thời hậu chiến bi ai. Nhớ nhất đôi mắt Huế, mắt của đam mê mời gọi một thời và xa xôi th́ nhung nhớ thành ám ảnh đời :

 

Dù ở đâu không thể nào lẫn được

Đôi mắt em thăm thẳm mộng bên trời

Mắt đợi chờ làm điếng cả hồn tôi

T́nh như rứa làm răng tôi cất bước?

(…) Dù đi đâu cũng không thể nào xa được

Mắt – Huế – xưa theo dơi bóng giang hồ

Tôi phải trôi về những cơn mơ

Áo – tím – Huế bay trong chiều lụa – bạch

Đôi mắt ấy thoạt nh́n như sắp khóc

Dẫu đời tôi hoá đá cũng chao ḷng

Mắt u buồn vẫn liếc dáng thuỷ chung

Như mắt mạ chờ cha nơi phố cũ…

Dù ở đâu tôi không thể nào quên được

Mắt – Huế – em ngái ngút vẫn đâm gần

Mắt níu đời quen cho đến trăm năm

T́nh như rứa làm răng tôi cất bước?

(Mắt Huế)

 

Đôi mắt em thăm thẳm mộng bên trời” phải chăng là đôi mắt huyền của Tôn Nữ của một không gian thi-thoại lá ngọc cành vàng ?

 

Xưa, em buồn trong Nội / Mắt ướt mấy cửa thành

Chiều chiều ra hong tóc / Thấp thoáng mộng ngày xanh…

Ta, thường hay lui tới / Dưới đường mưa âm thầm

V́ yêu đời Tôn Nữ / Mong em, cháy nỗi ḷng…

Khi biết ta hàn sĩ / Giấu nỗi sầu trăm năm

Em che t́nh măi rộng / Ru nhau vào đời ngoan!

Yêu nhau như chim uyên / Dắm như ván trong thuyền

Dẫu búa ŕu dư luận / Bủa vây ta và em

Những con đường thề thốt / Lá thấp mùa sương quen

Dấu chân t́nh ta đẫm / Tuyệt vời phải không em ?

Nhưng rồi tới một ngày / Ta khăn gói ra đi

Mộng tàn trong đáy cốc / Khôn xiết nỗi biệt ly…

Bỏ em sầu trong Nội / Bỏ lại một đoạn ḷng

Ta đi làm lữ khách / Viễn xứ hề long đong!

Ta, đứa lạc trong sương / Mù thêm ngày cô đơn

Lắm lúc mơ vàng – đá / Thấy phai màu uyên ương

(Tôn Nữ có chờ ta ?)

 

Tôn Nữ được nhà thơ nhiều lần nhắc đến, như kỷ niệm đầu đời hay đă như nỗi nhớ khôn nguôi hoặc mùi hương hằng tưởng nhớ. Tôn Nữ được trang trọng viết hoa, trở thành một cụm từ dễ thương chỉ người đẽp miền sông Hương núi Ngự, ở các bài khác như : Gửi người áo tím, Đêm mưa nghe tiếng đàn bầu, Cảnh tượng tháng Giêng, Ngày tàn cuộc, Mùa Hạ về Thành Nội, v.v. :

 

T́m đâu ra em hở / Tôn Nữ của ngày xưa

Một thời ai nghiêng nón / Sửng sốt hồn trai tơ! … 1995

(HDBT tr. 82), và v.v.

 

Tôn Nữ hay người nữ tên bắt đầu bằng chữ H. ? H là ‘Huế’?

 

Ḿnh tan loăng vào nhau / từ lúc nào không biết

em như là chiêm bao / mềm trong anh cần thiết

thương lúc nào không biết / mà nghiêng ngửa hồn xưa

(…) nhưng rồi ḿnh xa nhau / bất ngờ như lúc đến

(…) năm năm em mật đắng / vàng lạnh chiếu chăn người

năm năm anh gặm nhấm / dấu ăn năn bên trời

bây giờ thu em ơi / c̣n đâu mà tan loăng

em đă thành dĩ văng / anh là gíó trùng khơi. 1993

(Thơ Tặng H. khi Mùa Thu Đến, HDBT tr. 73-74)

 

Người t́nh Thành Nội tha thiết trở lại trong Bài thơ thứ hai cho người t́nh sâu cố xứ:

 

Hỡi người em lệ sầu mắt đỏ

Áo trắng dài trong nắng vàng rung

Em biết không chiều nay anh nhớ

Thân lạc xứ người hồn đau gửi cố hương

Anh gửi hồn về thăm thành nội

Ơi mùa thu nhả lá đổ sương mù

Chiều xưa em hát như chim hát

Giọng vàng ḷng đá cũng mềm luôn …

(HDBT, tr. 16)

 

Ḷng đá cũng phải mềm th́ ḷng trai sao thoát được lưới t́nh?

H. phải chăng là Huyền hay Cúc Hoa, … và nàng áo tím ?

 

Ừ nhỉ, mười năm sầu xa xứ

Cô-lữ-hành rung tiếng đàn xưa

Nhớ ai như nhớ t́nh Tôn Nữ

Và màu áo-tím-huế trong mơ …

1991

(Gửi người áo tím, HDBT tr. 71).

 

Lưới t́nh bủa vây nhà thơ, ngày kia, người đẹp Cúc Hoa bên cửa giáo đường Gia Kiệm đă làm ḷng nhà thơ nhói đau, v́ con tim chợt hồi tưởng mối t́nh tưởng đă xa nhưng hăy hiện diện dù đă mười lăm năm :

 

Nép ḿnh bên cửa giáo đường

Ta chờ em giữa vô thường trần gian

Mắt nai trôi giữa hồi chuông

Hồn ta trôi giạt theo hương tóc thề

Mười năm, làm cách chim di

Thèm khăn áo mộng đi về với nhau

Nhưng em nào biết ta đau

Chiều Gia Kiệm có con tàu thương ga?

Hồi chuông làm nhớ quê nhà

Môi cười làm nhớ Cúc Hoa tần ngần

1989

(Chiều Gia Kiệm, HDBT tr. 54)

 

Huế ở Trần Dzạ Lữ là Huế của tâm hồn, Huế ở âm vang con chữ hơn là ngôn ngữ Huế sử dụng như với Hoàng Xuân Sơn, một nhà thơ khác của đất Thần Kinh. Với Trần Dzạ Lữ, Huế là những mối t́nh đam mê đầu đời và da diết, là không gian của những nơi t́nh tứ như Đồi Vọng Cảnh :

 

Trên đồi Vọng Cảnh với em

Bao cay đắng cũng hoá nên ngọt ngào

Sá ǵ đất thấp trời cao

Ta bay trong mộng với hào hoa xưa

Cho dù Huế chiều nay mưa

Ta xin nghiêng bóng che vừa t́nh em

Trên đồi chia một trái sim

Nửa ta bối rối, nửa em ngập ngừng

1995

(Trên đồi Vọng Cảnh, HDBT tr. 81)

 

T́nh của nơi Thành Nội những mùa hoa phượng nở, khi mất rồi có t́m về th́ cảnh đó cũng đă phai bóng người xưa :

 

Bây chừ hoa phượng nở / Rưng rưng chiều nội thành / Ta về phơi thương nhớ / Bên đường kỷ niệm xanh”…

(1995. Mùa Hạ về Thành Nội, HDBT tr. 82).

 

Huế là nơi chốn của những kỷ niệm đầu đời thuở mới lớn, nơi đă chứng kiến những mối t́nh non dại. Những bài của Trần Dzạ Lữ về Huế là những bàn t́nh ca trung thật nhất, v́ Huế cũng là nơi sinh trưởng nhưng người con xứ Huế thân yêu đă phải đi xa lang bạt theo ḍng đời. Những giây phút chạnh ḷng, nhà thơ nhớ về quê xưa và nếu có những dịp may, con đường xưa lối cũ dĩ nhiên làm con tim người trở về rộn ràng, hàng cây, con đ̣, … và người con gái tên Huyền :

 

Ta trờ lại con đường mười tám

Heo may về lướt thướt bên cây

Những bầy chim trắng xưa khuất bóng

Tóc mun ai thôi đổ sông dài

Nắng hanh vàng ơi-chiều Đại Nội

Ta vô ra một bóng phiêu bồng

Dấu tích vẫn c̣n rêu phong cũ

Mà t́nh kia quảy gánh long đong

Toà Khâm-vẫn lầu cao c̣n đó

Nhưng em xưa nay đă xa rồi

Câu mái đẩy giờ ai buông giọng

Mà nghe sầu cổ tích chơi vơi

Ta trở lại, nhớ Huyền xưa ơi!

Cốc cà phê Bưu Điện một thời…

Mai đi như gió-đời vô định

Biết dặn ḍ chi nữa hở người.

(Mùa Thu về cố xứ)

 

*

Mặt khác, ‘Hát dạo bên trời’ có thể xem như chủ đề của tập thơ của hơn 30 năm trời lận đận phận người trong thời ly loạn, chiến tranh. Nhà thơ từng triết lư rằng:

 

Ôm nửa vầng trăng lạnh / ta về bên trời cao

hát điên đời hiu quạnh / chống gậy nh́n mưa mau

Tuổi nay gần tam thập / sống lẻ như đá ṃn

bằng hữu mù tăm tắp / t́nh nhân như dao đâm

Mấy năm rồi không gặp / hồn nứt nỗi âm thầm

nhất túy buồn thêm đậm / ca ngâm vời cỏ cây

Cùng chỉ màu khói sương / ngẫm nghĩ hoài hương đỏ

mắt mờ đường chiêm bao / Ngắt một cành hoa nhỏ

nhớ thu biếc hôm nào / hồn ta chao chớn gió

nay biết về nơi đâu?

1973

(Hát dạo bên trời, HDBT tr. 32)

 

Hát dạo trong cuộc đời, rồi ca ‘cô lữ’ những bản nhạc đời:

 

Ta đứng lại bên đường xuân hiu hắt

Nghe hồn ḿnh như có bước ai xưa

Gơ sung mà ca chuyện người cô lữ

Mộng rất gần mà thực ở đâu xa

1974

(Cô lữ ca, HDBT tr. 36)

 

Người lữ khách đó theo ḍng đời trôi nỗi. Đà Nẵng cũng là nơi của t́nh yêu, của môi má, của người thân, nay trở về như ‘lữ khách’, nơi phải tất bật ‘theo cơm áo’ nhân sinh :

 

Đà Nẵng ơi ta là người về muộn

cuối sân ga môi má ấy em c̣n ?

hay đă tắt nụ cười theo cơm áo ?

mộng tao phùng theo gió trắng qua sông

(…) Đà Nẵng ơi, làm sao có lại một thời

em mắt biếc đi qua trường viện

ta chao về cánh chim chiền chiện

hạnh phúc ghé vào là tấm gương soi !

Đà Nẵng ơi, thương quá một thời

thuở chị đẹp trang đời lóng lánh

giọng Hoàng Oanh bắt đầu ngày ráo tạnh

lúa ngoài đồng hương cốm sinh sôi !

(Đà Nẵng, ngày ta về)

 

Cũng đành, như phận người, ở một đất nước như Việt Nam từng đă được hơn một nhà văn đề cập đến. Một buông xuôi bi thảm như thân phận nhược tiểu không tiếng nói :

 

Cũng đành người bỏ xa tôi

Để vun bên đó, để vơi bên này

Chim giờ lệch cả đường bay

Trời xanh đă thẳm những ngày hư hao!

Cũng đành buồn chuyện ca dao

Trầu cau đôi ngă, nắng nhàu, mưa xiên…

Cũng đành ngựa lạc, người điên

Suối trôi cô độc, sông biền biệt xa!

Tôi giờ “Trong cơi người ta”

Chiều không, quán vắng, đường xa độc hành

(Cũng đành)

 

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, có những lần về phép trở lại thành phố, người sĩ quan Truyền tin Trần Dzạ Lữ lại phải lên đường bỏ người yêu ở lại nơi thị tứ hậu phương, nơi cũng đă nhuốm mùi lửa đạn chiến tranh :

 

Em đừng hỏi ở rừng có ǵ lạ

có ǵ đâu xương ră với hồn đau

và khi không tháng giêng lên núi

đời đày ta và thần thánh xa nhau

(…) Em đừng hỏi ở rừng có ǵ lạ

có ǵ đâu ta từ buổi lên đường

hôn chưa kịp em – bây giờ hôn đất

thay chiếu giường bằng hầm hố cô đơn

Em đừng hỏi ở rừng có ǵ lạ

có ǵ đâu rừng rú điêu tàn

nai lạc dấu ngàn thương trăng cũ

ta nhớ người quay quắt trong sương.

1971

(Thư Gởi Người Ở Lại, HDBT tr. 25-26)

 

Tâm sự đôi lúc đành gửi bạn tri âm, như Cung Tích Biền, rằng phận chúng ta đă vậy, bước phiêu bồng đă mỏi, th́ sao không như Đỗ Phủ một thời Đường thi ? V́ :

 

Tôi sinh sau đẻ muộn / sao tâm sự giống ông

t́nh mây bay gió cuốn / đau từng câu thơ Đường

Đă đi khắp xứ sở / từng đụng nỗi hàm oan

đời sống và trang kinh / chưa bao giờ là một!

(…) Thà say như Lư Bạch / thà cuồng như Trí Thâm

tỉnh như tôi và ông / chỉ thêm mầm bệnh tật!

Nhưng ḿnh mau nước mắt / mặn nồng với cố hương

lẽ nào ta ngoảnh mặt / trước bức bách đời thường?

1990

(Gửi Đỗ Phủ, HDBT tr. 61-62)

 

Hết tâm sự đến nỗi nhung nhớ những người bạn thơ, bạn văn một thời chữ nghĩa khác, những Huy Tưởng, Nguyễn Mộng Giác, Vũ Hữu Định, … và cả những chốn vui bạn hữu như Quán cà phê Làng Văn. V́ buồn nhớ nào hơn những khi một ḿnh “Gối đầu lên hiu quạnh / Ngước nh́n mắt sao khuya / Tự dưng hồn lay động / Có phải người xưa về ?(Có phải, HDBT tr. 70).

 

Nhà thơ bỏ thế giới thi ca cao quí để đối đầu với thực tế cuộc đời. Ở chợ đời, nhà thơ phải bươn chải với đủ thứ ‘nghề’, phải vịn lấy để sống c̣n với đời :

 

Mười năm ở chợ không tri kỷ

Ta đứng thu thân một nỗi buồn

Sáng bảnh mắt ra, ngồi độc ẩm

Chiều về tra vấn lấy lương tâm

(…) Ở chợ đông, sao hồn cứ lạnh

Đốt thuốc hoài không ấm nửa chiều?

Thiên hạ đùn nhau đi kiếm sống

Nhân ái? Tang-thương-ngẫu-lục nhiều

Ta bán rau xanh, ngày mệt lử

Đêm c̣n ngồi đọc sách thánh hiền

Cố quên cơm áo – ṿng danh lợi

Sao đời nỡ hối thúc bên lưng?

(…) Mười năm ở chợ không tri kỷ

Gác chuyện văn chương thấy chẳng đành

Nên ta độc thoại – Ta đây nhỉ?

Thương nhớ xa xăm một bóng h́nh.

1989

(Ở chợ, HDBT tr. 47-48)

 

Sau biến cố tháng Tư 1975, nhà thơ lao động nhọc nhằn quá mà vẫn không nh́n thấy tương lai cũng như không đủ cho hôm nay. Cuộc sống đa đoan đưa người thơ phiêu lưu đến những nơi hiểm hốc, trở ra miền Trung đi t́m trầm t́m sống, ḷng nao nao nhớ về Nam nơi người thân sinh sống :

 

Trong đám đi t́m trầm / Chốn thấm sơn cùng cốc

Có người là nông dân / Bỏ cày lên mạn ngược

Có kẻ ở thị thành / Bẻ bút làm hảo lớn

Cũng có ‘Anh-hùng-tận’ / Vác rựa lên sườn non

(…) Lại có người xưng thánh / Có kẻ là ma vương

Tất cả đều thượng sơn / Cô hồn chung một lũ

Ngày rừng chan mưa lũ / Râu tóc ướt phiêu bồng…

Nói chung, đám t́m trầm / V́ đói cơm rách áo

Người yêu coi như không / Vợ con là gió thoảng

Chiều nay, qua Ba Ḷng / V́ đâu mà thương nhớ

Đâu phải gị phong lan / Tim tím chiều quyến rũ

Cũng không phải chùn chân / Trước núi rừng muông thú

Nhưng tất cả “binh đoàn” / Đều rưng rưng nước mắt

Lúc leo qua con dốc / Có tên là Mạ ơi

Dốc c̣n cao mong đợi / T́nh c̣n sầu chơi vơi

Riêng ta, th́ em ơi / Nhớ miền Nam tha thiết

Sài G̣n em có biết / Nỗi đau của mưa rừng

Không ngăi cũng t́m trầm / Áo cơm đang nặng nợ.

1985

(Qua dốc Mạ Ơi ở Ba Ḷng HDBT tr. 43-44).

 

Xa ‘cố xứ’, t́nh cảnh lưu lạc ‘đêm mưa nghe tiếng đàn bầu‘ sao ḷng không năo nuột thương đau?

 

(…) Mưa, mù đường chiêm bao / Đàn bầu rung rung nhớ

Mở ngực đời cô lữ / Chỉ là vết t́nh đau

(…) Tiếng mưa lẫn tiếng đàn / Nhớ ai ngoài nội cũ

Bao năm rồi mẹ hử / Con chưa lần về thăm!

(…) Đêm nay, nghe đàn bầu / Réo rắt, về gác lửng

Chợt hồn ta quay dựng / Quê người ? Quê xưa đâu ?

1989

(HDBT tr 49-50).

 

Trong những cơn khốn cùng, nhà thơ càng trân quư t́nh nghĩa tào khang của người vợ. H́nh ảnh trở nên đẹp dù trong tăm tối của ngơ cụt:

 

Ơi ngày ấy đắm cơn mê

Săm soi gương lược ta về với nhau

Ngờ đâu tuổi mộng bay mau

Hai vai lại nặng mối sầu áo cơm

… So dây đàn Thúy âm thầm

Mười lăm năm ấy đoạn trường là bao

Ơi ngày ấy đă chiêm bao

Thôi em ráng bước qua cầu cùng anh …

1990

(Nói với vợ hiền, HDBT tr. 56)

 

Anh trăn trở ngóng, em mường tượng mong“, làm người t́nh rồi vợ, người nữ đă xẻ chia vui buồn cuộc đời. Hoàn cảnh khó nhăn, ngay cả ngày cưới em nhà thơ cũng không về được, đành làm thơ xin lỗi gửi người em gái quê nhà ‘chơn chất’ “Hăy âm thầm lo toan cuộc sống / Cho chính ḿnh, ấy là đă thương anh” (HDBT tr. 65). Buồn, thất vọng, bất lực trước tàn nhẫn của cuộc đời, là những lúc nhà thơ đă nghĩ đến người xa xưa của một cơi hư vô nào !

*

Nh́n chung, nhiều bài thơ Trần Dzạ Lữ là những vần thơ hay, về Huế, về t́nh yêu, về cuộc lo toan sau 1975. Ông làm đủ loại thơ nhưng lục bát của ông có những nét rất riêng – những vần thơ của cuối thập niên 1960 :

 

Tay tôi vuốt mặt theo ngày

Chim bay về nhánh sầu cây âm thầm

Hồn xưa vừa chín ăn năn

Em đi biển động đă trăm nỗi buồn

Tôi về dáng thú buồn hơn

Trong hang mưa lạnh lưng khom sợi chiều.

1970

(Sợi chiều tà, HDBT tr. 17).

 

Hai hàng nến thắp áp quan

Người đi nhỏ giọt linh hồn mai sau

Nụ cười sẽ tắt ngàn thâu

Vầng trăng, xiêm áo trên đầu hư vô

1966

(Bài hư vô, HDBT, tr. 11)

 

Chiến tranh đă hiện diện trong thơ Trần Dzạ Lữ một cách b́nh thường, thủ phận, như không lựa chọn; bài Thầm hỏi trên tạp chí Văn (SG) số 138 (1969) là một điển h́nh:

 

Sao đêm chưa là đêm mở hội

Cho người về vui từng bước chân chim

Cho người quên tuổi-vàng-chinh-chiến

Đă ba năm dong ruổi trên ngàn

Sao đêm chưa là đêm mở hội

Cho mẹ già quên nỗi tủi chờ con

Cho thiếu phụ quên đời đá-đợi

Đă bao năm cắn lệ thương chồng

(…) Sao đêm chưa là đêm mở hội

Cho tôi về bên ánh lửa đêm đông

Hong thương nhớ những năm dài quạnh quẽ

Bên mẹ già em gái hết buồn trông.

 

Lời thơ hiền lành, kể cả khi buồn tức tột cùng, lời hằn học nhẹ nhàng như thoáng qua, như khi ‘tṛ chuyện với gác lửng’ trong khi vợ “V́ áo cơm mà em ra chợ / Một hồn buồn giữa cơi rau xanh / Ngày văng tục trên miệng người láu cá/ Mà em th́ líu lưỡi bởi không quen …” (HDBT tr. 45-46).

 

Ở Trần Dzạ Lữ, những h́nh ảnh Tôn Nữ, Hoa quỳ, Tháng Giêng, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng, … có mặt thường xuyên; đó là thành tố của một thế giới thơ lăng mạn, đam mê, mặc dù nhà thơ phải sống “giữa một biển đời giàu chất quỉ, lắm dạng ma, luôn huyên náo, huyền động, nồng cay trong từng lời mật ngọt …” – nói như nhà văn Cung Tích Biền trong lời Tựa cho tập Hát Dạo Bên Trời (tr. 8). Rồi những chữ dùng của riêng nhà thơ : cuộc về, giấc ngủ ca dao, đắp chiếu thương đau, chở mộng qua sông, mùa tôi dựng tóc lạnh màu thanh niên (Cảnh tượng tháng Giêng), v.v.

Như đă dẫn nhập, đọc thơ Trần Dzạ Lữ đối với những người từng theo dơi văn-chương, cũng là một cách hồi tưởng, sống lại : hồi tưởng một thời đại tức thời-gian. Xưa nay yếu tố thời-gian vốn được các nhà phân tích văn chương xem trọng, trong khi không-gian thường được xem như cái khung, cái vỏ vây quanh các định mệnh, nhân tố.

Thực ra yếu tố không-gian cũng khá quan trọng trong thế giới nghệ thuật nhất là thi ca; không-gian liên hệ mật thiết với thực tại, cái sống, làm nền và nội dung cho nghệ thuật. Huế, Thành Nội, Thành phố Hoa Vàng mà cả Sài-G̣n, Đà Nẵng, Đà-Lạt, Ba Ḷng, … đă là những thành tố quan trọng trong sự nghiệp thơ của Trần Dzạ Lữ; đọc thơ ông tức đọc không-gian Huế (và những nơi chốn khác). Văn bản ấy được người đọc khám phá như đă được miêu tả, bao gồm, nhắm đến, mơ tưởng đến, … Tùy tài năng tác giả mà ấn-bản thơ trở nên khác nào là một bản địa h́nh táo bạo. Huế mà mọi người đă biết hoặc sẽ biết trong thực tại hoặc với các nhà thơ Nam Trân, Hàn Mặc Tử, … chưa hẳn đă là không-gian Huế của nhà thơ họ Trần.

Thời-gian bao trùm, dĩ nhiên, nhưng phải bám vào một địa lư, nơi chốn, để có thể hiện diện, thành h́nh ảnh. Các địa danh đó khiến cho t́nh ư, tâm sự tác giả đă-đầy nhưng như vẫn-trống, đó là đặc tính đọc-được của không-gian trong nghệ thuật, nhất là thi-ca./.

 

NGUYỄN VY KHANH