Di yếm trong Thơ

Đng Tiến

 

 

 

 

 

 

 

tranh thái tuấn

 

 

 

 

Thơ Tết, thơ Xuân thường là ước lệ. Nhưng qua những ước lệ chúng ta có được nhiều câu thơ hay, và hay về nhiều mặt: nghệ thuật, tâm cảm và phong tục. Trên ba kích thước ấy, có lẽ Nguyễn Bính là người lưu lại nhiều thơ Tết, thơ Xuân hay nhất, từ tâm sự tha hương đến h́nh ảnh mùa xuân đất nước hay ngày Tết dân tộc:

 

Trên đường cát mịn một đôi cô

Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc

Tay lần tràng hạt miệng nam mô

(1973, Tâm hồn tôi)

 

Bài dưới đây ghi lại h́nh ảnh dải yếm, trong y phục phụ nữ Việt Nam ngày xưa, sau này ít người dung và nhớ đến. Yếm là mảnh áo lót, che phần ngực bụng, h́nh quạt, có hai cặp dây buộc phía sau cổ và eo lưng. Tấm yếm gắn bó mật thiết với thân xác và nhan sắc người đàn bà, vừa khêu gợi vừa ǵn giữ, phô bày và che đậy. Dải yếm nằm trong biện chứng kín và hở, khoe và che.

 

Trong thơ cổ điển, Hồ Xuân Hương đă tả dải yếm đào trong bức tranh thiếu nữ khêu gợi và thanh tú:

 

Lược trúc biếng cài trên mái tóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi g̣ bồng đảo hương c̣n ngậm,

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

 

Trong bài tơ Vịnh Ốc Nhồi, tương truyền của bà, có chuyện “bốc yếm” lẳng lơ hơn:

 

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi

Lăn lóc đêm ngày đám cỏ hôi

Quân tử có thương th́ bóc yếm

Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

 

Về tấm yếm truyền thống, ông Lam Điền trên báo Kiến thức ngày nay, số Xuân 1994, có bài viết vừa căn cơ vừa bay bướm:

 

“Ở chừng mực nào đó, chiếc yếm thể hiện được bản sắc văn minh Việt Nam: kín đáo, đạo đức nhưng cũng rất gợi cảm. Đối với một cô gái trẻ, chiếc yếm dùng để che bộ ngực thanh xuân bát ngát, làm giảm đi tính cách khiêu khích của phái tính nhưng đồng thời vẫn nói lên một thứ ngôn ngữ lăng mạn của niềm tự hào về phái tính. Đó là chiếc yếm được may với những màu sắc tươi đẹp: màu hồng của hoa đào, màu xanh lục của lá non, màu xanh phỉ thúy của ngọc, màu trắng của b́nh minh nhan sắc. Chiếc yếm ấy được mặc trong cái áo tứ thân và vào những dịp quan trọng, những ngày lễ hội (…). Mùa xuân chiếc yếm thắm tạo màu sắc tưng bừng trên khắp nẻo đường quê. Những ngày hội làng, những đêm hát chèo, hát bội; chiếc yếm thắm rộn ràng những cuộc gặp gỡ, xôn xao những xúc động t́nh yêu và long lanh những lời ḥ hẹn”

(Lam Điền, tr. 70).

 

Trong bài Chợ Tết, chỉ trong hai câu thơ ngắn, Đoàn văn Cừ đă mô tả hai loại yếm khác nhau:

 

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ

Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ

 

Dải yếm thắm sặc sỡ, trang sức của tuổi trẻ, và tấm yếm không màu – chắc là yếm sồi, nhuộm nâu hay đen, của người mẹ, thầm lặng, kín đáo. Ông Lam Điền, trong bài báo đă dẫn cũng có nhắc đến chiếc yếm quê, phổ biến trong toàn quốc: “Tôi nhớ măi h́nh ảnh bốn mươi năm về trước, dưới lũy tre của làng Bàn Thạch nằm cuối hạ lưu sông Thu (Quảng Nam). Mẹ tôi mặc chiếc quần vải tám đen, phía trên mặc chiếc yếm nâu lam lũ, đang khâu vá hoặc đang lặt rau, chẻ củi (..) Tôi và bao nhiêu người trạc tuổi tôi đă lớn lên từ những ḍng sữa ngọt, tự nhiên phía sau những chiếc yếm”. Viết được một đoạn như vậy, Lam Điền là người có t́nh có nghĩa.

 

Dải yếm thắm trong Thơ Mới, nơi Anh Thơ, Nguyễn Nhược Pháp chẳng hạn, chỉ phảng phất âm hao xa vắng của những hương nhạt màu phai. Phải đợi đến thơ Hoàng Cầm th́ dải yếm, ngoài giá trị hoài niệm, mới đạt tới chức năng thẫm mỹ, và động lực tạo h́nh, diễn đạt và cấu trúc:

 

Bao giờ về bên kia sông Đuống

Anh lại t́m em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trảy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn ḷng xuân xanh

(1948)

 

Và phải đến tập thơ Về Kinh Bắc (1959-1960, xuất bản 1994) chúng ta mới t́m thấy nhiều h́nh tượng đẹp về dải yếm, từ người mẹ:

 

Mùa chưa về

Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ

Dăy tre xa giấu biệt dải khăn diều

Khi gậy nắng ăn mày đă quăng sau núi

Hàng tre nhả yếm

                          trả Mẹ về

lều dột đón mưa đêm

… Bao giờ Mẹ về

Buổi yếm đào phai vỗ hát ru

(Đợi Mùa)

 

Cho đến dải yếm “rợn xuân t́nh trên bộ ngực thanh tân” (Đinh Hùng) của những ngày hội:

 

Luồn tay ôm say

giấc bay lay đỉnh núi

Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành

(Thi đánh đu)

Gái Tam Sơn đờ đẫn mời trầu

Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt

(Hội vật)

 

Đến lúc nào đó trong sáng tạo, cái yếm mất tính chất hiện thực của nó, trở thành một h́nh tượng nghệ thuật có chức năng cấu tứ - như một số điển cố trong thơ xưa:

 

Chùa Phật Tích ruổi trong màn lụa bạch

Chuông chiều cởi yếm

Chuông sớm đội khăn

Trưa hè găy rắc cành hoa đại

Mái hậu cung bồ các tha rơm

Liếu điếu vỗ hoa soan lả tả

Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân

(Đêm thủy)

 

Chức năng cấu trúc của h́nh ảnh dải yếm trong thơ Hoàng Cầm rơ nhất trong bài Hội yếm bay ở tập Lá Diêu bông (1993). Giữa hàng chục đám hội hè trên quê hương Kinh Bắc, Hoàng Cầm tưởng tượng thêm “huyền sử”, một lễ hội các nàng hoa khôi phải … tung yếm:

 

Đă phanh yếm mỏng th́ quăng hết

Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây

 

Vị trí ưu đăi của dải yếm trong thơ Hoàng Cầm là một biệt lệ, có thể là duy nhất trong thơ Việt nam, v́ bản thân thơ Hoàng Cầm đă mang sắc thái đặc biệt, một định mệnh lẻ loi. Ngày nay, trong thơ hiện đại – và đời sống – ta không c̣n thấy yếm, ngoài kư ức những nhà thơ cao tuổi.

 

Đă đành là vậy, cuộc đời là vậy, nhưng chúng ta vẫn ái ngại cho tâm t́nh một Nguyễn Bính ngày xưa, khi cô gái “đi tỉnh về”:

 

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm. Em làm khổ tôi

Thị thành bôi nhọ em rồi

Nào đâu cái yếm mua hồi sang xuân.

 

Mấy câu này là nguyên bản bài Chân quê (1937) trong tập Tâm hồn tôi, do nhà Lê Cường in năm 1940. Những bản in sau này đă thay lời đổi ư. Giấy trắng mực đen, ngày một ngày hai, c̣n thay đen đổi trắng, trách cứ chi cô gái quê chỉ mới ngấp nghé xài… khuy bấm.

Chuyện cái yếm là cuộc rong chơi dông dài ngày Tết, không nên lấy làm đề tài văn hóa, văn chương hệ trọng.

 

 

Đặng Tiến

12-2006