Thư Gi

Đan Tâm Phm Ngc Lư

Trnh Tun

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quả thật, để hiểu được đâu nhất thời, đâu vạn đại, hiểu được cái khôn mới hôm qua hôm nay đă trở thành cái dại, chẳng hề dễ nào! Phạm Ngọc ơi Phạm Ngọc , anh hạ bút cách đây đă hơn cả thập niên, sao câu chữ vẫn nóng ḍng thời sự. Dẫu đọc hết một trăm bồ chữ, th́ để làm , khi vẫn thua đau một đứa ḷn trôn(!)

 

Nhưng ơi, đến bây giờ th́ đệ đă hiểu ra được tại sao Hoài Thu Tử ngôn. ngôn chi thượng sách. Cái câu Ngô Th́ Nhậm nuốt nghẹn nơi cửa Khổng, cứ vang vang trong đầu mọi kẻ bao đời, rằng: Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế! Xưa Đồ Chiểu dùng bút lông đâm mấy thằng gian bút chảng , nay bút sắt dùng đâm người thiện vẫn cứ toè, th́ cái nhẽ phong tống thời lai đă rành rành.

 

Nhắm mắt vấn cao xanh rằng, ḷng ta bề chi nao núng, chí ta bề chi khiếp sợ, cao xanh bặt ngôn như cũng tri t́nh. Đám tinh lập lờ mang theo bao huyễn sự, nhưng cũng giúp ta sáng bao điều. Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu, nhẽ ấy lẽ chưa tường. Nhưng vận thế h́nh thời ứng vào cái cảnh tiềm long vật dụng, đông c̣n lạnh lẽo, cây vẫn xác , rồng chưa quẫy nơi góc ruộng, th́ đâu thể vận cái thuần Càn cho uổng sức hoài tâm.

 

Kẻ ngắn học đồ tin chê đoản chí, rằng đă im bặt tiếng lời. Người thức giả mỉm cười ngoảnh mặt, vi tự an thôi! Thất phu hữu trách thật mừng | Trượng phu phận chỉ ung dung cười... Bỗng như chua xót, bỗng như ngậm ngùi khi nhận được mail huynh gửi, dẫn bốn câu: "Dạ trích không giai | Trích trích không giai | Không giai trích bất nhập | Trích nhập sầu nhân nhĩ ", nghe sao năo nuột, nghe sao quạnh hiu! Cái điệp từ "trích trích" như cứa vào ḷng, làm bật ra bao tâm sự. Đă xa rồi cái thuở "Trông núi khi lầm bóng vợ | Ôm đá chuyện yêu đương", sao vẫn cứ thấy cứ muốn "Chém cây cho đỡ thèm giết chóc | Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương"! lẽ cái nghiệp chướng của ḷng không sao khác được, vẫn vậy, vẫn chỉ vậy, vẫn như vậy, cho h́nh thế khác đi, h́nh tướng đổi thay, h́nh dạng biến thiên, th́ tâm can của bể dâu vẫn nguyên một, không dịch, không biến sắc.


Mỗi người mỗi phúc, mỗi hoạ khác nhau,  nhưng nỗi đau thật giống nhau đến kỳ lạ. Hoàn cảnh khác nhau nhưng cái nhục của muôn đời thật giống nhau như đúc. Nỗi đơn luôn giày xéo ruột gan giữa bầy đàn lạo xạo, không thể ḥa đồng, cũng chẳng thể ḥa tan, cứ như núi ngh́n năm trơ trọi giữa bể dâu không thưa thốt. lúc, ngỡ tưởng xơa ḿnh được ra với đời, nhưng chưa cạn nói cười, th́ miệng lưỡi đă vênh cong, rộp vỉa, bởi chúng âm hỗn tạp đánh úp vào ḷng. Thư trước viết riêng cho bốn hiền huynh, xem ra cũng chỉ bấy nhiêu thôi, không tài t́m đâu ra ai trong thiên hạ nữa. Người người đă cặp đôi, bạn , ngưu tầm ngưu tầm cả rồi, không chừa ra một góc hẹp, một lối nhỏ nào cho ḿnh cả. Bị lọt thỏm giữa một thế giới không đầu không cuối, không khứ không lai, không sinh không diệt, không thái không , chỉ nhàn nhạt đèm đẹp, thật trơ khấc ráo hoảnh.

 

Xem ra, cái dụng công của đệ Hoài Thu Tử trong việc chữa trị cho cha đệ cũng khó thành. Y thuật chỉ thể chữa được thân bệnh, c̣n tâm bệnh nghiệp bệnh th́ chỉ thể phụ thuộc vào chính người bệnh phụ thuộc vào ư trời thôi. Ông cụ vẫn b́nh an nuôi hi vọng vượt thoát, dẫu những cơn đau vẫn chèn lên mọi ngơ ngách tế bào thân thể. Sự dũng mănh ấy của một người từng làm lính, khiến đệ được an ủi rất nhiều. Chí ít, làm cho đệ bớt đi những việc như tự ch́ chiết bản thân ḿnh, về cái nợ nam nhi, cái Thế ẻonương thân nơi thê thiếp. Lại thấy nhớ cay sống mũi đến Tố Như mười năm náu phận chốn Kinh Kỳ. Lại thấy nhớ đến ḷng Tôn Tẫn ngủ với heo nơi nước bạn. Lại thấy nhớ đến nao ḷng " gái đ̣" đă chở huynh qua Phá Tam Giang... Thiên hạ mênh mông, ḷng người chật hẹp, chẳng ai nỡ nh́n nhau trong thiện niệm, chữ nghĩa dẫu đầy mỹ ư, cũng chẳng làm sao ái ngữ được nữa rồi. Buồn như bữa huynh đệ chở nhau đi mấy ṿng thành phố Đà Nẵng, vào quán uống trà cung đ́nh, ngó cái hoành phi hai chữ viết không đúng cả hai. Buồn như bữa huynh đóng bao thư tịch, chở ḷng ṿng qua hết bạn này khác để nương nhờ, sợ quỷ người cướp mất. Ôi, cuộc dâu bể sụt trồi chi ngao ngán...

Trịnh Tuấn

viết ngày 23/12/201