Ðà Nẵng Của Tôi |
Phan Xuân Sinh |
Từ
lâu tôi chờ đợi một người nào đó viết về quê tôi, như Phan
Nhự Thức viết về Quảng Ngãi, Nguyễn xuân Hoàng viết về Nha
Trang, Trần Doãn Nho viết về Huế. Thế nhưng chẳng có ai làm điều
nầy giùm tôi, hoặc có người viết rồi mà tôi chưa được đọc,
thôi thì bây giờ tôi viết về Ðà Nẵng của tôi vậy. Thật
tình thì Ðà nẵng cũng không có nhiều danh lam thắng cảnh, cũng
ít nơi thơ mộng. Người dân chúng tôi nòi văn chương chữ nghĩa
cũng ít, nhưng nói “ móc họng" thì nhiều. Danh nhân thì đếm
trên đầu ngón tay các ông Thái Phiên, Aùn Nại…mà những người
chính tông Ðà Nẵng cũng ít người biết. Còn ông Phan Châu Trinh,
Trần Quý cáp, Nguyễn Duy Hiệu v.v.. tiểu sử các ông ai ai cũng biết.Thường
thì Ðà Nẵng-Quảng Nam là một, nó dính liền với nhau cùng một
thân một gốc, từ phong tục, tập quán, văn hóa, xã hội và nhất
là "cãi lộn" cũng đều y chang như nhau. Trong thời kỳ Pháp
thuộc họ chia anh em chúng tôi ra làm hai cho dễ cai trị, nhưng chỉ
mỗi một việc là hành chánh còn tất cả chỉ là một. Tôi còn
nhớ khi học tiểu học, tôi học trường Hòa Vang, trường nầy
thuộc tỉnh Quảng Nam mặc dù tôi là dân Ðà Nẵng, nhà tôi cách
trường chừng bảy trăm mét. Họ chấp nhận cho tôi vào học tức
là họ xem tôi là thành phần con cháu của Quảng Nam. Nói thế để
quý vị các tỉnh khác biết rằng nói đến Ðà Nẵng tức là nói
đếùn Quảng Nam. Chớ dại thấy mấy ông Quảng Nam ngồi đó mà
đụng chạm đến Ðà Nẵng thì quý vị sẽ bị phản ứng ngay lập
tức, "cãi" cho tới cùng.
Tôi sinh ra và lớn lên tại làng Nại Hiên Tây thuộc trung tâm của
Ðà Nẵng,( Ðà nẵng lúc ấy chỉ có 7 làng tại trung tâm: Bình
thuận, Phước Ninh, Nam Dương, Thạch Gián, Thạch Than, Hải Châu, Nại
Hiên Tây), ranh giới phía tây là ngã ba Huế, Phía nam là Chợ Mới,
đông bắc đều giáp biển. Làng tôi nghèo nhất thị xã, dân
chúng phần đông sống bằng nghề khuân vác bến tàu hoặc các kho
hàng, một số ít buôn gánh bán bưng. Tôi lớn lên giữa một phố
nghèo xơ xác. Có ai đó nói rằng quê hương như vậy thì chẳng
có chi là thơ mộng nên làm sao mà viết được. Bây giờ tôi mới
hiểu ra được một phần, tôi có quá nhiều điều để viết về
quê tôi, từ con người đến con đường, từ mái nhà đến góc phố
v.v…trong lòng tôi tất cả đều khác những nơi tôi đã đi qua, nó
dễ thương hơn, đẹp đẽ hơn, mật thiết hơn, vì đó là quê hương
của tôi. Nó là hiện thân những cái gì trân quý nhất chất chứa
trong lòng tôi, "Quê hương mỗi người chỉ một.." câu
hát khi còn ở Việt Nam tôi thấy nó rất "sáo" làm sao ấy,
thế mà qua Mỹ thỉnh thoảng nghe lại bỗng dưng tôi ray rức, cuống
cuồng. Mỗi lần nghe bài nầy là Ðà Nẵng hiện ra trước mắt tôi,
giòng sông Hàn đang lững lờ trong đầu tôi, khuôn mặt của những
thằng bạn nhỏ chập chờn ẩn hiện. Như vậy mới biết quê hương
luôn luôn nằm trong trái tim, luôn luôn chực chờ, phục kích đâu
đó sẵn sàng tràn ngập khi có dịp.
Nhà tôi gần Cổ Viện Chàm, những buổi trưa hè oi bức rủ vài
thằng bạn vào đây ngồi dưới tượng Chàm mát rượi, chạy trốn
cái nóng của gió Lào đang vật vã quê tôi, mỗi lần vào đây
tôi thấy trong người lâng lâng, những hình tượng đầu voi, mặt
khỉ không làm cho tôi sợ mà tôi lại thấy thân quen. Tôi thường
hay ra ngồi những bậc tam cấp dưới những hàng sứ già nhìn ra
sông Hàn, những con thuyền buồm trắng qua lại dọc trên sông thật
thơ mộng. Hình như khi tôi biết những hình ảnh qua trước mắt tôi
"thơ mộng" thì chính lúc đó tôi cũng bắt đầu làm thơ.
Những câu thơ “con cóc” đầu tiên ra đời chuyên chở những thứ
lãng mạn tưởng tượng. Hồi học lớp nhất đăng được một bài
thơ trên báo Tuổi Xanh ở Sài Gòn mang vào lớp khoe với chúng bạn
đến tai cô giáo, cô gọi tôi lên đưa tờ báo cho cô xem, cô
không cho tôi một lời khen nào mà phán một câu: "Học hành chẳng
ra chi mà bày đặt thơ với thẩn". Cô giáo đã bóp chết tài
năng của tôi vừa chớm nở. Từ đấy vì quá mắc cở với bạn
bè tôi không dám làm thơ, không làm thơ nhưng học hành cũng chẳng
ra chi, thi trượt vào đệ thất trường Phan Châu Trinh, đành phải
mài lũng đít quần ở trường Tây Hồ và Sao Mai. Ðây là khoản
thời gian đẹp nhất của tôi, để lại cho tôi biết bao kỷ niệm
buồn vui nhất trong đời, cái thuở học trò vừa mới lớn, yêu
thầm nhớ trộm, mơ mộng viễn vông.
Cũng như những thành phố khác Ðà Nẵng cũng có những con đường
dễ thương, tình tứ, một bờ sông nên thơ mà những kẻ yêu nhau
để lại ở đó biết bao kỷ niệm. Thuở còn đi học thỉnh thoảng
trong lớp thường tổ chức những cuộc picnic bằng xe đạp, từng
đoàn học sinh đạp xe lượn vòng trên các con đường đi Sơn Chà,
Tiên Sa, Mỹ Thị, Non Nước, Nam Ô, Khuê Trung, Cẩm Lệ…những địa
danh thân thuộc mà mấy chục năm xa rời Ðà Nẵng tôi vẫn nhớ
rành rọt từng gốc cây, con đường, bãi cát. Những quán cà phê
Diệp Hải Dung, Cà phê Hạ, cà phê Ngọc Lan, cà phê Thông Tin, mà
tôi đã ngồi hàng giờ để nhìn những giọt cà phê rơi xuống đáy
ly. Kiosque bên kia đường của cà phê Thông Tin là tiệm bán kính
đeo mắt, có một người con gái rất đẹp tên là Ðông, đã làm
điêu đứng biết bao thằng học sinh trồng những gốc"si"
tổ bố, hình như lúc ấy tôi cũng ở trong nhóm lóc nhóc nầy. Rồi
một ngày nào đó nghe tin Ðông lấy một ông sĩ quan Hải quân và
vắng mặt ở tiẹâm kính bên kia đường, lúc ấy tụi tôi cũng
không còn thích thú uống cà phê ở góc đường Thông Tin nữa.
Làm sao tôi quên được những cái tên Trương Thị Ngọc Thật, Lâm
Thị Sâm, Phan Thị Sách, Nguyễn Thị Thy, những người một thời
đã làm rớm máu trái tim "mới lớn" của tôi, đã nâng
tôi lên chín tầng mây rồi nửa chừng thả tôi rơi xuống hố thẳm,
cho tôi nếm thử mùi vị ngọt ngào, cay đắng của một thứ tình
yêu tưởng chừng như không thật, cho tôi những tháng ngày buồn
vui rộn rã, bơm cho tôi no tròn nhưng cũng đâm cho tôi xì hơi xẹp
lép và cũng bắt đầu từ đó tôi sợ hãi những người con gái
có chút nhan sắc nhưng lại tính toán chi li trong tình yêu, đem tình
yêu làm trò tung hứng nô đùa. Ðà Nẵng giết mòn mõi tôi của những
ngày mới lớn, đẩy tôi đến tận cùng bờ tuyệt vọng của cuộc
đời. Thế mà với tôi luôn luôn và bao giờ tôi cũng trân quý, thương
nhớ đến thành phố nầy. Ngoài trừ bài học đầu tiên về tình
yêu còn tất cả nơi đây đã tập và dìu dắt tôi từ bước đi
đến lời ăn tiếng nói, từ một tấm lòng dành cho tha nhân đến
căn bản đạo đức làm người, nghĩa là Ðà Nẵng là một biểu
tượng cao quý nhất chiếm hầu hết những suy nghĩ của tôi.
Xa Ðà Nẵng gần 30 năm, mỗi lần gặp ai đó cùng quê nhắc lại
hai chữ Ðà Nẵng là tự nhiên lòng tôi quay quắt muốn trở về.
Tự nhiên những hình ảnh những người thân của tôi hiện lên.
Ba tôi , một thầy giáo hiền hòa, suốt đời tận tụy với nghề
nghiệp, suốt đời sống trong bần cùng nhưng trong sạch, người dân
làng Nại Hiên quý trọng ông, ước ao của ông cũng bình dị như
những người dân nghèo quê tôi là mong cho con cháu nên người, còn
cái khổ cực của bản thân ông không đáng kể. Khi tôi vừa đặt
chân đến Mỹ vài tháng thì được nghe tin Ba tôi mất, ông chưa kịp
hưởng được những đồng đô-la do tôi gởi về thì ông vội
vàng ra đi, sống trong nghèo khổ chết trong thanh bạch. Ba tôi trước
đây có một người bạn thân thiết như anh em ruột . Chú đúng
là hình ảnh người Quảng Nam chân chính. Cho đến bây giờ tôi vẫn
còn nhớ hình ảnh của chú, mỗi lần trong quê ra Ðà Nẵng dự đám
giỗ kỵ, Chú mang khăn đóng áo dài, đôi guốc mộc bao giờ Chú cũng
kẹp nách chứ không mang. Vào đến nhà ngồi trên ghế đàng
hoàng, bắt đầu Chú phủi hai bàn chân vào nhau rồi nhè nhẹ đặt
chân vào guốc, nếu xỏ mạnh như sợ đôi guốc bị đau. Từ bến
xe về nhà tôi cũng xa, trưa nắng như đốt đường cái nóng sôi,
thế mà chú Kết của tôi không sợ da chân bị lột, bị bỏng,
mà sợ đôi guốc bị mòn. Có lần đến bên Chú hỏi về điều nầy,
Chú mộc mạc trả lời, đi chân đất quen rồi mang guốc khó đi,
hơn nữa đi xa sợ guốc mau mòn. Ðó là hình ảnh tiết kiệm cố
hữu của những người dân quê tôi.
Ba tôi thường ngồi kể cho tôi nghe những chuyện về con người,
tập quán, phong cách, ăn uống của người Quảng Nam Ðà Nẵng qua
cái nhìn mang chút hài hước của ông. Có lần nhìn chú Kết, ông
nói với tôi, các thư sinh Quảng Nam ngày xưa ra Huế đi thi, làm
sao mà mang guốc lội bộ qua năm cái đèo, phải đi bằng chân đất
như Chú Kết bây giờ vậy, ra đến Huế thì đoàn thư sinh Quảng
Nam không giống ai hết, quần thì ống cao ống thấp, áo thì vắt
vai, guốc thì kẹp nách, giọng nói rổn rảng khó nghe có phần cộc
cằn, đôi lúc “móc họng" người ta. Thế mà các tiểu thư
Huế lại chịu cái loại đàn ông nầy, đàn ông thật thà chất
phát, ăn cục nói hòn nhưng trong bụng đầy kinh thư chữ nghĩa. Bằng
chứng là năm ông quan đầu triều Nhà Nguyễn được phong"
Ngũ Phụng Tề Phi". Người Quảng đi đâu, ở đâu mỗi lần
nhắc nhở về quê hương, họ cũng đều hãnh diện, sướng rân
lên với cái xứ sở " Ngũ Phụng Tề Phi" của họ. Ðể
an ủi cho cái nghèo, cái thiếu ăn, họ cho rằng đất của họ
" nhân tài mọc nhiều quá lúa mọc không nổi", nên cái
chuyện quanh năm không đủ gạo phải ăn độn là chuyện bình thường.
Nói đến cái ăn thì quê tôi "kỵ” nhất là đồ ăn có nước
nhiều lỏng bỏng mau đói, mì Quảng thì rau phải xắt nhỏ để
chứa được nhiều, nước lèo chan vừa đủ thấm. Không có nơi nào
ăn mặn bằng dân Quảng Nam, mắm phải mặn cho đở hao. Mít thì
thích ăn mít ướt để ăn được nhiều còn mít ráo vài múi thì
đã ớn. "Aên chắc mặc bền" đó là câu thực dụng nhất
cho quê tôi. Khi còn ở Sài Gòn tôi có một cơ sở làm ăn nhỏ, thỉnh
thoảng cũng làm mì Quảng, bánh đập để đãi công nhân. Theo
thói quen mì chan ít nước giống như ngoài mình, nhưng dân Nam Kỳ
ăn như vậy không quen họ phải chan nước cho đầy như bún bò hay
phở, còn bánh đập họ không chấp nhận được vì bánh đập
trong Nam có thịt bò nướng kẹp vào, bánh tráng bánh ướt trống
trơn chấm mắm thì chẳng có chi hấp dẫn. Có một lần về lại
Ðà Nẵng các bạn tôi dẫn đi Cẩm Lệ để ăn bánh tráng cuốn
thịt heo, khi chấm vào chén mắm cái, tôi mới giật mình vì mắm
quá mặn, khẩu vị của tôi không còn thích hợp vì mấy chục năm
sống trong Nam tôi quen với mắm nêm có vị lạt hơn, ngọt hơn.
Một lần về thăm Ðà Nẵng, ngồi trước nhà người bạn ở đường
Ðộc Lập, một chuyện thật tức cười làm tôi thấy thương và
tội nghiệp cho quê tôi. Ðường Ðộc Lập xưa nay chỉ chạy một
chiều, xe đang chạy thuận giòng bỗng dưng có một thanh niên từ
đâu chạy ngược chiều và tông vào một xe khác. Hai bên thả xe
ra giữa đường to tiếng cãi nhau suýt ấu đả, phải trái gì
không biết cứ cãi nhau, đúng ra chỉ một lời xin lỗi thì mọi
chuyện đều xong, vì hai xe chẳng thấy hư hại gì, thế mà họ
"tiết kiệm" một lời xin lỗi và dùng thoải mái lắm lời
cho việc cải vã. Ðúng là xứ Quảng Nam hay cãi của tôi, về Sài
Gòn kể lại chuyện nầy với anh Tường Linh, bằng cái giọng lý
sự rất Quảng Nam của ảnh vừa nói chơi vừa nói thật: "
ông bà của mình ngày xưa tội đồ của Triều đình bị đày vào
xứ Quảng Nam, trên đe dưới búa, thấp cổ bé họng, sự uẩn ức
lâu ngày đè nén nên khi tràn ra được thì cứ tràn, cãi nhau
không cần phải trái trắng đen, miễn sao cho hả được giận. Nên
tụi mình có cái "gen" nầy." Người xứ khác làm sao
hiểu được cái "kỳ cục" nầy của người ngoài mình, họ
chỉ thấy sự ương ngạnh ngang ngược, câu nói mang hai ba nghĩa mạt
sát, thọc gậy, móc họng đối phương. Họ làm sao hiểu được cái
bản tính dứt khoát, chịu đựng, chung thủy của mình. Yêu, ghét,
bạn, thù phân minh. Hồi còn nhỏ tôi sợ nhất là những ngày giỗ
kỵ hay chạp mã, thế nào trong bữa ăn cũng có cãi lộn, cũng to
tiếng, cũng nói móc, xỉa xói với nhau, hình như đây là cái tật
và đúng dịp để mọi người tự do phát biểu, nói ra được các
điều u uất trong lòng cho vơi đi chút tự ái, thua thiệt.
Bạn bè của tôi phần đông ở các quận Ðại Lộc, Ðiện Bàn,
Duy Xuyên, Hội An nên nhà tôi ở Ðà Nẵng là trung tâm vãng lai của
bạn bè. Hạ Ðình Thao, Lê văn Trung, Vũ Ðức Sao Biển, Kiều
Uyên, Ngô Thi, Ðỗ Hơn, Nguyễn Thang, Thái Tú Hòa. Ðó là những người
khách thường xuyên nhất của tôi khi còn học sinh, chúng tôi có với
nhau những kỷ niệm sâu đậm của thuở hàn vi, các "thi
hào" nầy dần dần rụng mất sau cái thời Tiểu Thuyết tuần
san của ông Nguyễn Thiện Dzai đình bản, chỉ có một hai người
còn đeo đuổi nghiệp viết lách như Vũ Ðức Sao Biển, Lê Văn
Trung. Cái thời học sinh thật dễ thương, mang nhiều mộng mỵ,
thư tình viết tràng giang đại hải không biết mệt, thuốc lá hết
điếu nầy sang điếu khác hút không kịp thở. Ơû Sài Gòn nhà
tôi sau nầy cũng trở thành nhà khách cho các bạn cũ ở Ðà Nẵng
vào và thêm các anh Hà Nguyên Thạch, Ðinh Trầm Ca, Phan Nhự Thức,
Uyên Hà. Tôi có dự đám cưới của anh Phan Nhự Thức hồi còn
ở Sài Gòn, ngồi cùng bàn với Anh Chị Hồ Thành Ðức và Bé Ký
(nhưng lúc ấy tôi không quen với anh chị và cũng chẳng có ai giới
thiệu cho tôi biết). Anh Tường Linh sau 75 cùng làm việc với tôi
ở một tổ hợp sản xuất Bột trẻ Em Ðông Phương ở đường Bạch
Ðằng Bình Thạnh. Còn anh Ðinh Trầm Ca cùng làm với tôi ở kem đánh
răng Mimosa. Ðó là những khuôn mặt văn nghệ của xứ Quảng mà
tôi đã quen và thân thiết.
Tôi lập gia đình tại Sài Gòn, vợ tôi là người Bắc, khi quen
nhau không biết rằng vợ tôi trước đây sống và lớn lên ở
Ðà Nẵng, xuất thân từ Trường Pascal. Khi hai đứa đến hồi
"gở không ra" thì tôi mới phát hiện vợ tôi biết quá
nhiều về quê tôi, kể vanh vách cho tôi nghe từ con đường góc phố,
từ ly chè Ngã Năm đến tô bún bò Bà Ðào, từ bánh bèo chén trường
Nam Tiểu Học đến bánh xèo đường Lê Ðình Dương, từ bến đò
Hà Thân đến bãi biển Thanh Bình. Và cuối cùng phán cho một câu:
"Em sợ cái xứ đó quá rồi chạy vào đây mà cũng không
tránh khỏi", lời trách móc đáng yêu đó tôi nhớ suốt đời.
Con gái Bắc tế nhị, khéo léo bao nhiêu thì con trai Quảng Nam cộc
cằn, độc đoán bấy nhiêu, họ kín đáo, thầm lặng bao nhiêu
thì mình hoạch toẹch, ồn ào bấy nhiêu. Oâi cái xứ mình tạo ra
những con người như thế, quá thẳng thắng, quá cứng rắn, mà
cái gì "quá” thì nó cũng căng dễ đứt, không hay. Vừa phải
chừng mực thì tốt hơn. Thế nhưng người Quảng thì không chịu
thái độ không dứt khoát nầy, chấp nhận tràn đầy chứ không
thể lưng chừng. Ðó là một đức tính rất tốt nhưng khi xử thế
rất ít thành công. Một lần về thăm lại Ðà Nẵng chở vợ đến
nhìn lại ngôi trường Pascal, đứng trước cổng trường vợ chồng
tôi xúc động ghê ghớm, không ngờ một ngôi trường đẹp đẽ
hiền hòa đã bị tàn phá thô bạo như vậy, thảm cỏ xanh mướt
ngày nào bây giờ thành bãi chất cây cối ngổn ngang, những lớp
học ngày xưa biến thành chổ sản xuất. Vợ tôi không còn can đảm
đứng nhìn thêm, cúi đầu rưng rưng nước mắt. Tới trường Sao
Mai đứng ở cổng sau (đường Lê Ðình Dương) nhìn vào, ngôi trường
hằng mấy chục năm không được tu bổ, tường rêu phong loang lổ,
học sinh ăn mặc lếch tha lếch thếch, thầy cô giáo cũng chẳng
hơn gì. Nhớ ngày xưa các thầy của tôi đứng trên bục giảng
oai phong biết mấy, quần áo tươm tất, cà vạt hẳn hoi. Làm sao
tôi quên được hình ảnh đó của các thầy cô: Trương Thị Thúy,
Mai văn Bộ, Hoàng Vinh, Hà Thúc Lễ, Vĩnh Linh, Lâm sĩ Hồng, Hồ
Sĩ Hùng, Lê văn Nghĩa, Nguyễn văn Hương, Nguyễn Tàu, Lê Chương,
Ðức Cha Lê Văn Aán, Cha Vũ Như Huỳnh, những người dìu dắt tôi
cho tôi những kiến thức để sống với đời, những căn bản đạo
đức để sống với người. Bao giờ trong tôi các thầy cũng để
lại một sự kính trọng không thể phai nhạt được. Sau một vòng
thăm lại các trường cũ trở về, vợ chồng tôi ngậm ngùi đau xót,
Ðà Nẵng của tôi tang thương như vậy sao, tâm trạng vợ chồng
tôi lúc ấy giống như Trần Doãn Nho đã viết: " Tôi đi trên
thành phố thân thương mà như đang phiêu du ở vùng đất xa lạ”,
hoặc " Tôi sống giữa quê hương mà như người khách lạ.".
Nơi đó cũng còn lại những người bạn học cùng tôi thuở nào:
Liêu, Ký, Bích, Dũng, Quang, Kim Sơn, Hường, Trang , Thùy Dương,
Nga,Thư. Mỗi lần có dịp về lại Ðà Nẵng họ tiếp đón tôi như
một người thân. Bạn trai, bạn gái trong tiệc rượu nâng ly cụng
với nhau chẳng nệ hà, sống lại với nhau những ngày xa cũ.
Tôi ở vùng ngoại ô Boston, Bạn của tôi là mấy ông Quảng Nam rất
cực đoan ở cách xa nhau, họ cho tôi là thứ Quảng Nam mất gốc bởi
cái tính ba phải cả nể của mình, "thằng mô không phải là
chưởi dô mẹt hắn, chớ đừng nhân nhượng ốt dột như rứa".
Chỉ có Trần Trung Ðạo hay bênh vực cho tôi, không có bao nhiêu người
mà mỗi lần gặp nhau cãi nhau như mỗ bò. Thế nhưng tuần nào có
làm món ăn Quảng Nam là gọi nhau ơi ới, nhà anh Dư Mỹ hay nấu
những món đặc sản Quảng Nam và vợ chồng tôi là khách thường
xuyên. Nhà anh Nguyễn Ngọc Thanh thì hay sưu tầm các loại mắm Quảng
Nam, cho đến bây giờ tôi cũng không biết làm cách nào mang các thứ
ấy vào Mỹ, những thứ mắm cái cá nục, cá cơm còn nguyên con đỏ
au mùi vị y chang như mắm ở ngoài mình, quý lắm thân thiết lắm
như tôi với anh Dư Mỹ mới được xớt một chút ít. Ở quê
mình vài con mắm một trái ớt là xong bữa cơm, chẳng cần chi cao
lương mỹ vị, quả thật dân mình quá khổ. Ði xa càng thấy nhớ
và càng thương cho những con người không thể rời bỏ quê cha đất
tổ, mồ mã ông bà. Những con người suốt cả cuộc đời bám chặt
với ruộng vườn, không màng đến vật ngon của lạ, khoai sắn là
chất độn trường kỳ. Ngồi đây mỗi lần nghe tin bên quê nhà gặp
thiên tai bão lụt là lòng tôi thóp lại, cái cảnh màn trời chiếu
đất khi còn nhỏ đã chứng kiến tự nhiên hiện lên trước mắt
tôi, chỉ còn biết cách cầu trời khẩn phật cho quê tôi sống
bình yên. Ðó là điều rất khó bởi lẽ giãi đất Miền Trung
nơi chịu nhiều tai họa, chỉ có nhiều hay ít, chứ không thể
nào có bình yên thật sự.
Ðà Nẵng của tôi, làm sao tôi trang trải hết được tấm lòng của
đứa con xa xôi, nghĩ về quê me…ï Trên những giòng chữ làm sao
tôi mô tả sự dấu yêu, thương cảm, mà tôi đã dành hết cho
giãi đất chôn nhau, cắt rốn thân yêu nầy. Chữ nghĩa của tôi cũng
hạn hẹp, không đủ, thì làm sao tôi diễn đạt những điều ray
rức của nhớ mong trên những trang giấy. Thôi thì, có viết thêm
cũng không thể nào viết hết. Ðà Nẵng cho tôi xin cúi đầu từ
biệt…
Phan Xuân Sinh
Boston, mùa hạ 1998