Minh Mạng Và Thành Phố Ðà Nẵng *
Nguyễn Văn Xuân

Ngày trước ít khi nghe ai gọi hai địa danh Hội An và Ðà Nẵng. Nhân dân địa phương Quảng Nam gọi là Phố (Hội An) và Hàn (Ðà Nẵng). "ra Hàn, xuống Phố" luôn luôn được nhắc nhở ở cửa miệng mọi người. Ðà Nẵng là cửa biển, còn Hàn là con sông chảy qua vùng Ðà Nẵng. Ta đọc đoạn này trong sử sẽ thấy rõ về ngày quan trọng của vua Minh Mạng năm 1825.

" Ngài ngự thuyền qua dinh Quảng Nam, ngày Ất Vị từ kinh sư ra đi. Ngày Ðinh Dậu qua núi Hải Vân rồi đi biển đến cửa Ðà Nẵng. Bây giờ có tàu buôn Thái Tây nghe thuyền ngài đến, phát 21 tiếng súng mừng, là theo quốc tục lễ mừng vua. Ngài khiến đem trầu
và rượu ra cho. Ngày Mậu Tuất thuyền ngài đến bến Hòa Quế, ngự lên núi Ngũ Hành. Ngày Canh Tỵ đến dinh Quảng Nam, tha thuế thân toàn hạt ấy 10 phần cho 3 phần. Ngày Qúi Mão trở về" (Quốc Triều Chánh Biên, tr129).

Lần theo các chi tiết trên ta thấy lịch trình cuộc tuần thú của vua Minh Mạng: từ kinh sư mất ba ngày mới qua núi Hải Vân bằng đường núi và đường biển mới đến cửa Ðà Nẵng. Cửa này còn có tên là Vũng Thùng, Ðông Long Loan hoặc cửa Hàn. Ở tại Ðà Nẵng một ngày có đi thăm nhà Công Quận nơi tiếp các phái bộ ngoại quốc, tại Hải Châu chính xã còn lưu lại một quả chuông đúc vào thời này như một kỷ niệm trọng thể. Hôm sau, ngày Mậu Tuất đến bến Hóa Khê còn lưu lại tên bến Ngự. Nhà vua ngự trên núi Non Nước mà ông đã đặt tên là Ngũ Hành Sơn bao hàm các ngọn cũ có tên núi Tam Thai với các tên mới Kim, Mộc,Thủy, Hỏa, Thổ. Nhà vua ở luôn tại đó hai ngày và tổ chức việc phát triển chùa chiền, hang động, vv...với những tên còn gọi đến ngày nay. Nhà vua muốn truyền bá Phật Giáo một cách có qui mô cực lớn ở khu vục mà ông cho "Ðịa Linh Nhân Kiệt". Ông đã làm mới hoàn toàn cảnh sắc chùa Non Nước và núi Tam Thai cũ. Ngũ Hành Sơn ngoài nơi thờ phụng Phật Giáo còn là khu vực du lịch tiếng tăm khắp nước. Tỉnh Quảng Nam bấy giờ những nơi được gọi là danh lam thắng cảnh kết hợp với nhau thành Hành Sơn -Sài Thị hoặc Hành Lãnh Sài Giang. Trong giới học thức nhiều khi người ta cũng gọi nhà nho Quảng Nam là người Ngũ Hành Sơn.

Hai ngày sau vua Minh Mạng đến dinh Quảng Nam. Tại đây ông nhận thấy Hội An đã xuống cấp sau chiến tranh với Tây Sơn chuẩn bị hủy bỏ dinh trấn ở Thành Chiêm lập tại đó trường học với quy mô một trường đại học và lập cơ sở Khổng Miếu đồ sộ. Chắc vua đã nghỉ ngơi suốt bốn ngày tại hành cung tọa lạc giữa làng (nơi nhà ông Miên). Việc ông quan tâm nhất là lập thành mới theo kiểu thành Vauban tại làng La Qua. Chúng ta sở dĩ biết những dự định này do ông đề ra vì ngoài những kinh nghiệm chiến tranh với Tây Sơn ông còn đặc biệt lưu ý tới việc xuất khẩu hàng hóa địa phương sang các nước nay gọi ASEAN. Do đó, sông Câu Nhí được đào để nối tiếp sông Chợ Củi (tức là sông Thu Bồn ra thành phố Hàn). Nói cách khác, nhà vua muốn giành lại quyền xuất khẩu trong tay người Hoa kiều tại Hội An cực kỳ phồn thịnh ngày xưa, và ngày nay đã có phần xuống cấp trên thương trường đối ngoại, đồng thời sông này sẽ giúp cho việc dẫn thủy nhập điền trên một vùng rộng lớn dài khoảng dưới 30 cây số. Sông bắt nguồn từ vùng Câu Nhí và rút nước từ sông Chợ Củi (Thu Bồn). Tại dinh trấn Thanh Chiêm cũ cách đấy 3 cây số về hướng nam vẫn còn lưu lại một cái chợ khá phồn thịnh tên là Chợ Củi chuyên bán củi và nước ngọt cho các thương thuyền trong và ngoài nước.Trên kia chúng ta đã gặp các địa danh Sài Thị, Sài Giang là chỉ chợ này với sông này.

Sông Chợ Củi có lẽ là con sông sâu và rộng vào loại bậc nhất của miền Trung. Nó chảy qua những vùng trù phú, có lâm thổ sản nhiều và qúy vẫn thường được người địa phương tấp nập chở trên các loại thuyền lớn nhỏ cho Hoa thương ở Hội An phồn thịnh, phần lớn là nhờ sự cống hiến của con sông nổi tiếng này.

Minh Mạng là ông vua rất biết gía trị của các dòng sông mà nổi bật là sông Vĩnh Tế trong nam mà cùng lúc này đang còn đào đoạn cuối là 1.700 trượng dưới quyền lãnh đạo của Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu với sự đóng góp tích cực của vua Chân Lạp cũng như hiện nay đang đào sông Vĩnh Ðịnh ở Quảng Trị . Sông Câu Nhí hay sông Vĩnh Ðiện ngoài việc tưới nước và giao thông còn có mục đích khác hơn bất cứ triều đại nào là mở công cuộc xuất khẩu như ta đã biết. Nhà vua xem thấy đường sông hẹp nên khiến đào cho rộng và sâu. Cũng như trên Ngũ Hành Sơn , ông tự tay đo đạt và ghi chép cẩn thận.  Ông cũng không ngần ngại cách chức các võ quan cao cấp nhất lãnh đạo dân phu đào sông mà ông đã từng ra lệnh thực hiện từ các năm trước. Thật ra, từ thời Gia Long đã có lệnh đào sông này nhưng không thành. Còn lưu lại câu ca dao:

Biết bao giờ trả cho hết nợ Cao Hoàng
Ðào sông Câu Nhí đắp đàng Bông Miêu


Minh Mạng đã chuẩn bị chu đáo cho việc xuất khẩu và quản trị như năm 1822, cấp tiền công ứng trước cho dân nấu đường ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, từng bước lập các kho tại Ðà Nẵng để chứa đường với nội qui chặt chẽ, luật lệ phân minh. Ðể bảo vệ Ðà Nẵng, ngoài việc đưa tỉnh thành mới thay cho tỉnh thành Thanh chiêm cũ, ông lập vào năm 1833, một kinh thành theo kiểu Vauban tại làng La Qua. Nơi này có những đội quân thường trực để ứng trực đối phó với mọi biến cố xảy ra ở cửa Ðà Nẵng. Ông đã trùng tu và sử dụng các cơ sở chiến đấu phòng thủ Ðà Nẵng với quy mô rộng lớn là củng cố thành Ðiện Hải và đài An Hải. Pháo đài của hai cơ sở quân sự này sẽ bắn chéo để chận đường âm mưu xâm nhập lãnh thổ trên cửa Ðà Nẵng và ra lệnh trực tiếp cho công cuộc phòng thủ như cuối năm 1830, biết tin người Pháp tự tiện lên núi Tam Thai (hòn Thủy của núi Ngũ Hành Sơn) ông lập tức cách chức các quan thành thủ và thủy ngử ở đất An Hải, Ðiện Hải. Ta cũng cần nhớ Ðà Nẵng bây giờ đã là tiền cảng quân sự bảo vệ kinh thành Huế. Vì những nước Âu châu muốn đánh vào kinh thành này đều phải chiếm được Ðà Nẵng rồi tùy nghi đưa quân bộ qua đường Hải Vân hoặc thủy quân với tàu nhẹ xâm nhập vào cửa biển khác của Thừa Thiên.

Ðồng thời nhà vua cũng cho thành lập các xưởng để hiện đại hóa việc đóng tàu thủy chạy bằng hơi nước. Khi công việc tiến triển tốt đẹp ông mở đầu công cuộc xuất khẩu sang các xứ Ðông Nam Á suốt đoạn cuối cuộc đời ông cho đến hết hết đời Thiệu Trị. Có nhiều hàng hóa bao gồm nhiều mặt nhưng chủ yếu vẫn là đường và quế. Ðường của ta bây giờ được thế giới cực kỳ ưa chuộng. Công việc buôn bán mỗi ngày một phát triển. Thành phố Hàn tên chính thức được gọi ít nhất là từ đầu thế kỷ XVII và theo một sĩ quan Bồ Ðào Nha là người Âu châu đến xứ Ðàng Trong sớm nhất ( có in lại trong La geste Francaise en Indochine, tập 1) thì cửa biển này có tên Hàn với người đứng đầu là chức Thủy Ngử nên có tên thủy Hàn. Ðọc theo âm Bồ Ðào Nha là Toron và đọc theo tiếng Pháp là Tourane = Tour Thủ, ane tức là Hàn. Theo Quốc Triều Chính Biên đời Ðồng Khánh năm 1888 cũng ghi rõ:

Tháng 8 đem xứ Hàn (Tourane) làm đất nhượng địa Ðại Pháp vốn là quân cảng thời Chúa Nguyễn và là tiền cảng thương mại của Hội An, năm 1825, đời Minh Mạng trở thành quân - thương cảng và cơ sở của một đô thị tự lập tập trung trước trường Thọ Nhơn cũ, gọi là Hải Phòng nha đến năm 1898 thì hủy bỏ.

Nguyễn Văn Xuân
(tạp chí Xưa & Nay)

* Trân trọng xin phép cùng cảm ơn Nhà văn Nguyễn Văn Xuân, Tạp Chí Xưa & Nay, Việt Nam / cùng nhà thơ Hà Nguyên Dũng (VN) đã chuyển bài.  Kính.