Trận Lụt Năm 1964 Tại Ðà Nẵng, Quảng Nam |
Duy Lam |
Vào
năm 1964, Quảng Nam Ðà Nẵng và các vùng phụ cận đã bị một cơn
lụt ghê gớm, có thể nói là "vô tiền khoáng hậu" và cũng
chính vào dịp này, khi bay trên trực thăng thị sát vùng quê ngoại
ngập chìm dưới làn nước lũ mênh mông cuồn cuộn, tôi mới hiểu
ra cái tinh thần kiên cường và khả năng chịu đựng mọi hậu quả
của chiến tranh và thiên tai bão lụt của khối dân nghèo xứ Quảng.
Thật khó tìm được từ ngữ để mô tả sao cho đúng.
Vì các sông chảy từ vùng núi phía tây đổ ra biển, lâu năm đất
phù sa bồi lên càng ngày càng nhiều, nên khi mưa lớn trên nguồn
đổ xuống với lưu lượng quá lớn, nước các sông sẽ dâng lên
dần vượt quá giới hạn của các lòng sông cạn và hẹp, tràn ngập
và lan mãi cho đến khi tất cả các khu vực thấp bị ngập lụt.
Cái hiện tượng lòng các sông cạn hẹp này không phải các kỷ sư
thủy lợi cấp vùng không biết, mà vì tình trạng chiến tranh và
giới hạn của ngân khoản không thể thực hiện việc nạo vét
quy mô hay mở rộng các cửa sông chảy ra biển, trong đó lớn nhất
là cửa sông Hàn, với bề rộng của lòng sông lớn hàng đầu.
Buổi sáng, hôm nước sông Hàn bắt đầu dâng lên mới đầu rất
chậm, nhưng sau đó tăng rất nhanh. Người dân Ðà Nẵng vẫn bình
tĩnh và "bình chân như vại" kéo nhau ra bờ sông quan sát
và bàn tán về mực nước và tốc lực của dòng cuốn. Rõ ràng
người Ðà Nẵng không có vẻ lo âu chút nào về nạn lụt có thể
lan đến các phố phường hai bên sông, vì đó là hiện tượng
xưa nay chưa bao giờ xảy ra. Tôi cũng dùng phà công binh để
sang Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, nhưng sang đó vì tốc lực dòng chảy bắt
đầu mạnh và nhanh, nên cuối cùng đã phải cùng vị Tư Lệnh dùng
trực thăng bốc qua sông.
Chỉ trong vài tiếng đồng hồ thôi, các tin tức của các đơn vị
đồn trú tại lãnh thổ Quảng Nam tới tấp gởi về Bộ Tư Lệnh
và càng ngày càng trở nên đe dọa và cấp bách hơn. Nhiều đơn vị
Ðịa Phương Quân đã phải dời lên các gò hoặc vùng đất cao để
tránh lụt, nhiều nhất là tại những cao điểm dọc theo con đường
xe lửa xuyên Việt. Một số trực thăng Việt Mỹ đã bắt đầu
được gởi đến một số điểm các đơn vị cầu cứu, vì hầu
như toàn thể lãnh thổ tỉnh Quảng Nam đã biến thành một biển
nước mênh mông. Trực thăng khi đến đơn vị Lữ Ðoàn Ðại Hàn
Thanh Long đã báo cáo về là Bộ Tư Lệnh của đơn vị này chỉ
còn mũi các khẩu pháo là còn thò lên trên mặt nước, còn doanh
trại cũng đã bị ngập dưới mấy thước nước.
Tại mỏ than Nông Sơn, mấy vị kỹ sư phụ trách được di tản về
Ðà Nẵng đã mô tả nước nguồn xuống nhiều và mạnh đến độ
ngấn nước dâng lên in hằn trên sườn các núi quanh mỏ than cao
có lẽ bằng một nhà cao tầng và cảnh tượng thật hãi hùng.
Trên đường bay về Ðà Nẵng, các kỹ sư còn báo cáo là hầu hết
các làng xã ở Quảng Nam đều bị ngập dưới nước và nhiều
nhà cửa bị cuốn trôi với nhiều người dân bám vào hoặc ngồi
trên những nóc nhà đang bị nước cuốn ra phía cửa biền. Ở Bộ
Tư Lệnh Sư Ðoàn, tuy đa số các đơn vị quân đội đã được
di tản an toàn và tổn thất về sinh mạng và quân dụng tuy có, nhưng
không đến mức đáng lo ngại lắm, nhưng quân đội đã hầu như
bó tay bất lực trong nổ lực cứu dân, vì chỉ có trực thăng là
có thể được xử dụng còn các phương tiện tương đối lớn của
công binh và hải quân đều không dám phiêu lưu rời nơi neo, vì
dòng cuốn quá mãnh liệt, không một tàu nào đủ mạnh để mạo
hiểm vượt sông Hàn. Tất cả chỉ còn trông cậy vào số trực
thăng của các đơn vị đồng minh. Phi đoàn trực thăng của Không
Ðoàn Việt Nam chỉ vỏn vẹn không quá 10 chiếc Sikovsly cũ kỹ với
động cơ nổ.
Vào buổi chiều ngày đầu tiên, tôi đã dùng xe jeep chạy dọc
trên đường Bạch Ðằng để quan sát và nhận thấy nước sông
chảy xiết và nhanh hơn tốc lực khoảng trên 30 km của xe. Tôi cũng
như tất cả dân Ðà Nẵng tụm năm, tụm ba trên bờ, đều chứng
kiến với sự ngạc nhiên và bất lực. Ðứng nhìn tất cả những
mái nhà, thuyền bè và người bị cuốn bám vào các sà gỗ, tất
cả đều bị cuốn vùn vụt theo dòng cuốn đổ ra biển. Ðôi khi
một vài chiếc thuyền lớn dạt vào bờ và vỡ nát thành nhiều mảnh,
vì sức đẩy quá mạnh của nước khi thuyền đâm vào bờ xi măng.
Không một chiếc tàu hay lớn nào dám chạy trên sông, và tôi nhớ
chỉ rất ít những người may mắn dạt vào bờ, được dân kéo
lên cứu thoát.
Tôi nhớ vào sáng thứ ba của cơn lụt, tôi và rất nhiều người
dân trên đường Bạch Ðằng đã chứng kiến một cảnh tượng chắc
khó quên và không thể tưởng tượng có thể xảy ra, khi một
khúc của chiếc cầu sắt Eiffel độc nhất bắc qua sông Hàn ở
khúc gần Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn từ từ ngã sang một bên rồi đổ
xuống sông, giống như một cảnh quay chậm trong một cuốn phim chiến
tranh. Cả năm về sau công ty Eiffel đã xây và dựng lại khúc cầu
bị bão lụt tàn phá nầy, trong khi lực lượng công binh Mỹ cũng
đồng thời bắt một chiếc cầu quân sự khá lớn cũng ở khúc
sông nầy, có thể dùng để xe quân sự di chuyển hai chiều.
Việc sửa cầu sắt
hoàn tất chậm hơn, nên cầu Mỹ kiến tạo đã được khánh
thành trước cầu Pháp. Khi dùng xe jeep đi qua cầu Mỹ vào buổi
khánh thành, tôi nhớ lại với nụ cười cái búa "cổ lổ sĩ"
đóng cọc của công ty Pháp chạy lọc cọc, và lâu lâu khối búa
được kéo lên mới rơi xuống đóng vào đầu cọc, trong khi cái
búa hơi ép của Mỹ đập lên xuống liên hồi hàng vài chục cái
cũng trong cùng một thời gian một nhát búa của Pháp. Quả thật,
qua đó tôi có ý thức là khoảng cách về kỹ thuật chiến tranh
giữa hai cuộc chiến Pháp rồi Mỹ tham dự trên cái mảnh đất chữ
S nhỏ bé nầy quả là cách biệt.
Tôi cũng cùng với các đoàn thể hội đoàn Ðà Nẵng thành lập một
Ủy Ban Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt. Thật ra quyên góp chẳng được
bao nhiêu mà nhiệm vụ chính là phân phối đồ cứu trợ của các
lực lượng đồng minh cho gia đình hơn năm nghìn người dân xứ
Quảng tử nạn.
Sự tàn phá của trận lụt đến tài sản và mùa màng, nhà cửa của
dân Quảng quả thật khó lượng định, vì quá lớn và nói cho đúng
dân nghèo đã trắng tay một lần nữa trước thiên tai với cường
độ chưa từng thấy tại cái vùng đất từng đã chịu biết bao
trận bão lụt trước đây.
Duy Lam
(trích :
"Những Thành Phố Tôi Ðã Sống Qua" Hồi ký, sắp xuất bản)
ghi chú: Bài này đã phổ biến trên Ðặc San Quảng Nam Ðà Nẵng do hội Quảng Ðà Dallas-FortWorth ấn hành năm 2001, dưới đề bài: "Nhắc Lại Trận Lụ Khủng khiếp năm 1964 tại Quảng Nam Ðà Nẵng"